Mặc dù có nhiều nghiên cứu sâu về xoắn tinh hoàn những vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về các yếu tố nguy cơ cũng như các yếu tố thuận lợi của bệnh. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm tìm ra các yếu tố nguy cơ có liên quan đến xoắn tinh hoàn .
1. XOẮN TINH HOÀN VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ
Nguyễn Hoài Bắc, Nguyễn Phương Hồng và CS
Tóm tắt:
MỤC TIÊU: Mặc dù có nhiều nghiên cứu sâu về xoắn tinh hoàn những vẫn
chưa có nhiều nghiên cứu về các yếu tố nguy cơ cũng như các yếu tố thuận lợi
của bệnh. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm tìm ra các yếu tố
nguy cơ có liên quan đến xoắn tinh hoàn .
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP: Nghiên cứu hồi cứu mô tả trên những
bệnh nhân được chẩn đoán xác định là xoắn tinh hoàn tại bệnh viện Việt Đức từ
năm 2005 đến năm 2010.
KẾT QUẢ: Tổng số 63 bệnh án đáp ứng đủ tiêu chuẩn lựa chọn của nghiên cứu
đã được đưa vào phân tích. Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 22 tuổi.
Hầu hết các trường hợp không rõ nguyên nhân (81%), một số ít xảy ra sau chấn
thương, sau phẫu thuật nội soi và sau quan hệ tình dục. Mùa đông và mùa xuân
là hai mùa có tỉ lệ mắc bệnh cao nhất trong năm, với tỉ lệ mắc tương ứng là
47,6% và 25,4%. Còn lại mùa thu có tỉ lệ mắc bệnh là 14,3% và mùa hè có tỉ lệ
là 12,7%. Sự khác biệt về tỉ lệ mắc bệnh vào mùa đông-xuân với mùa hè-thu là
có ý nghĩa thống kê với p< 0,005. Người mang nhóm máu B có tỉ lệ mắc bệnh
nhất, 50,8%. Tiếp sau đó là người mang nhóm máu O, có tỉ lệ là 33,3%. Tuy
nhiên, sự khác biệt về tỉ lệ mắc bệnh giữa các nhóm máu là không có ý nghĩa
thống kê.
KẾT LUẬN: Có nhiều yếu tố nguy cơ thúc đẩy xoắn tinh hoàn xảy ra, trong đó
chấn thương, phẫu thuật nội soi và hoạt động tình dục là các yếu tố thường thấy.
Ngoài ra, mùa đông là mùa thuận lợi của xoắn tinh hoàn và những người mang
2. nhóm máu B là những người có nguy cơ mắc xoắn tinh hoàn nhiều hơn. Cần
tiến hành các nghiên cứu sâu rộng hơn nữa để khẳng định mối liên quan này.
Summary:
TESTICULAR TORSION AND ITS RISK FACTORS
OBJECTIVES: The risk factors for acute testicular torsion are poorly
understood. We sought to determine if there are any potential risk factors
impact the incidence of testicular torsion.
PATIENTS AND METHODS: A retrospective review of medical records of
patients who underwent scrotal exploration for testicular torsion at Viet Duc
university hospital from 2005 to 2010 was performed
RESULTS: Data for 63 eligible medical records of patients with testicular
torsion was available for analysis. The median age of the patients was 22 years.
Most of the cases were unknown causes, accouting for 81% (56 of 63 patients).
A small number of cases were induced by trauma, laparoscopy, and by sexual
activity. The seasons with the highest incidences of testicular torsion were
winter (47, 6%) and spring (25, 4%). The incidences occurred in the fall and
summer were 14, 3% and 12, 7%, respectively. There was a statistically
significant difference in the occurrence of testicular torsion between the winter-
spring and the summer-fall seasons (p< 0,005). Patients with the B-blood group
and O-blood group had hight risk of testicular torsion with the incidence of 50,
8% and 33, 3%, respectively; however, no statistically significant differences
were seen with regard to blood- group occurrence of acute torsion.
CONCLUTIONS: The risk factors for acute testicular torsion are poorly
understood, but some recognized risk factors including trauma, laparoscopy,
and sexual activity are seen in this study. The winter-spring season and B-blood
3. group could have some role in the incidence and aetiology of testicular torsion.
An extensive prospective study is needed to establish these associations.
4. I- Đặt vấn đề
Xoắn tinh hoàn là một bệnh lí cấp cứu trong tiết niệu ở cả người lớn và
trẻ em. Nếu bệnh không được phát hiện và xử lí kịp thời trong vòng 6 giờ thì
khả năng teo tinh hoàn hoặc phải cắt bỏ tinh hoàn là rất lớn [1]. Mặc dù có
nhiều nghiên cứu về cơ chế gây bệnh cũng như chức năng của tinh hoàn sau khi
bị bệnh [2, 3] nhưng những nghiên cứu về các yếu tố dịch tễ góp phần thúc đẩy
bệnh xảy ra lại vẫn chưa có nhiều trong y văn.
Quan niệm trước đây cho thấy sự bất thường về giải phẫu của màng tinh
hoàn, thừng tinh hay cơ bìu là những yếu tố thuận lợi cho xoắn thừng tinh xảy
ra [4, 5]. Các yếu tố như chấn thương [5], một số hoạt động như đạp xe đạp, bơi
lội, trượt tuyết, hay thậm chí là hoạt động tình dục quá mạnh cũng làm xoắn
thừng tinh trên những tinh hoàn không được cố định tốt trong bìu [6]. Tuy nhiên
trong thực tế thì phần lớn các trường hợp đều không rõ các yếu tố dịch tễ gây
bệnh.
Gần đây hơn phản xạ co cơ bìu liên quan đến các yếu tố môi trường như
thời tiết lạnh, độ ẩm cao và áp suất khí quyển thấp cũng đã được nhiều tác giả
đề cập đến như là một trong các yếu tố nguy cơ của xoắn tinh hoàn [7-10]. Các
yếu tố thời tiết như trên làm cho cơ bìu phản ứng co bóp mạnh hơn, đây được
cho là một trong các yếu tố thuận lợi cho xoắn tinh hoàn xảy ra.
Trong khi hầu hết các nghiên cứu đánh nhằm tìm ra các yếu tố nguy cơ
của xoắn tinh hoàn được tiến hành ở nhiều nước khác nhau trên thế giới thì tại
Việt Nam vẫn chưa có nghiên cứu tương tự nào. Hơn nữa, Việt Nam là một
nước nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, khí hậu của miền Bắc Việt Nam khá
tiêu biểu của đới khí hậu này; mùa hè nóng, mưa nhiều nhưng mùa đông lạnh,
mưa ít. Rõ nét nhất là khác biệt lớn về nhiệt độ thời tiết giữa mùa hè và mùa
đông. Có thể sự khác biệt lớn này sẽ làm tăng mối liên quan giữa xoắn tinh hoàn
và các yếu tố thời tiết ở Việt Nam.
5. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành một nghiên cứu hồi cứu trên các hồ sơ
bệnh án của những bệnh nhân nhập viện vì xoắn tinh hoàn tại bệnh viện Việt
Đức từ năm 2005 đến 2010 nhằm tìm ra các yếu tố nguy cơ và các yếu tố thuận
của bệnh.
6. II- Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu hồ sơ bệnh án của những bệnh
nhân được chẩn đoán xác định là xoắn tinh hoàn và được điều trị bằng phẫu
thuật tại bệnh viện Việt Đức từ tháng 1 năm 2005 đến tháng 12 năm 2010.
Những bệnh nhân không có chẩn đoán xác đinh xoắn bằng phẫu thuật,
những bệnh nhân xoắn tinh hoàn tạm thời, những bệnh nhân xoắn mấu phụ tinh
hoàn hoặc mào tinh hoàn và xoắn tinh hoàn ở trẻ em nhũ nhi bị loại trừ ra khỏi
danh sách nghiên cứu.
Các số liệu liên quan đến tuổi của bệnh nhân, mùa trong năm, các yếu tố
làm khởi phát bệnh và nhóm máu được thu thập. Chúng tôi xác định tỉ lệ mắc
bệnh theo mùa, các yếu tố làm khởi phát bệnh,và nhóm máu. So sánh sự khác
biệt về tỉ lệ này theo phương pháp thống kê y học sử dụng phần mềm SPSS 13.
Với p <0,05 được coi là có ý nghĩa thống kê.
7. III- Kết quả nghiên cứu
1- Tuổi nhóm nghiên cứu
Từ năm 2005 đến năm 2010 chúng tôi đã lựa chọn được 63 bệnh án của
những bệnh nhân xoắn tinh hoàn, đủ tiêu chuẩn nghiên cứu được điều trị tại
khoa Tiết niệu bệnh viện Việt Đức. Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân
nghiên cứu là 22 tuổi. Người có tuổi thấp nhất là 5 và cao nhất là 47, nhưng tập
chung chủ yếu từ 16-25 tuôi (66,7%%).
Biểu đồ 1. Phân bố bệnh nhân theo các lứa tuổi
2- Sự phân bố bệnh theo các yếu tố nguy cơ
Bảng 1 cho thấy tỉ lệ mắc bệnh theo các yếu tố ngu cơ. Phần lớn các
trường hợp bệnh xảy ra không rõ nguyên nhân. 7 trường hợp xoắn tinh hoàn xảy
ra trên một tinh hoàn có tiền sử sưng đau cấp tính nhiều lần. Có 3 trường hợp
xảy ra sau tai nạn sinh hoạt, 1 trường hợp xảy ra sau phẫu thuật nội soi ổ bụng
và 1 trường hợp xảy ra sau quan hệ tình dục.
8. Bảng 1: Các yếu tố nguy cơ của xoắn tinh hoàn
Các yếu tố nguyên nhân Số lượng bệnh nhân Tỉ lệ %
Không rõ 51 81
Nhiều đợt sưng đau tinh hoàn 7 11,1
Sau phẫu thuật nội soi 1 1,6
Sau quan hệ tình dục 1 1,6
Sau tai nạn sinh hoạt 3 4,7
Tổng số 63 100
3- Sự phân bố bệnh theo mùa
Biểu đồ 2 cho thất tỉ lệ mắc bệnh theo bốn mùa trong một năm. Tỉ lệ mắc
bệnh cao nhất là mùa đông (30/63, 47,6%), đứng hàng thứ 2 là mùa xuân
(16/63, 25,6%), còn lại là mùa hè và mùa thu có tỉ lệ gần tương đương nhau. Sự
khác biệt về tỉ lệ mắc bệnh giữa mùa đông-xuân và hè-thu là có ý nghĩa thống
kê, với p< 0,005.
Biểu đồ 2: Sự phân bố bệnh theo mùa
4- Sự phân bố bệnh theo nhóm máu.
9. Tương tự như mùa trong năm biểu đồ 3 cho thất tỉ lệ mắc bệnh theo bốn
nhóm máu trong hệ thông nhóm máu ABO. Biểu đồ này cho thấy người có
nhóm máu B có tỉ lệ mắc bệnh cao nhất (50,8%, 32/63), đứng hàng thứ 2 là
người có nhóm máu O với tỉ lệ (33,3%, 21/63), người có nhóm máu A chiếm tỉ
lệ 15,9% (10/63). Không có người nào mang nhóm máu AB.
Biểu đồ 3: Phân bố tỉ lệ mắc bệnh theo các nhóm máu
10. IV- Bàn luận
1- Các yếu tố nguy cơ của xoắn tinh hoàn.
Phần lớn các trường hợp không rõ nguyên nhân, có 03 trường hợp xảy ra
xoắn tinh hoàn sau các chấn thương. Chấn thương bìu do tai nạn lao động, tai
nạn sinh hoạt hay tai nạn giao thông làm co bóp đột ngột của cơ bìu xung quanh
thừng tinh theo kiểu xoắn vặn và kết quả làm cho tinh hoàn quay và xoắn theo
chiều mà lực tác động vào xung quanh trục của nó. Cả 03 trường hợp của chúng
tôi là do tai nạn giao thông. Theo y văn thế giới tỉ lệ xoắn tinh hoàn do chấn
thương vào khoảng 5%- 8%[5].
Đặc biệt trong nghiên cứu của chúng tôi, có một trường hợp xảy ra xoắn
tinh hoàn ngay sau khi phẫu thuật nội soi ổ bụng để điều trị viêm ruột thừa.
Nhưng rất tiếc mặc dù bệnh xảy ra trong thời gian hậu phẫu tại bệnh viện nhưng
mãi tới ngày thứ 5 bệnh mới được phát hiện nên đã phải cắt bỏ tinh hoàn. Xoắn
tinh hoàn sau phẫu thuật nội soi ổ bụng là một biến chứng hiếm của loại phẫu
thuật này. Năm 2002, Mincheff và cộng sự cũng thông báo một trường hợp
xoắn tinh hoàn xảy ra sau phẫu thuận nội soi điều trị thoát vị bẹn [11].
Ngoài ra chúng tôi gặp một trường hợp xoắn tinh hoàn xảy ra sau hoạt
động tinh dục 30 phút. Mặc dù xoắn tinh hoàn sau hoạt động tình dục mạnh mẽ
đã được nhắc đến trong các tài liệu kinh điển [6], nhưng theo nhận thức của
chúng tôi thì đây là một trong số các trường hợp hiếm được thông báo. Có lẽ
hoạt động tình dục làm tăng hoạt động co bóp của hệ thống cơ bìu bao phủ
quanh thừng tinh và tinh hoàn cùng với hệ thống đường dẫn tinh nên đã dẫn đến
hiên tượng xoắn vặn thừng tinh và tinh hoàn trên một cơ địa có các bất thường
về giải phẫu các bộ phận cố định tinh hoàn trong bìu như bất thường hình “con
lắc chuông” của hệ thống mạc bìu.
2- Sự liên quan theo mùa trong năm
11. Mặc dù các nghiên cứu ở Anh và ở Nhật Bản đã khẳng định mối liên
quan giữa thời tiết lạnh và nhiệt độ áp suất khí quyển thấp với xoắn tinh hoàn,
nhưng vẫn chưa có nghiên cứu nào tìm thấy mối liên hệ giữa bệnh và các mùa
trong năm [7, 8]. Gần đây hơn, hai nghiên cứu đánh giá mối liên quan giữa các
yếu tố thời tiết với xoắn tinh hoàn tại hai vùng của nước Mỹ là vùng Đông
Nam và vùng Đông Bắc cũng cho kết quả tương tự [9, 10]. Trong các nghiên
cứu này, các tác giả đã không tìm thấy sự thay đổi có ý nghĩa thống kê nào về tỉ
lệ mắc bệnh theo các mùa. Điều này có thể là do khí hậu của vùng Đông Nam
nước Mỹ tương đối ổn định, còn tại vùng Đông Bắc tuy có sự chênh lệch nhiệt
độ giữa các mùa nhưng sự chênh lệch này không đủ lớn để có thể làm thay đổi
tỉ lệ mắc bệnh. Theo chúng tôi cả Anh, Mỹ và Nhật Bản đều có đới khỉ hậu nằm
trong đới ôn đới, nên sự chênh lệch về nhiệt độ giữa các mùa không lớn để tạo
ra sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ mắc bệnh giữa các mùa. Ngược lại,
Việt Nam là một nước nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ không khí
trung bình hàng nǎm là 23,6ºC, độ ẩm và lượng mưa khá lớn do chịu ảnh hưởng
của biển. Khí hậu của miền Bắc Việt Nam khá tiêu biểu của khí hậu nhiệt đới
gió mùa. Sự chênh lệch nhiệt độ giữa mùa hè và mùa đông khá lớn. Nhiệt độ
trung bình của mùa hè (từ tháng 5 đến tháng 9) là 29,2ºC trong khi đó nhiệt độ
trung bình về mùa đông (từ tháng 11 đến tháng 3 nǎm sau) chỉ là 15,2ºC [12].
Chúng tôi suy luận rằng với sự thay đổi về nhiệt độ giữa các mùa trong năm lớn
như vậy sẽ làm cho phản xạ co cơ bìu mạnh mẽ là một yếu tố thuận lợi cho
xoắn tinh hoàn xảy ra hơn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, tỉ lệ
xoắn tinh hoàn vào mùa đông chiếm tỉ lệ cao nhất và sự khác biệt về tỉ lệ này
giữa màu đông và các mùa còn lại là có ý nghĩa thống kê. Nếu như kết quả
nghiên cứu của chúng tôi được khẳng định bằng các nghiên cứu tiến cứu với các
biến số như nhiệt độ ngoài trời lúc bệnh nhân đến nhập viện, áp suất khí quyển
và độ ẩm, và được thực hiện trên một số lượng bệnh nhân đủ lớn thì yếu tố mùa
có thể được coi là yếu tố thuận lợi thúc đẩy xoắn tinh hoàn xảy ra nhiều hơn. Và
12. nếu thực sự như vậy thì nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu đầu tiền đề nghị
yếu tố thuận lợi này.
3- Phân bố bệnh theo nhóm máu
Phải chăng nhóm máu có liên quan tới xoắn tinh hoàn? Trong nghiên cứu
này chúng tôi thấy người mang nhóm máu B là những người có nguy cơ mắc
bệnh cao nhất (50,8%), nhưng ngược lại người có nhóm máu AB lại ít có khả
năng mắc hơn (0 người). Tuy nhiên điểm qua y văn trong và ngoài nước chúng
tôi thấy chưa có tài liệu nào nói về sự liên quan giữa nhóm máu với khả năng
mắc xoắn tinh hoàn. Nếu như kết quả của chúng tôi là đúng với một quần thể
dân số lớn thì nhóm máu cũng có thể là một trong các yếu tố nguy cơ cho mắc
bệnh xoắn tinh hoàn. Và đây cũng là lần đầu tiên sự liên quan của nhóm máu
với xoắn tinh hoàn được cảnh báo.
Kết luận
Có nhiều yếu tố nguy cơ thúc đẩy xoắn tinh hoàn xảy ra, trong đó chấn
thương, phẫu thuật nội soi và hoạt động tình dục là các yếu tố thường thấy.
Ngoài ra, mùa đông là mùa thuận lợi của xoắn tinh hoàn và những người mang
nhóm máu B là những người có nguy cơ mắc xoắn tinh hoàn nhiều hơn. Cần
tiến hành các nghiên cứu sâu rộng hơn nữa để khẳng định mối liên quan này.
13. Tài liệu tham khảo
1. Whitaker, R.H., Diagnoses not to be missed. Torsion of the testis. Br J Hosp Med,
1982. 27(1): p. 66-9.
2. Romeo, C., et al., Late hormonal function after testicular torsion. J Pediatr Surg.
45(2): p. 411-3.
3. Visser, A.J. and C.F. Heyns, Testicular function after torsion of the spermatic cord.
BJU Int, 2003. 92(3): p. 200-3.
4. Sidhu, P.S., Clinical and imaging features of testicular torsion: role of ultrasound. Clin
Radiol, 1999. 54(6): p. 343-52.
5. Bhatt, S. and V.S. Dogra, Role of US in testicular and scrotal trauma. Radiographics,
2008. 28(6): p. 1617-29.
6. Noske, H.D., et al., Historical milestones regarding torsion of the scrotal organs. J
Urol, 1998. 159(1): p. 13-6.
7. Shukla, R.B., et al., Association of cold weather with testicular torsion. Br Med J (Clin
Res Ed), 1982. 285(6353): p. 1459-60.
8. Hoshino, H., et al., [Correlation between atmospheric temperature and testicular
torsion]. Hinyokika Kiyo, 1993. 39(11): p. 1031-3; discussion 1033-4.
9. Williams, C.R., K.J. Heaven, and D.B. Joseph, Testicular torsion: is there a seasonal
predilection for occurrence? Urology, 2003. 61(3): p. 638-41; discussion 641.
10. Srinivasan, A.K., et al., Climatic conditions and the risk of testicular torsion in
adolescent males. J Urol, 2007. 178(6): p. 2585-8; discussion 2588.
11. Mincheff, T., B. Bannister, and P. Zubel, Focal testicular infarction from laparoscopic
inguinal hernia repair. JSLS, 2002. 6(3): p. 211-3.
12. Nguyễn Thu Hòa, Phạm Đức Nguyên, and T.Q. Bảo., Khái quát về khí hậu Việt Nam.
Các Giải Pháp Kiến Trúc Khí Hậu Việt Nam, 2010. 20(11): p. 810-4.