1. 19
ngẫu TN, giống như trường hợp cấp điện qua cuộn kháng. Sau cùng tiến hành đóng
cầu dao CD2 đưa điện áp định mức Udm vào cực động cơ.
Nếu biến áp tự ngẫu TN giảm điện áp mở máy động cơ đi kTN lần, thì dòng điện
mở máy trong động cơ hay ở phía hạ áp HA của biến áp tự ngẫu Imm cũng bị giảm đi
kTN lần, còn dòng điện mở máy phía cao áp CA của máy biến áp tự ngẫu hay ở phía
lưới điện Imm bị giảm đi k2
TN lần. Mô men mở máy của động cơ tỷ lệ với điện áp mở
máy, cũng bị giảm đi k2
TN lần.
c) Mở máy bằng cách đổi nối tam giác – sao
Phương pháp mở máy bằng cách đổi nối sao - tam giác (hình 2.7) chỉ dùng
thích hợp cho các động cơ điện lúc làm việc bình thường dây quấn stator đấu ∆.
Hình 2.7. Sơ đồ mở máy động cơ điện không đồng bộ
rôto lồng sóc bằng cách đổi nối sao - tam giác.
Khi mở máy tiến hành đóng cầu dao CD2 trên hình 2.7 sang trái, ứng với vị trí
mở máy, làm cho dây quấn stator đấu sao (Y); còn khi tốc độ động cơ đạt đến định
mức phải nhanh chóng đóng cầu dao CD2 sang bên phải, ứng với vị trí làm việc, để
dây quấn stator đấu lại thành sao (∆).
So với khi mở máy trực tiếp với dây quấn stator đấu ∆, phương pháp mở máy
này giảm được điện áp pha dây quấn stator … lần, mô men mở máy giảm 3 lần, dòng
điện mở máy trong mỗi pha dây quấn stator giảm … lần, còn dòng điện mở máy phía
lưới điện giảm 3 lần.
2.3.2.3. Mở máy động cơ điện không đồng bộ rôto dây quấn bằng biến trở mở
máy
Động cơ điện rôto dây quấn ít được dùng hơn so với động cơ điện rôto lồng
sóc. Chúng được sử dụng trong các trường hợp sau:
- Khi các động cơ điện rôto lồng sóc không đáp ứng được các yêu cầu về điều
chỉnh tốc độ quay.
- Khi mở máy với mô men cản tĩnh Mc trên trục lớn, động cơ điện không đồng
bộ rô to lồng sóc không thể mở máy được bằng phương pháp điện áp thấp, còn mở
máy trực tiếp thì dòng điện mở máy lại quá lớn, không đảm bảo.