1. Mục lục.
Trang
Lời nói đầu 3
Chương 1:
Những vấn đề cơ bản về hoạt động xuất khẩu và kinh doanh xuất khẩu
hàng nông sản. 4
I. Khái quát chung về hoạt động xuất khẩu 4
1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu: 4
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu. 4
3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu 8
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu 10
5. Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hóa 16
II. Vai trò của hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất khẩu hàng
nông sản. 22
1. Đặc điểm của mặt hàng nông sản. 22
2. Đặc điểm thị trường hàng nông sản thế giới 24
3. Tình hình sản xuất và xuất khẩu nông sản ở Việt Nam 26
Chương ii:
Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản của công ty VILEXIM 36
I. Giới thiệu sơ lược về công ty. 36
1. Tên gọi, trụ sở, nguồn vốn của công ty 36
2. Lịch sử hình thành công ty 36
3. Cơ cấu tổ chức của công ty 37
4. Nhiệm vụ, quyền hạn của công ty 39
5. Nội dung hoạt động của công ty. 40
II .Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của công ty
VILEXIM giai đoạn 1996 - 2000. 41
1. Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của công ty. 42
2. Cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu của công ty. 45
-1 -
2. 3. Chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của công ty. 48
4. Giá cả hàng nông sản xuất khẩu của công ty 51
5. Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của công ty. 53
6. Công tác thu thập thông tin, tìm kiếm thị trường của công ty 59
7. Thị trường tiêu thụ hàng nông sản của công ty 61
8. Công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty 64
III. Đánh giá chung về hoạt động kinh doanh xuất khẩu nông sản của
công ty. 65
1. Thành tựu. 65
2. Tồn tại và nguyên nhân 65
Chương III :
Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động
kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản của công ty
VILEXIM trong thời gian tới . 71
I. Định hướng phát triển của công ty giai đọan 2001 - 2005. 71
II. Giải pháp và kiến nghị. 71
A. Giải pháp đối với công ty 71
1. Tổ chức tốt công tác thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường và
72
xúc tiến thương mại
2. Lựa chọn thị trường trọng điểm. 73
3. Xây dựng chính sách sản phẩm thích hợp. 74
4. Đẩy mạnh xâm nhập thị trường 75
5. Huy động các nguồn vốn để phát triển hoạt động sản xuất kinhdoanh 75
6. Tổ chức tốt công tác thu mua hàng xuất khẩu. 77
7. Đầu tư vào công tác chế biến, bảo quản 79
8. Nâng cao chất lượng người lao động 80
B. Kiến nghị với nhà nước. 80
1. Đẩy mạnh hoạt động sản xuất chế biến hàng nông sản. 80
2. Trợ giúp cho công ty xuất khẩu hàng nông sản. 82
3. Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu 83
-2 -
3. Kết luận 86
Tài liệu tham khảo 87
Lời nói đầu
Ngày nay hoạt động xuất khẩu trở nên vô cùng quan
trọng trong hoạt động thương mại đối với bất kỳ một
quốc gia nào trên thế giới. Thông qua hoạt động xuất
khẩu, các quốc gia khai thác được lợi thế của mình
trong phân công lao động, tạo nguồn thu ngoại tệ quan
trọng cho đất nước, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đặc
biệt là tạo công ăn, việc làm cho người lao động.
Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu thực sự có ý
nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển kinh tế, tạo tiền đề vững chắc để thực hiện
thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Có đẩy mạnh xuất khẩu, mở cửa nền kinh tế thì
Việt Nam mới có điều kiện thực hiện thành công các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và ổn định đời
sống nhân dân.
Từ đặc điểm có nền kinh tế của một nước nông
nghiệp với dân số chủ yếu tham gia vào các hoạt động
sản xuất nông nghiệp, Việt Nam đã xác định nông sản
là một mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhằm tạo nguồn
thu ban đầu rất cần thiết cho phát triển kinh tế đất
nước. Chính vì vậy, nhà nước đã tạo điều kiện thuận
lợi khuyến khích sự tham gia của các công ty trong
lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản. Mặt hàng nông sản
-3 -
4. là mặt hàng chính được Công ty XNK với Lào ( VILEXIM )
hết sức chú trọng trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của
mình. Trên lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản công ty
đã đạt được những thành công, song bên cạnh những
thành công đó vẫn còn những hạn chế nhất định. Vì
vậy, đề tài : “Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy
xuất khẩu hàng nông sản của công ty VILEXIM” đã được
chọn để nghiên cứu trong chuyên đề thực tập. Đề tài
này đã tổng kết được những lý luận cơ bản về hoạt
động xuất khẩu, phân tích và đánh giá tình hình xuất
khẩu hàng nông sản của Công ty. Trên cơ sở đó đưa ra
một số kiến nghị và giải pháp cơ bản để đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu hàng nông sản của Công ty.
Chương 1:
Những vấn đề cơ bản về hoạt động xuất khẩu và kinh doanh xuất khẩu
hàng nông sản.
I.Khái quát chung về hoạt động xuất khẩu.
1.Khái niệm hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu là việc bán hàng hóa (hoặc dịch vụ)
cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương
tiện thanh toán theo nguyên tắc ngang giá. Tiền tệ ở
đây có thể là ngoại tệ đối với ít nhất một bên trong
mối quan hệ này.
Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được
lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động
-4 -
5. quốc tế. Việc trao đổi hàng hóa mang lại lợi ích cho
các quốc gia do đó các quốc gia đều tích cực tham gia
mở rộng hoạt động này.
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt
động ngoại thương, đã xuất hiện từ rất lâu và ngày
càng phát triển. Hoạt động này diễn ra trên mọi lĩnh
vực, trong mọi điều kiện từ sản xuất hàng tiêu dùng
cho đến máy móc thiết bị, tư liệu sản xuất và cả công
nghệ kỹ thuật cao. Dù ở lĩnh vực nào thì hoạt động
xuất khẩu cũng đều nhằm mục đích mang lại lợi nhuận
cho các quốc gia tham gia.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng,
cả về không gian lẫn thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra
trong thời gian ngắn song cũng có thể kéo dài hàng
năm. Nó có thể được tiến hành trên phạm vi lãnh thổ
của một quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau.
2.Vai trò của hoạt động xuất khẩu.
a.Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với một quốc
gia.
Xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ để đảm bảo nhu
cầu nhập khẩu.
Sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia phụ thuộc
vào 4 nhân tố đó là: vốn, công nghệ, nhân lực và tài
nguyên. Song không phải quốc gia nào cũng có đầy đủ
cả 4 yếu tố này đặc biệt là đối với các quốc gia đang
phát triển và chậm phát triển. Mô hình:
-5 -
6. Thiếu vốn
Khả năng sản xuất kém Công nghệ lạc hậu
Hiện nay hầu hết các quốc gia đang phát triển và
chậm phát triển đều thiếu vốn thế nên họ không có cơ
hội để nhập khẩu công nghệ hiện đại và không thể đầu
tư nâng cao trình độ nguồn nhân lực do đó trình độ
sản xuất của họ rất thấp. Ngược lại trình độ sản xuất
thấp lại chính là nguyên nhân làm cho quốc gia này
thiếu vốn. Vì vậy, đây chính là một vòng luẩn quẩn
của các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển.
Để thoát khỏi vòng luẩn quẩn này buộc các quốc gia
này phải có vốn để nhập khẩu công nghệ tiên tiến mà
trong nước chưa sản xuất được và nâng cao trình độ
nguồn nhân lực qua đó nâng cao khả năng sản xuất.
Nhưng một câu hỏi được đặt ra với các quốc gia là:
Làm thế nào để có một lượng ngoại tệ cần thiết đáp
ứng cho nhu cầu này?
Thực tiễn cho thấy, để có đủ một lượng ngoại tệ
đáp ứng cho nhu cầu này các quốc gia có thể sử dụng
các nguồn huy động vốn chính sau:
−Nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ.
−Nguồn đầu tư nước ngoài.
−Nguồn vay nợ, viện trợ.
-6 -
7. −Nguồn từ các dịch vụ thu ngoại tệ như dịch vụ ngân
hàng , du lịch.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang phát
triển chậm lại như hiện nay thì các quốc gia đang
phát triển và chậm phát triển sẽ gặp rất nhiều khó
khăn trong việc huy động được nguồn vốn từ các hoạt
động đầu tư, vay nợ, viện trợ và các dịch vụ thu
ngoại tệ. Thêm vào đấy, với các nguồn vốn này các
quốc gia phải chịu những thiệt thòi và những ràng
buộc về chính trị nhất định. Vì vậy nguồn vốn quan
trọng nhất mà các quốc gia này có thể trông chờ là
nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu phát huy được lợi thế của quốc
gia.
Để hoạt động xuất khẩu có hiệu quả thì các quốc
gia thường phải lựa chọn các mặt hàng sản xuất ở quốc
gia đó có lợi thế hơn so với sản xuất tại các quốc
gia khác. Đây chính là những mặt hàng có sử dụng
nguồn nguyên liệu dồi dào, lao động rẻ, ứng dụng nền
sản xuất trong nước. Chính vì vậy mà hoạt động xuất
khẩu phát huy được lợi thế của quốc gia.
Ta có thể chứng minh điều này ở ví dụ sau: Giả sử
trong nền kinh tế thế giới chỉ có hai quốc gia Việt
Nam và Đài Loan sản xuất hai loại mặt hàng là thép và
vải.
Bảng 1: Lợi thế kinh tế đối với nền kinh tế của mỗi
quốc gia.
-7 -
8. Quốc gia Việt Nam Đài Loan
Hàng hóa
Thép ( kg/1 công ) 1 6
Vải ( m/1h công ) 4 3
Qua bảng số liệu trong ta thấy: trong ngành sản
xuất thép năng suất lao động của Đài Loan lớn hơn
năng suất lao động của Việt Nam. Tuy nhiên trong
ngành sản xuất vải thì Việt Nam lại có năng suất lao
động lớn hơn. Do vậy Việt Nam có lợi thế trong sản
xuất thép còn Đài Loan có lợi thế trong sản xuất vải.
Theo quy luật lợi thế so sánh, cả hai quốc gia sẽ
cùng có lợi nếu Việt Nam chuyên môn hoá sản xuất vải
còn Đài Loan chuyên môn hoá sản xuất thép. Sau đấy
hai nước sẽ mang trao đổi một phần sản phẩm cho nhau.
Nếu tỷ lệ trao đổi bằng tỷ lệ trao đổi nội địa của
mỗi quốc gia thì một trong hai quốc gia sẽ từ chối
trao đổi. Do vậy tỷ lệ trao đổi quốc tế phải nằm ở
khoảng giữa. Tức là: 6/3 > Tỷ lệ trao đổi quốc tế
(thép/vải) > 1/4. Giả sử tỷ lệ trao đổi của Việt Nam
và Đài Loan là 6 thép lấy 6 vải. Khi đó, Đài Loan sẽ
được lợi 3 mét vải tương đương với tiết kiệm được một
giờ công lao động. Việt Nam sẽ được lợi 18 mét vải
tương đương với tiết kiệm được 4,5 giờ công lao động.
Qua phân tích ở trên cho thấy hoạt động xuất khẩu sẽ
phát tạo cơ hội cho một quốc gia phát huy được lợi
của mình.
-8 -
9. Hoạt động xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu
sản xuất.
Thông thường các nhà xuất khẩu sẽ tập trung vào
xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế của đất nước. Khi
lợi nhuận thu được từ xuất khẩu mặt hàng ấy càng lớn
thì số người tập trung vào sản xuất mặt hàng ấy ngày
càng nhiều. Do vậy cơ cấu sản xuất trong nước sẽ thay
đổi. Sự thay đổi này không chỉ diễn ra trong ngành mà
còn diễn ra ở cả những ngành phụ trợ cho ngành hàng
xuất khẩu. VD: khi hoạt động xuất khẩu hàng nông
sản phát triển thì nó kéo theo sự phát triển của
ngành sản xuất phân bón, ngành vận tải; ngành công
nghiệp thực phẩm phát triển kéo theo ngành trồng trọt
chăn nuôi phát triển; ngành dệt may phát triển kéo
theo ngành trồng bông đay cũng phát triển.
Hoạt động xuất khẩu giải quyết công ăn việc làm,
tạo nguồn thu nhập, nâng cao mức sống và trình độ
của người lao động.
Hoạt động xuất khẩu là một trong những hoạt động
mang lại nguồn lợi nhuận lớn trong các hoạt động sản
xuất kinh doanh. Chính vì vậy số lượng lao động hoạt
động trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu hàng hóa
không ngừng tăng. Hàng năm ngành xuất khẩu giải quyết
việc làm cho một số lượng lớn lao động. Thêm vào đó
do có điều kiện tiếp xúc với thị trường mới, phương
thức quản lý mới, khoa học công nghệ hiện đại nên
trình độ của người lao động cũng được cải thiện để
đáp ứng với yêu cầu chung của thị trường quốc tế.
-9 -
10. Hoạt động xuất khẩu nâng cao uy tín của quốc gia
trên trường quốc tế
Để đánh giá uy tín của một quốc gia người ta
thường dựa vào 4 điều kiện đó là: GDP, lạm phát, thất
nghiệp và cán cân thanh toán. Hoạt động xuất khẩu đem
lại nguồn thu ngoại tệ, góp phần làm cân bằng cán cân
thanh toán do vậy là một trong bốn điều kiện đánh giá
sự phát triển kinh tế của một quốc gia : Cao hơn nữa
hoạt động xuất khẩu làm tăng tích lũy ngoại tệ của
một quốc gia và có thể biến quốc gia trở thành quốc
gia xuất siêu và tạo sự đảm bảo trong thanh toán cho
đối tác, tăng được uy tín trong kinh doanh. Qua hoạt
động xuất khẩu, hàng hóa của quốc gia được bày bán
trên thị trường thế giới, khuyếch trương tiếng vang
và sự hiểu biết từ nước ngoài. Ngoài ra hoạt động
xuất khẩu làm tiền đề cho các hoạt động kinh tế đối
ngoại khác như: Dịch vụ, ngân hàng, đầu tư, hợp tác
liên doanh...và làm cho quan hệ giữa các nước trở nên
chặt chẽ hơn.
b.Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với doanh
nghiệp.
Hoạt động xuất khẩu tạo cơ hội cho các doanh
nghiệp tham gia vào cuộc cạnh tranh về giá cả,
chất lượng, mẫu mã hàng hóa trên thị trường thế
giới. Chính yếu tố này buộc doanh nghiệp phải năng
động, sáng tạo hơn, phải không ngừng nâng cao
trình độ quản trị kinh doanh, tăng cường đầu tư
đổi mới trang thiết bị... để tự hoàn thiện mình.
-10-
11. Hoạt động xuất khẩu tạo cơ hội cho các doanh
nghiệp mở rộng quan hệ buôn bán với nhiều đối tác
nước ngoài từ đó người lao động trong doanh nghiệp
có thể nâng cao năng lực chuyên môn của mình, tiếp
thu, học hỏi kinh nghiệm quản lý của đối tác.
Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ cho
doanh nghiệp để mở rộng và nâng cao trình độ sản
xuất đồng thời tạo việc làm và thu nhập ổn định
cho người lao động trong doanh nghiệp.
3.Các hình thức xuất khẩu chủ yếu.
a.Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu các
hàng hóa hoặc dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra
hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới
các khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của
mình. Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là : Các
doanh nghiệp có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với
khách hàng, với thị trường nước ngoài, biết được yêu
cầu của khách hàng và tình hình bán hàng ở đó nên có
thể chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Ngoài ra hình thức xuất khẩu này làm tăng lợi nhuận
của doanh nghiệp do giảm chi phí trung gian.
b.Xuất khẩu ủy thác.
Trong hình thức này, đơn vị xuất khẩu (bên nhận ủy
thác) nhận xuất khẩu một lô hàng nhất định với danh
nghĩa của mình và nhận được một khoản thù lao theo
thỏa thuận với đơn vị có hàng xuất khẩu (bên ủy
-11-
12. thác). Ưu điểm của hình thức này là: Đơn vị có hàng
xuất khẩu không phải bỏ ra một khoản vốn lớn để đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài do đó rủi ro trong kinh
doanh là không cao. Tuy nhiên họ lại không trực tiếp
liên hệ với khách hàng và thị trường nước ngoài nên
không chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Ngoài ra họ thường phải đáp ứng những yêu sách của
bên nhận ủy thác.
c.Buôn bán đối lưu.
Là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết
hợp chặt chẽ với nhập khẩu, bên bán hàng đồng thời
là bên mua hàng và lượng hàng hóa mang trao đổi
thường có giá trị tương đương. Mục đích ở đây không
nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà là nhằm mục đích có
được một lô hàng có giá trị tương đương với lô hàng
xuất khẩu. Hình thức xuất khẩu này giúp doanh nghiệp
tránh được sự biến động của tỉ giá hối đoái trên thị
trường ngoại hối đồng thời có lợi khi các bên không
có đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu
của mình.
d.Xuất khẩu theo nghị định thư.
Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu theo
chỉ tiêu mà nhà nước giao cho để tiến hành xuất khẩu
một hoặc một số loại hàng hóa nhất định cho chính phủ
nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã được ký giữa
hai chính phủ. Hình thức này cho phép doanh nghiệp
tiết kiệm được các khoản chi phi trong việc nghiên
cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. Mặt khác, thực
-12-
13. hiện hình thức này thường không có rủi ro trong thanh
thư.
e.Xuất khẩu tại chỗ.
Là hình thức kinh doanh mà hàng xuất khẩu không
cần vượt qua biên giới quốc gia nhưng khách hàng vẫn
có thể mua được. ở hình thức này doanh nghiệp không
cần phải đích thân ra nước ngoài đàm phán trực tiếp
với người mua mà chính người mua lại tìm đến với
doanh nghiệp do vậy doanh nghiệp tránh được những thủ
tục rắc rối của hải quan, không phải thuê phương
tiện vận chuyển, không phải mua bảo hiểm hàng hóa.
Hình thức này thường được áp dụng đối với quốc gia có
thế mạnh về du lịch và có nhiều tổ chức nước ngoài
đóng tại quốc gia đó.
f.Gia công quốc tế.
Là hình thức xuất khẩu trong đó có một bên nhập
nguyên liệu hoặc bán thành phẩm (bên nhận gia công)
của bên khác (bên đặt gia công) để chế tạo ra thành
phẩm giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu
được một khoản lệ phí như thỏa thuận của cả hai bên.
Trong hình thức này bên nhận gia công thường là các
quốc gia đang phát triển, có lực lượng lao động dồi
dào, có tài nguyên thiên nhiên phong phú. Họ sẽ có
lợi vì tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động,
có điều kiện đổi mới và cải tiến máy móc để nâng cao
năng suất sản xuất. Còn đối với nước đặt gia công họ
khai thác được giá nhân công rẻ và nguyên phụ liệu
khác từ nước nhận gia công.
-13-
14. g.Tái xuất khẩu.
Với hình thức này một nước sẽ xuất khẩu những hàng
hóa đã nhập từ một nước khác sang nước thứ ba. Ưu
điểm của hình thức này là doanh nghiệp có thể thu
được một khoản lợi nhuận cao mà không phải tổ chức
sản xuất, đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng, khả
năng thu hồi vốn cao. Hình thức này được áp dụng khi
có sự khó khăn trong quan hệ quốc tế giữa nước xuất
khẩu và nước nhập khẩu.
4.Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu
Bất kỳ một hoạt động thương mại nào cũng chịu ảnh
hưởng sâu sắc của môi trường kinh doanh. Môi trường
kinh doanh có thể tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp song cũng có thể
tạo ra những khó khăn, kìm hãm sự phát triển của hoạt
động này.
Đối với hoạt động xuất khẩu - một trong những
hoạt động quan trọng của thương mại thì ảnh hưởng của
môi trường kinh doanh đến hoạt động này càng trở nên
mạnh mẽ bởi trong thương mại quốc tế các yếu tố
thuộc môi trường kinh doanh rất phong phú và phức
tạp. Ta có thể phân chia các nhân tố thuộc môi trường
kinh doanh tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh
nghiệp thành các nhóm sau:
•Các nhân tố vĩ mô:
a.Các công cụ của nhà nước trong quản lý kinh tế.
-14-
15. Các quốc gia khác nhau thường có những chính
sách thương mại khác nhau thể hiện ý chí và mục tiêu
của nhà nước trong việc can thiệp và điều chỉnh các
hoạt động thương mại quốc tế có liên quan đến nền
kinh tế quốc gia mình. Để nền kinh tế quốc dân vận
hành có hiệu quả thì những chính sách thương mại
thích hợp là thực sự cần thiết. Trong lĩnh vực xuất
khẩu, các công cụ chính sách chủ yếu thường được sử
dụng để điều tiết hoạt động này gồm:
Thuế quan
Trong hoạt động xuất khẩu, thuế quan là loại thuế
đánh vào từng đơn vị hàng xuất khẩu. Việc đánh thuế
xuất khẩu được chính phủ ban hành nhằm quản lý hoạt
động xuất khẩu theo chiều hướng có lợi nhất cho quốc
gia mình. Công cụ này thường chỉ được áp dụng với
một số ít mặt hàng xuất khẩu nhằm bổ sung cho ngân
sách nhà nước, hạn chế xuất khẩu để đáp ứng đầy đủ
nhu cầu tiêu dùng mặt hàng ấy trong nước.
Ngoài thuế quan xuất khẩu, thuế quan nhập khẩu
cũng có tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh
nghiệp. Thuế quan nhập khẩu là thuế quan mà nước nhập
khẩu đánh vào một đơn vị hàng nhập khẩu. Do vậy nó sẽ
làm tăng gía bán hàng xuất khẩu của doanh nghiệp tại
thị trường nhập khẩu. Vì vậy hàng xuất khẩu của doanh
nghiệp sẽ giảm sức cạnh tranh.
Hạn ngạch
Hạn ngạch được hiểu như là quy định của nhà nước
về số lượng cao nhất một mặt hàng hay một nhóm hàng
-15-
16. doanh nghiệp được phép xuất khẩu hay nhập khẩu. Quốc
gia xuất khẩu sẽ quy định hạn ngạch xuất khẩu nhằm
điều chỉnh lượng hàng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả
xuất khẩu. Quốc gia nhập khẩu sẽ quy định hạn ngạch
nhập khẩu nhằm hạn chế lượng hàng nhập khẩu vào trong
nước, bảo hộ nền sản xuất trong nước, bảo vệ tài
nguyên và cải thiện cán cân thanh toán. Tương tự thuế
quan, cả hạn ngạch xuất khẩu và nhập khẩu đều có thể
gây tác động trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của
doanh nghiệp.
Tiêu chuẩn kỹ thuật
Ngoài hai công cụ thuế quan và hạn ngạch, một công
cụ khác tinh vi hơn ngày càng được nhiều quốc gia sử
dụng đó là việc đề ra các tiêu chuẩn chất lượng, kỹ
thuật cho sản phẩm nhập khẩu. Đây là biện pháp phi
thuế quan cũng nhằm mục đích hạn chế lượng hàng xuất
nhập khẩu của doanh nghiệp.
Tỷ giá hối đoái và các chính sách đòn bẩy có liên
quan nhằm khuyến khích xuất khẩu.
Tỷ giá hối đoái là sức mua của một đồng tiền so
với đồng tiền khác. Sức mua của đồng tiền là khả năng
thanh toán của một đơn vị tiền tệ với một khối lượng
hàng xuất khẩu nhất định gắn liền với thanh thanh
toán quốc tế. Trong thanh toán quốc tế người ta
thường sử dụng những đồng tiền mạnh như USD để thanh
toán. Nếu tỷ giá hối đoái tăng, tương đương với giá
trị ngoại tệ tăng so với nội tệ khi đó hoạt động xuất
khẩu sẽ được khuyến khích. Ngược lại nếu tỷ giá hối
-16-
17. đoái giảm sẽ kìm hãm sự phát triển của hoạt động xuất
khẩu.
Trợ cấp xuất khẩu cũng là một trong những biện
pháp có tác dụng thúc đẩy, mở rộng xuất khẩu đối với
mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu. Biện pháp này
thường được nhiều quốc gia sử dụng vì: Khi xâm nhập
vào thị trường nước ngoài doanh nghiệp sẽ gặp phải
rủi ro cao hơn so với thị trường trong nước. Việc trợ
cấp xuất khẩu có thể được nhà nước sử dụng dưới nhiều
hình thức như: trợ giá, miễn giảm thuế xuất khẩu, hạ
lãi suất vốn vay, hoặc cho bạn hàng nước ngoài vay ưu
đãi đẻ họ có điều kiện mua sản phẩm của nước mình...
Các chính sách đối với cán cân thanh toán và
thương mại
Việc đảm bảo cán cân thanh toán và cán cân thương
mại sẽ góp phần củng cố lòng tin của đối tác nước
ngoài với quốc gia, nâng cao uy tín của quốc gia trên
trường quốc tế. Biện pháp để quốc gia có thể giữ cán
cân thanh toán, cán cân thương mại có thể là: Khuyến
khích xuất khẩu, cấm nhập khẩu, hạn chế nhập khẩu
hoặc vay vốn. Tuy nhiên sự cân bằng theo các hình
thức cấm nhập khẩu là cân bằng tiêu cực, gây tác động
xấu đến sự phát triển kinh tế của quốc gia. Chính vì
vậy, để cải thiện cán cân thanh toán và cán cân
thương mại các quốc gia không còn con đường nào khác
ngoài khuyến khích xuất khẩu, trong đó chú trọng tới
mặt hàng chủ lực.
-17-
18. Như vậy nhìn chung việc giữ cân bằng cán cân
thanh toán và cán cân thương mại đã chứa đựng trong
đó yếu tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của quốc gia.
b.Các quan hệ kinh tế quốc tế.
Các mối quan hệ quốc tế sẽ có tác động cực kỳ mạnh
mẽ tới hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia
nói chung và tác động tới hoạt động thương mại của
doanh nghiệp nói riêng. Hoạt động xuất khẩu của doanh
nghiệp là một trong những nội dung quan trọng của
hoạt động thương mại quốc tế chính vì vậy nó cũng
chịu sự tác động mạnh mẽ của các mối quan hệ này.
Khi hàng hóa của doanh nghiệp xâm nhập được vào
thị trường của một quốc gia thì nó sẽ được hưởng
chính sách ưu đãi hoặc phải đối mặt với các rào cản
thương mại từ quốc gia này như: thuế quan, hạn ngạch
nhập khẩu, các tiêu chuẩn kỹ thuật sản phẩm.... Mức
độ ưu đãi mà doanh nghiệp được hưởng hay các rào cản
thương mại mà doanh nghiệp phải đối đầu chặt chẽ hay
nới lỏng hoàn toàn phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế
song phương giữa quốc gia xuất khẩu và quốc gia
nhập khẩu.
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới như
hiện nay, nhiều hiệp định kinh tế song phương và đa
phương đã được ký kết, nhiều liên minh kinh tế đã
được hình thành với mục tiêu là giảm bớt thuế quan
giữa các nước tham gia, giảm giá cả, thúc đẩy hoạt
động thương mại trong khu vực và trên thế giới. Nếu
là một thành viên trong liên minh kinh tế hoặc hiệp
-18-
19. định thương mại ấy thì quốc gia sẽ có cơ hội thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu. Nếu không phải, chính các hiệp
định thương mại, liên minh kinh tế này sẽ trở thành
một rào chắn lớn cho việc xâm nhập và mở rộng thị
trường của doanh nghiệp.
Tóm lại, có được những mối quan hệ mở rộng, bền
vững và tốt đẹp sẽ tạo tiền đề cho việc thúc đẩy hoạt
động xuất khẩu của doanh nghiệp.
c.ảnh hưởng của nền sản xuất, thương mại trong nước
và quốc tế.
Sản xuất trong nước là nhân tố chủ yếu quyết định
đến lượng cung hàng xuất khẩu. Nếu nền sản xuất trong
nước phát triển, khả năng cung ứng hàng xuất khẩu sẽ
tăng lên, giá cả thu mua hàng xuất khẩu sẽ giảm
xuống, doanh nghiệp sẽ gặp thuận lợi trong khâu đầu
vào. Ngược lại, khi nền sản xuất trong nước bị giảm
sút dẫn tới giá cả hàng xuất khẩu sẽ tăng lên, doanh
nghiệp sẽ gặp khó khăn để chọn được hàng hóa có chất
lượng cao, đồng loại phục vụ cho xuất khẩu.
Đối với nền sản xuất nước ngoài thì ngược lại. Khi
nền sản xuất nước ngoài phát triển, nhu cầu nhập khẩu
sẽ ít đi, khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp
vào thị trường của họ sẽ bị hạn chế. Ngược lại, khi
nền sản xuất của họ bị giảm sút, nhu cầu nhập khẩu
của họ cao. Đây sẽ là thới cơ để doanh nghiệp thúc
đẩy hoạt động xuất khẩu của mình.
Vấn đề không đơn thuần chỉ có các yếu tố cung,
cầu, giá cả mới tác động đến hoạt động xuất khẩu của
-19-
20. doanh nghiệp. Rất nhiều các yếu tố khác cũng tác động
đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp như: chất
lượng, mẫu mã, chủng loại của sản phẩm. Khi các yếu
tố này đều tốt thì khả năng cạnh tranh của sản phẩm
trên thị trường quốc tế sẽ cao. Đây là một sự thuận
lợi cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Ngoài ra, sự phát triển của hoạt động thương mại
trong nước và quốc tế cũng góp phần hạn chế hay
khuyến khích xuất khẩu vì nó quyết định đến sự chu
chuyển hàng hóa trong nội bộ nền kinh tế của một quốc
gia với nền kinh tế thế giới.
d.Trình độ phát triển của hệ thống tài chính ngân
hàng, thông tin liên lạc, cơ sở hạ tầng quốc gia.
Hiện nay hệ thống tài chính ngân hàng đang phát
triển khá mạnh và có can thiệp rất lớn tới hoạt động
của các doanh nghiệp hoạt động trong mọi lĩnh vực dù
doanh nghiệp đó thuộc thành phần kinh tế nào và hoạt
động trong lĩnh vực nào. Một hệ trong thống ngân hàng
phát triển không đơn thuần chỉ là nơi cấp vốn cho
doanh nghiệp mà nó còn giúp các doanh nghiệp trong
việc thanh toán một cách thuận tiện, nhanh chóng và
chính xác. Đây là một trong những yếu tố thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Hệ thống thông tin liên lạc của một quốc gia cũng
góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh
nghiệp thông qua việc cung cấp thông tin đầy đủ,
chính xác và nhanh chóng cho doanh nghiệp.
-20-
21. Hệ thống cơ sở hạ tầng quốc gia cũng có tác động
rất lớn tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Một quốc gia có hệ thống đường xá, cầu cống phát
triển sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất, nâng cao khả
năng tham gia của doanh nghiệp vào thị trường thương
mại quốc tế. Đặc biệt các bến bãi, các nhà ga, các
cảng biển có tác động trực tiép tới hoạt động xuất
khẩu của doanh nghiệp. Nếu hệ thống này được đầu tư
xây dựng phù hợp với yêu cầu chung của thị trường
quốc tế sẽ là nhân tố tác động tích cực tới hoạt động
xuất khẩu của doanh nghiệp. Ngược lại, hệ thống cảng
biển, nhà ga, bến dỡ không đạt yêu cầu tối thiểu về
kỹ thuật sẽ gây tâm lý nghi ngại từ phía đối tác nước
ngoài và rất có thể doanh nghiệp sẽ mất cơ hội kinh
doanh.
•Các nhân tố vi mô
a.Nguồn nhân lực
Con người là chủ thể của mọi hoạt động xã hội và
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp suy đến cùng
cũng là do con người và vì con người. Bởi vậy con
người luôn được đặt ở vị trí trung tâm khi xem xét
đến các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp. Một đội
ngũ lao động vững vàng trong chuyên môn, có kinh
nghiệm trong buôn bán quốc tế, có khả năng ứng phó
linh hoạt trước biến động của thị trường và đặc biệt
có lòng say mê trong công việc luôn là đội ngũ lý
tưởng trong hoạt động xuất nhập khẩu của doanh
nghiệp. Ngược lại, nếu nguồn nhân lực của doanh
-21-
22. nghiệp yếu kém về chất lượng và hạn chế về số lượng
thì doanh nghiệp sẽ luôn trong tình trạng bị động và
kinh doanh kém hiệu quả. Như vậy, nhân lực quyết định
hoạt động của doanh nghiệp nên doanh nghiệp muốn hoạt
động có hiệu quả nhất thiết phải quan tâm tuyển chọn
đội ngũ lao động thực sự có năng lực, đồng thời chú
trọng đến công tác quản lý nhằm tạo động lực cho
người lao động trong doanh nghiệp làm việc có hiệu
quả.
b.Khả năng tài chính
Khả năng tài chính là một trong những nhân tố
quyết định sức mạnh của doanh nghiệp trong thời đại
ngày nay. Nếu có tiềm lực tài chính mạnh, doanh
nghiệp sẽ có thể đầu tư đổi mới công nghệ, thu hút
lao động có chất lượng cao, mở rộng quy mô hoạt động.
Ngoài ra khi có tiềm lực về tài chính doanh nghiệp có
trong thể thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của mình thông
qua việc cấp tín dụng cho khách hàng qua hình thức
mua trả chậm.
Như vậy có thể nói hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp chịu ảnh hưởng lớn bởi khả năng tài chính của
doanh nghiệp.
c.Vị trí địa lý
Nếu được bố trí ở gần nơi cung cấp các yếu tố đầu
vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc vùng gần
nhà ga cảng biển, doanh nghiệp sẽ giảm được chi phí
vận chuyển - đây là cơ sở để doanh nghiệp giảm giá
thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị
-22-
23. trường. Đặc biệt, với ưu thế về khoảng cách địa lý
nhà cung ứng yếu tố đầu vào, doanh nghiệp có thể
thường xuyên xuống cơ sở sản xuất tạo lập mối quan hệ
nhằm xây dựng chân hàng vững chắc phục vụ hoạt động
xuất khẩu. Như vậy để hoạt động xuất khẩu đạt hiệu
quả doanh nghiệp cần lựa chọn vị thế tối ưu phù hợp
với khả năng và điều kiện của mình.
d.Uy tín của doanh nghiệp.
Uy tín của doanh nghiệp chính là tình cảm, là sự
tin tưởng mà khách hàng dành cho doanh nghiệp. Khi
doanh nghiệp đã có uy tín cao, đối với khách hàng
nhiều khi họ mua hàng dựa trên uy tín của doanh
nghiệp chứ không hoàn toàn dựa trên chất lượng hàng
của doanh nghiệp. Vì vây, uy tín cũng quyết định đến
vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
5.Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hóa.
Giao dịch mua bán hàng hóa và dịch vụ ngoại thương
có những nét đặc trưng, phức tạp hơn nhiều so với
hoạt động thương mại trong nước. Vì vậy doanh nghiệp
xuất khẩu muốn tiến hành hoạt động của mình có hiệu
quả thì phải tuân theo các bước sau:
a.Nghiên cứu tiếp cận thị trường
Công việc này bao gồm nghiên cứu hàng hóa thế
giới, lựa chọn mặt hàng, nắm bắt dung lượng thị
trường và giá cả hàng hóa.
Nghiên cứu thị trường hàng hóa thế giới
-23-
24. Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền sản
xuất với lưu thông hàng hóa. ở đâu có sản xuất và
lưu thông hàng hóa thì ở đó có thị trường.
Như vậy, thị trường có thể nhìn thấy cũng có thể
không nhưng nó bao gồm các quan hệ mua bán hàng hóa ,
dịch vụ và dung lượng thị trường.
Nghiên cứu thị trường hàng hóa để các nhà kinh
doanh biết được các quy luật vận động của chúng. Mỗi
thị trường hàng hóa cụ thể có những quy luật riêng,
quy luật này thể hiện qua sự biến đổi nhu cầu, cung
cấp và giá cả hàng hóa trên thị trường. Nắm vững các
quy luật thị trường hàng hóa để vận dụng và giải
quyết các vấn đề của thực tiễn kinh doanh như yêu cầu
của thị trường đối với hàng hóa, hình thức và biện
pháp thâm nhập thị trường.
Trong nghiên cứu thị trường hàng hóa thế giới, đặc
biệt là khi muốn kinh doanh xuất khẩu thành công công
việc nhận biết sản phẩm phù hợp với thị trường và
năng lực xuất khẩu là không thể thiếu được đối với
doanh nghiệp. Muốn vậy doanh nghiệp phải xác định
được các vấn đề sau:
−Mặt hàng thị trường đang cần là mặt hàng gì?
Điều này đòi hỏi phải bán cái mà thị trường cần chứ
không phải bán cái mà ta có. doanh nghiệp xuất khẩu
cần phải tìm hiểu nhu cầu thị trường nước ngoài về
mạt hàng, quy cách, phẩm chất, mẫu mã, chủng loại, số
lượng.
−Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào?
-24-
25. Mặt hàng được người tiêu dùng mua theo thói quen và
được thể hiện ở: thời gian tiêu dùng, thị hiếu tiêu
dùng, quy luật biến động của quan hệ cung cầu mặt
hàng đó...Có nắm vững được điều này thì doanh nghiệp
mới có thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường.
−Mặt hàng đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống?
Mỗi mặt hàng đều có một khoảng thời gian tồn tại mhất
định, mỗi khoảng thời gian này được thể hiện qua bốn
pha của chu kỳ sống của sản phẩm bao gồm:
+ Pha triển khai: Về cơ bản chưa có sản phẩm và đơn vị
cạnh tranh. Do vậy doanh nghiệp cần phải nỗ lực làm
cho khách hàng biết tới sản phẩm của mình.
+ Pha tăng trưởng: sản phẩm được thị trường chấp nhận,
doanh nghiệp cần phải đẩy nhanh quá trình kinh doanh
để đưa sản phẩm có tính độc đáo của mình vào thị
trường, qua đó tạo được môi trường tốt, tăng mở rộng
thị trường cho sản phẩm.
+ Pha bão hoà: Lúc này có sự cạnh tranh quyết liệt
giữa các đơn vị tham gia vào thị trường. Khi đó nếu
doanh nghiệp cần dựa vào nguồn vốn tích luỹ để triển
khai chiến lược, mặt hàng khác biệt tiến tới kinh
doanh mặt hàng đặc biệt.
+ Pha suy thoái: Mặt hàng trong giai đoạn này hầu như
không còn bán được trên thị trường. Vấn đề đặt ra
đối với doanh nghiệp là phải dự đoán được khoảng
thời gian lão hoá của sản phẩm để thay thế bằng sản
phẩm mới khác chặn đứng tình trạng suy thoái.
-25-
26. Doanh nghiệp phải biết được mặt hàng kinh doanh đang
ở giai đoạn nào thì mới xác định được các biện pháp
thích hợp để nâng cao doanh thu.
−Tình hình sản xuất mặt hàng đó ra sao?
Doanh nghiệp phải nắm vững tình hình cung cầu mặt
hàng doanh nghiệp đang quan tâm. Đặc biệt doanh
nghiệp phải tập trung vào yếu tố cung hàng hóa các
yếu tố đó bao gồm: khả năng sản xuất, tập quán sản
xuất, việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất mặt hàng đó.
Dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng.
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hóa được
giao dịch trên phạm vi thị trường nhất định trong một
thời gian nhất định. Dung lượng thị trường thường
biến động do chịu ảnh hưởng của ba nhóm nhân tố sau:
−Nhóm các nhân tố làm dung lượng thị trường thay đổi
có tính chu kỳ: Gồm: sự vận động của tình hình kinh
tế các nước xuất khẩu, tính thời vụ trong sản xuất,
lưu thông và phân phối hàng hóa. Do đặc điểm của sản
xuất lưu thông và tiêu dùng là khác nhau nên ảnh
hưởng của nhân tố thời vụ đến thị trường hàng hóa
cũng rất đa dạng về phạm vi và mức độ.
−Nhóm các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến dung lượng
thị trường như: các nhân tố thuộc nhóm này rất nhiều
, chúng ảnh hưởng đến dung lượng thị trường rất dài.
VD: tiến bộ khoa học cong nghệ, chế độ chính sách của
nhà nước, thị hiếu và tập quán của người tiêu dùng
-26-
27. −Nhóm các nhân tố ảnh hưởng có tính tạm thời đến dung
lượng thị trường. Bao gồm sự đầu cơ trên thị trường
làm đột biến tình hình cung, cầu trên thị trường , sự
biến động của các chính sách chính trị - xã hội, sự
biến động của thiên nhiên.
Giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới.
Đây là một vấn đề rất quan trọng. Giá cả hàng hóa
trên thị trường sẽ phản ánh quan hệ cung cầu hàng hóa
đó trên thị trường thế giới. Xác định đúng đắn giá cả
hàng hóa có ý nghĩa to lớn đối với kết quả kinh
doanh xuất khẩu. Trong kinh doanh quốc tế việc xác
định giá cả hàng hóa rất phức tạp do việc buôn bán
diễn ra trong một thời gian dài, hàng hóa vận chuyển
qua nhiều nước khác nhau với chính sách thuế khác
nhau. Để đạt được hiệu quả cao trên thương trường
quốc tế đòi hỏi các nhà kinh doanh phải theo dõi,
nghiên cứu sự biến động của giá cả đồng thời phải có
biện pháp tính toán, xác định giá một cách chính xác,
khoa học để giá thực sự trở thành một công cụ trong
kinh doanh quốc tế. Thông thường các nhà kinh doanh
xuất khẩu xác định giá bán hàng hóa dựa trên ba căn
cứ:
− Căn cứ vào giá thành và các chi phí khác (chi phí
vận chuyển, mua bảo hiểm, chi phí bao bì, đóng
gói...).
−Căn cứ vào sức mua và nhu cầu của người tiêu dùng.
−Căn cứ và gía cả của hàng hóa cạnh tranh.
b.Lựa chọn đối tác giao dịch.
-27-
28. Lựa chọn đối tác giao dịch bao gồm các vấn đề lựa
chọn nước để giao dịch và lựa chọn thương nhân để
giao dịch.
−Khi lựa chọn nước để làm đối tượng xuất khẩu hàng hóa
chúng ta phải tìm hiểu tình hình sản xuất tiêu thụ
hàng hóa của nước đó, nhu cầu nhập khẩu thuộc đối
tượng mặt hàng nghiên cứu, tình hình dự trữ ngoại tệ
để biết được khả năng nhập khẩu, phương hướng nhập
khẩu của nước này và có thể dự đoán đối thủ cạnh
tranh. Doanh nghiệp phải đưa ra chính sách thương mại
đối với nước lựa chọn làm đối tác giao dịch để lường
trước mọi việc có thể xảy ra.
−Chọn thương nhân để giao dịch. Trong điều kiện cho
phép thì lựa chọn những người nhập khẩu trực tiếp sẽ
mang lại cho doanh nghiệp hiệu quả cao nhất. Tuy
nhiên trong trường hợp muốn thâm nhập vào thị trường
mới thì việc giao dịch qua trung gian với tư cách là
đại lý hay môi giới lại rất có ý nghĩa. Việc lựa chọn
thương nhân để giao dịch phải dựa trên cơ sở các
nghiên cứu sau:
+Tình hình sản xuất kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh
của thương nhân.
+Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật.
+Thái độ và quan điểm kinh doanh.
+Uy tín và các mối quan hệ của thương nhân.
Việc lựa chọn đối tác sáng suốt và chính xác là cơ sở
vững chắc để dẫn tới thành công trong hoạt động xuất
khẩu hàng hóa và dịch vụ.
-28-
29. c.Lập kế hoạch kinh doanh.
Trên cơ sở những kết quả thu gom được trong quá
trình nghiên cứu tiếp cận thị trường, đơn vị kinh
doanh lập phương án kinh doanh cho mình. Phương án
này là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt tới mục
tiêu xác định trong kinh doanh. Việc xây dựng phương
án bao gồm:
−Đánh giá tình hình thị trường, dựa trên sự đánh giá
đó doanh nghiệp sẽ phác hoạ nên bức tranh tổng quát
về hoạt động kinh doanh, những thuận lợi và khó khăn.
−Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức
kinh doanh, sự lựa chọn này phải có tính thuyết phục
trên cơ sở phân tích tình hình có liên quan.
−Đề ra mục tiêu cụ thể như: Sẽ bán được bao nhiêu
hàng, giá bán bao nhiêu, thâm nhập vào thị trường nào.
−Đề ra những biện pháp, cách thực hiện để đạt được
những mục tiêu. Đó có thể là các biện pháp trong nước
(Đầu tư vào sản xuất, cải tiến bao bì, chất lượng sản
phẩm...) và những biện pháp ngoài nước (quảng cáo,
tăng cường lập chi nhánh ở nước ngoài tăng cường
quan hệ bạn hàng...).
Một kế hoạch kinh doanh có khoa học dựa trên sự
phân tích chuẩn xác và đúng đắn về thị trường, bạn
hàng cũng như nội lực của doanh nghiệp sẽ quyết định
nhiều đến thành công trong kinh doanh của doanh
nghiệp.
d.Ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Ký kết hợp đồng xuất khẩu.
-29-
30. Sau khi nghiên cứu về thị trường, mặt hàng xuất
khẩu, tìm hiểu đối tác và đàm phán để thoả thuận mọi
điều kiện có liên quan thì doanh nghiệp kinh doanh
xuất khẩu và đối tác sẽ thực hiện bước tiếp theo là
ký kết hợp đồng. Khi đã ký kết hợp đồng có nghĩa giữa
doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu và đối tác cùng
ràng buộc với nhau thông qua các điều khoản quy định
trong hợp đồng. Một trong hai bên nếu vi phạm sẽ bị
sử lý, chính vì vậy khi ký kết hợp đồng với đối tác
cần phải căn cứ vào:
−Các định hướng kế hoạch của nhà nước, các chính sách,
chế độ và các chuẩn mực kinh tế hiện hành.
−Khả năng phát triển của sản xuất kinh doanh, chức
năng hợp đồng kinh tế của mỗi bên.
−Nhu cầu của thị trường, đơn đặt hàng, chào hàng của
bạn hàng.
−Tính hợp pháp của hợp đồng kinh tế và khả năng đảm
bảo về tài sản của mỗi bên khi ký kết.
Một hợp đồng xuất khẩu hàng hóa phải bao gồm các nội
dung sau:
−Số hợp đồng.
−Ngày, tháng, năm và nơi ký hợp đồng.
−Các điều khoản của hợp đồng trong đó có những điều
kiện bắt buộc.
Điều1: Tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng,
bao bì, ký mã hiệu.
Điều2: Giá cả, tên giá, tổng giá trị.
-30-
31. Điều3: Thời gian, địa điểm và phương tiện giao
hàng.
Điều4: Điều kiện xếp hàng, cơ chế thưởng phạt.
Điều5: Giám định hàng hóa.
Điều6: Những chứng từ cần thiết cho lô hàng
xuất khẩu.
Điều7: Điều kiện thanh toán.
Điều8: Trách nhiệm của các bên khi vi phạm hợp
đồng.
Điều9: Thủ tục giải quyết tranh chấp.
Điều10: Thời gian hiệu lực của hợp đồng.
Khi ký kết các hợp đồng cần phải lưu ý các vấn đề sau:
−Hợp đồng phải được trình bày rõ ràng, sáng sủa, nội
dung phản ánh đúng, đầy đủ các vấn đề đã thỏa thuận.
−Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng nên là thứ ngôn ngữ phổ
biến mà cả hai bên cùng thông thạo.
−Các điều khoản của hợp đồng phải tuân thủ đúng pháp
luật quốc tế cũng như pháp luật của các bên tham gia
ký hợp đồng.
−Người ký kết hợp đồng phải có đủ thẩm quyền chịu
trách nhiệm về nội dung đã ký.
Thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Sau khi lý hợp đồng xuất khẩu doanh nghiệp xuất
khẩu sẽ tổ chức thực hiện hợp đồng mình đã ký. Căn cứ
vào nội dung hợp đồng, doanh nghiệp tiến hành sắp xếp
các công việc phải làm, ghi thành bảng theo dõi tiến
độ thực hiện hợp đồng.
Sơ đồ các bước tiến hành thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
-31-
32. Chuẩn Thuê giấy
Xin KiểmLàm thủ
bị tàu xuất
phép ngiệm
tục hải
Giải Hoàn Mua Giao
quyết thành bộ bảo hàng lên
II.II.Vai trò của hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất khẩu
hàng nông sản.
1.Đặc điểm của mặt hàng nông sản.
Quá trình sản xuất, thu hoạch, buôn bán hàng nông
sản mang tính thời vụ. Vào những lúc chính vụ, hàng
nông sản dồi dào, phong phú về chủng loại, chất lượng
khá đồng đều và giá bán rẻ. Ngược lại, vào những lúc
trái vụ hàng nông sản khan hiếm, chất lượng không
đồng đều và giá bán thường cao. Chính vì vậy, đối với
mối doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng nông sản,
việc nghiên cứu thị trường (cả thị trường trong nước
và thị trường nước ngoài) từ đó đưa ra những dự báo
phục vụ cho quá trình thu mua dự trữ để đáp ứng những
đơn đặt hàng vào lúc trái vụ là thực sự cần thiết.
Nếu doanh nghiệp đáp ứng được đơn đặt hàng vào lúc
trái vụ thì lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được so với
lúc chính vụ sẽ lớn hơn rất nhiều. Ngoài ra do đặc
tính thu hoạch theo thời vụ nên hoạt động thu hoach
hàng nông sản thường chỉ diễn ra trong một thời gian
ngắn. Với đặc tính này buộc doanh nghiệp phải có mạng
lưới thu mua rộng khắp và phải chuẩn bị đủ vốn để
thực hiện công tác thu mua có hiệu quả.
-32-
33. Hàng nông sản chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố khí
hậu, thời tiết. Nếu năm nào, khu vực nào có mưa thuận
gió hoà, thì cây cối phát triển, cho năng suất cao,
hàng nông sản sẽ tràn ngập trên thị trường và giá rẻ.
Ngược lại, nếu năm nào, khu vực nào có khí hậu, thời
tiết khắc nghiệt, hạn hán, lũ lụt xảy ra thường xuyên
thì hàng nông sản sẽ khan hiếm và có chất lượng không
cao, gía cao. Căn cứ vào đặc tính này các doanh
nghiệp có thể tìm ra cơ hội kinh doanh cho mình.
Chẳng hạn: Khu vực thị trường nào có các doanh nghiệp
xuất khẩu cùng một mặt hàng với doanh nghiệp, là đối
thủ cạnh tranh của doanh nghiệp có thời tiết, khí
hậu khắc nghiệt, hạn hán, lũ lụt xảy ra thường xuyên
thì khu vực ấy sẽ bị mất mùa hàng nông sản. Doanh
nghiệp phải tận dụng ngay cơ hội này để đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu.
Chất lượng hàng nông sản sẽ tác động trực tiếp đến
sức khỏe và tính mạng của người tiêu dùng. Chính vì
vậy nó luôn là yếu tố đầu tiên được người tiêu dùng
quan tâm. Tại các quốc gia phát triển nhập khẩu hàng
nông sản, ngày càng có nhiều yêu cầu được đặt ra đối
với hàng nhập khẩu về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh,
an toàn toàn thực phẩm, kiểm dịch, xuất xứ.... Vì vậy
để xâm nhập vào các thị trường khó tính này buộc
doanh nghiệp phải đáp ứng được những yêu cầu mà họ
đặt ra.
Đối với hàng nông sản, khâu bảo quản và chế biến
rất quan trọng vì: Giá cả hàng nông sản xuất khẩu
phụ thuộc nhiều vào chất lượng. Chất lượng hàng nông
-33-
34. sản không những phụ thuộc vào khâu sản xuất mà còn
phụ thuộc rất nhiều vào khâu bảo quản và chế biến.
Chính vì vậy, để nâng cao giá hàng nông sản xuất khẩu
thì khâu bảo quản và chế biến phải được các doanh
nghiệp đặc biệt quan tâm. Ngoài ra, với tính chất dễ
ẩm, mốc, biến chất của hàng nông sản buộc các doanh
nghiệp tham gia xuất khẩu phải quan tâm tới điều
khoản thời hạn giao hàng bởi điều khoản này sẽ quy
định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với chất lượng
hàng nông sản khi có vấn đề phát sinh.
Chủng loại hàng nông sản rất phong phú và đa dạng
nên chất lượng của cùng một mặt hàng cũng rất phong
phú và đa dạng. Thói quen tiêu dùng và sự đánh giá về
cùng một mặt hàng trên thị trường thế giới rất khác
nhau. Chẳng hạn: Đối với mặt hàng gạo. Trên thị
trường thế giới hiện nay có 6 loại gạo chính, mỗi
loại gạo trên lại có thể phân chia thành hai hay
nhiều nhóm. Mỗi nhóm thích ứng với từng thị trường
riêng. Cụ thể: Thị trường Châu âu và quen tiêu dùng
gạo ngon, hạt dài song thị trường Châu á lại quen
tiêu dùng gạo chất lượng trung bình, hạt dài. Thị
trường Châu Phi quen tiêu dùng gạo hấp (luộc sơ) có
chất lượng không cao song loại gạo này lại không được
chấp nhận ở các thị trường còn lại. Thị trường Trung
Đông quen tiêu dùng gạo thơm, thị trường Lào quen
tiêu dùng gạo nếp...
Như vậy, có thể thấy với một loại nông sản nó có
thể được ưa thích ở thị trường này song lại không
được chấp nhận ở thị trường khác, giá có thể cao ở
-34-
35. thị trường này song lại rất thấp ở thị trường khác.
Vì vậy, trong kinh doanh hàng nông sản đối với một
doanh nghiệp vấn đề xác định thị trường mục tiêu, thị
trường tiềm năng đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối
với doanh nghiệp.
2.Đặc điểm thị trường hàng nông sản thế giới.
Hầu hết các mặt hàng nông sản phục vụ cho nhu cầu
ăn, uống của con người. Cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học công nghệ, nhu cầu hàng nông sản có
phẩm cấp cao ngày càng tăng, nhu cầu hàng có phẩm cấp
thấp ngày càng giảm xuống. Tuy nhiên hàng nông sản
phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của con người vẫn giữ
vai trò quan trọng và không thể thiếu được đối với sự
tồn tại của con người.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quốc gia xuất
khẩu hàng nông sản. nhưng các nước đang phát triển là
những nước xuất khẩu hàng nông sản chủ yếu. Tuy nhiên
hàng nông sản được xuất khẩu từ các nước này chủ yếu
là các mặt hàng thô hoặc mới chỉ qua sơ chế nên có
gía trị xuất khẩu chưa cao.
Những nước không có điều kiện thuận lợi cho phát
triển nông nghiệp là những nước chính nhập khẩu hàng
nông sản. Đây có thể là các nước chậm phát triển,
đang phát triển hoặc phát triển. Tuy nhiên nhu cầu
của mỗi nước đối với hàng nông sản rất khác nhau.
Thông thường các nước chậm phát triển và đang phát
triển có nhu cầu nhập khẩu một số lượng lớn sản phẩm
lương thực. Những sản phẩm này có yêu cầu về chất
-35-
36. lượng không cao, giá rẻ và chỉ cần một sự thay đối
nhỏ về giá cả sẽ dẫn đến sự thay đổi lớn trong hành
vi tiêu dùng của người dân tại các nước này. Ngược
lại, tại các nước phát triển, người tiêu dùng chỉ
chấp nhận sản phẩm có chất lượng cao mặc dù giá đắt.
Thị trường nhập khẩu hàng nông sản đã và đang bị
thu hẹp lại. Hiện tại các nước phát triển có nhu cầu
nhập khẩu hàng nông sản lớn nhất thế giới. Tuy nhiên
các nước này đã và đang thực hiện một cách phổ biến
và sâu rộng chế độ trợ cấp cho sản xuất nông nghiệp ở
mức độ cao, bảo hộ thị trường nông sản nội địa dưới
nhiều hình thức. Chẳng hạn: Năm 1995,1996 số tiền trợ
giá cho nông sản xuất khẩu chỉ riêng của EU đã bằng
80% tổng số tiền trợ giá của tất cả các thành viên
thuộc WTO. Cơ chế trợ cấp và trợ giá quá cao cho
hàng nông sản ở các nước đang phát triển đã gây sự
bóp méo giá cả hàng nông sản xuất khẩu, hạn chế tác
động của quy luật thị trường và giảm đi ưu thế cạnh
tranh hàng nông sản của các nước đang phát triển vốn
nhờ vào lao động rẻ. Cơ chế này không những làm tăng
khả năng xuất khẩu hàng nông sản của các nước này mà
còn hạn chế nhập khẩu nông sản của các nước này. Đây
thực tế là một bất lợi lớn đối với sản xuất nông
nghiệp và xuất khẩu khẩu nông sản của các nước đang
phát triển (trong đó có Việt Nam).
Trước sức ép của xu hướng tự do hoá thương
mại buộc các nước phát triển phải nhất trí sự cần
thiết giảm trợ giá cho các mặt hàng nông sản xuất
khẩu, mở rộng tự do hoá thị trường nông sản thế giới
-36-
37. ở một cuộc họp tại Mỹ vào tháng 11 năm 1999. Điều này
dường như dẫn tới một tương lai sáng sủa hơn cho sản
xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản của các nước
đang phát triển. Tuy nhiên, giờ đây sản xuất nông
nghiệp và xuất khẩu nông sản của các nước đang phát
triển lại phải đối mặt với những rào chắn khác, đó là
những quy định chặt chẽ về vệ sinh an toàn thực phẩm
và môi trường sinh thái mà trong nhiều trường hợp
người ta xem đó là hình thức bảo hộ trá hình nhằm
ngăn cản hàng nông sản của các nước đang phát triển
tràn vào thị trường các nước phát triển.
Các nước Châu Phi cũng có nhu cầu nông sản lớn
nhưng khả năng thanh toán hạn hẹp. Trong khi đó Liên
Hợp Quốc chỉ còn hỗ trợ nhập khẩu lương thực cho
những nước có khủng hoảng chính trị.
Tình hình trên làm cho thị trường nông sản bị
thu hẹp trong khi nguồn cung cấp nông sản khá dồi dào
ở các nước Châu á, Mỹ La Tinh, Tây Âu, Bắc Mỹ đã đẩy
kinh doanh nông sản trên thị trường thế giới vào tình
trạnh cạnh tranh quyết liệt khiến cho giá nông sản
xuất khẩu trên thị trường thế giới giảm, gây bất lợi
cho những người sản xuất nông nghiệp và cho những
nước xuất khẩu nông sản.
Theo như đã phân tích ở trên, thị trường nông sản
thế giới đang bị thu hẹp, nguồn cung cấp hàng nông
sản trên thị trường thế giới ngày càng dồi dào, cạnh
tranh giữa các nước xuất khẩu nông sản nguyên liệu
diễn ra ngày càng gay gắt buộc các nước đang phát
triển phải xuất khẩu nông sản nguyên liệu cho các
-37-
38. nước phát triển với giá thấp (các nước đang phát
triển sẽ chế biến lại để xuất khẩu). Mặt khác hàng
nông sản chế biến sâu của các nước đang phát triển
lại phải cạnh tranh với hàng nông sản xuất khẩu cùng
loại của các nước phát triển ở thế yếu hơn do hạn chế
về công nghệ chế biến và khả năng đầu tư cho công
nghệ chế biến nông sản xuất khẩu. Trong những điều
kiện này, ưu thế cạnh tranh trên thị trường thế giới
thuộc về các nước phát triển. Các nước này đã trở
thành người chi phối và chiếm ưu thế trong quan hệ
buôn bán nông sản trên thị trường.
Hiện tại thiệt thòi đang thuộc về các nước đang
phát triển. Tuy nhiên theo đánh giá của tổ chức lương
thực và nông nghiệp của Liên Hợp Quốc (FAO) với tốc
độ phát triển như hiện nay (dân số thế giới tăng
trưởng với tốc độ cao nhưng đất đai sử dụng cho nông
nghiệp lại giảm cùng với quá trình công nghiệp hoá
làm cho tốc độ tăng bình quân nhu cầu tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp lớn hơn tốc độ tăng bình quân sản
lượng nông sản trên thị trường thế giới) thì đến năm
2010 cầu về hàng nông sản trên thị trường thế giới sẽ
vượt xa cung. Điều này mở ra một cơ hội mới cho các
nước đang phát triển xuất khẩu nông sản nói chung và
Việt Nam nói riêng có thể đẩy mạnh xuất khẩu nông sản
trong tương lai.
3.Tình hình sản xuất và xuất khẩu nông sản ở Việt Nam.
a.Tiềm năng sản xuất hàng nông sản ở Việt Nam.
-38-
39. Việt Nam có tiềm năng khá lớn trong việc sản
xuất hàng nông sản, nếu như được đầu tư một cách đồng
bộ, lâu dài, khắc phục những yếu kém trong khâu thu
mua, chế biến thì Việt Nam có thể trở thành một trung
tâm sản xuất hàng nông sản lớn. Tiềm năng sản xuất
hàng nông sản của Việt Nam thể hiện ở các điểm sau:
Về đất đai:
Việt Nam có diện tích 330.363 km2, tiềm năng đất
nông nghiệp của nước ta là 10 - 11,157 triệu ha với 8
triệu ha cây trồng hàng năm (đất trồng lúa khoảng 5,4
triệu ha, 2,3 triệu ha trồng cây lâu năm) hiện nay
nước ta mới chỉ sử dụng 65% quỹ đất nông nghiệp.
Trong đó 5,6 triệu ha cho cây trồng hàng năm, cây
lâu năm là 0,86 triệu ha, 0,33 triệu ha đồng cỏ tự
nhiên và 17 triệu ha mặt nước. Chúng ta có một diện
tích lớn đất bị xói mòn, thoái hoá. Cụ thể: Vùng Bắc
Bộ 5% tổng diện tích, Khu 4 cũ 35% tổng diện tích,
Đồng Bằng Nam Bộ 34% tổng diện tích. Nếu chúng ta đầu
tư cải tạo diện tích này sẽ rất thuận tiện cho việc
phát triển cây công nghiệp dài ngày như Cao su, hạt
tiêu, cà phê.
Vùng Đồng Bằng Sông Hồng và Đồng Bằng Sông
Cửu Long có diện tích đất đưa vào sử dụng khá cao lần
lượt là 93% và 82% tổng diện tích của cả vùng nhưng
hệ số sử dụng đất mới chỉ đạt 1,5 lần do tình trạng
thâm canh trong nông nghiệp còn lạc hậu với sự yếu
kém về hệ thống thuỷ lợi. Do vậy chúng ta vẫn có thể
khai thác được vùng Đồng Bằng màu mỡ này nếu biết đầu
tư phát triển sản xuất theo chiều sâu. Đặc biệt
-39-
40. những vùng đất còn hoang hoá ở các vùng khác cũng cần
tích cực đầu tư tạo tiềm lực cho sản xuất nông nghiệp.
Đất Việt Nam có tầng dầy tơi xốp với chất dinh
dưỡng cao kết hợp với sự đa dạng và phong phú về
chủng loại (có 64 loại thuộc 14 nhóm) đây là một điều
kiện rất tốt cho nhiều loại cây trồng phát triển.
Về khí hậu.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa do ảnh
hưởng sâu sắc của chế độ gió mùa Châu á. Khí hậu Việt
Nam rất đa dạng, phân biệt rõ rệt từ miền Bắc vào
miền Nam. Miền Bắc có mùa đông lạnh. Tây Nguyên, Đông
Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long có khí hậu kiểu
Nam á. Đây là điều kiện khí hậu thuận lợi để đa dạng
hoá các loại cây trồng. Ngoài ra tiềm năng nhiệt độ,
độ ẩm và gió dồi dào phân bổ khá đồng đều trên phạm
vi cả nước. Tiềm năng nhiệt của nước ta được xếp vào
dạng giàu có với số giờ nắng cao, cường độ bức xạ
lớn, độ ẩm tương đối trong năm lớn hơn 80%, lượng mưa
khoảng 1800 - 2000 Mỹ/nămlà điều kiện lý tưởng cho
nhiều loại cây trồng sinh trưởng và phát triển.
Vị trí địa lý và các cảng khẩu.
Từ trước đến nay, một khối lượng lớn hàng nông sản
xuất khẩu của Việt Nam được vận chuyển bằng đường
biển. So với các phương thức vận tải quốc tế bằng
đường sắt, đường ống và đường hàng không thì phương
thức vận tải này có nhiều thuận lợi hơn, thông dụng
hơn và có mức cước phí rẻ hơn.
-40-
41. Trong thực tiễn chuyên chở bằng đường biển, các
doanh nghiệp Việt Nam có nhiều thuận lợi nổi bật.
Đường biển nước ta có hình chữ “S”, hệ thống cảng
biển nói chung đều nằm sát đường hàng hải quốc tế
trải dọc từ Bắc, Trung, Nam, có thể hành trình theo
tất cả các chuyến đi Đông Bắc á, Đông Nam á, Thái
Bình Dương, Trung cận Đông, Châu Phi, Châu Mỹ. Một số
cảng có khả năng bốc xếp hàng xuống tàu lớn, có hệ
thống kho bảo quản tốt. Và gần đường hàng hải quốc
tế.
Về nguồn nhân lực.
Dân số nước ta là gần 80 triệu người, cơ cấu
dân số trẻ với trên 80% sống bằng nghề nông. Đây là
một lực lượng lao động hùng hậu cung cấp cho khu vực
nông nghiệp. Mặc dù chất lượng lao động của Việt Nam
còn thấp hơn so với nhiều quốc gia khác trên thế giới
nhưng con người Việt Nam với bản chất cần cù sáng
tạo, ham học hỏi là tiềm năng lớn góp phần vào chất
lượng lao động ngành nông nghiệp Việt Nam.
Tình hình kinh tế của Việt Nam với các chính sách
nông nghiệp.
Với mục đích hoà nhập vào đời sống kinh tế thế
giới và tiến tới việc mở rộng thị trường xuất khẩu
cho hàng hóa xuất khẩu, Việt Nam đã tích cực tham gia
vào các tổ chức quốc tế và khu vực.
Tháng 7 năm 1995 Việt Nam đã trở thành thành viên
chính thức của ASEAN và đã ký kết các văn kiện của
hiệp hội như hiệp định khung về tăng cường hợp tác
-41-
42. ASEAN, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA), gia nhập WTO. Ngoài ra Việt Nam còn tiến
hành các cơ quan xúc tiến thương mại nhằm cung cấp
cho các nhà sản xuất những thông tin đầy đủ về thị
trường xuất khẩu như trung tâm xúc tiến thương mại
OSAKA và ROMA.
Ngoài những điều kiện thuận lợi trên, với quan
điểm của Đảng và nhà nước Việt Nam, xem nông nghiệp
là mặt trận hàng đầu nên việc sản xuất, chế biến,
xuất khẩu hàng nông sản cũng được chú trọng và quan
tâm. Việc ưu đãi đầu tư trong và ngoài nước nước vào
lực lượng sản xuất nông sản đã và đang tạo được động
lực mới cho sự phát triển của ngành này. Việc đẩy
mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất
cũng tạo được những bước đột phá.
Tóm lại, với những lợi thế về điều kiện tự nhiên
và lao động kết hợp với đường lối, chủ trương đúng
đắn của nhà nước hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng
nông sản của Việt Nam trong những năm tới chắc chắn
sẽ đạt được những bước lớn góp phần quan trọng của sự
phát triển đất nước.
b.Tình hình sản xuất hàng nông sản Việt Nam.
Sau hơn 15 năm thực hiện theo đường lối đổi
mới, ngành nông nghiệp nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn. Sản xuất nông nghiệp phát triển
toàn diện, nhiều mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh
và ổn định. Trong sự phát triển chung ấy nổi bật nhất
là sự phát triển trong sản xuất lương thực. Những năm
-42-
43. qua sản xuất lương thực có tốc độ tăng trưởng nhanh
với tốc độ tăng trưởng bình quân là 5%/năm do vậy
không những đáp ứng được đầy đủ nhu cầu tiêu dùng
trong nước, đảm bảo giữ vững an ninh lương thực quốc
gia mà còn biến nước ta từ một nước nhập khẩu gạo
thành một nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới.
Cùng với tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định,
việc đa dạng hoá cây trồng, mở rộng diện tích trồng
trọt, thực hiện theo phương châm đất nào trồng cây ấy
trong những năm qua đã mang lại hiệu quả kinh tế cao
trong nông nghiệp. Chẳng hạn: Đối với cây cà phê năm
1986 diện tích trồng mới là 65,6 nghìn ha trong đó
chỉ có 19 nghìn ha cho sản phẩm có sản lượng là 18,5
nghìn tấn thì các năm sau đó sản lượng tăng rất
nhanh. Năm 1990 sản lượng mới chỉ đạt 92 nghìn tấn,
năm 1995 sản lượng đạt 218 nghìn tấn thì đến năm
1997 sản lượng đã đạt 400 nghìn tấn; Đối với cây cây
cao su. Năm 1986 sản lượng mới chỉ đạt 50 ngìn tấn
thì năm 1998 sản lượng đã là 190 nghìn tấn, tăng gấp
3,8 lần so với năm 1986; Đối với cây chè năm 1997
diện tích đạt 78,6 nghìn ha cho sản lượng 47000 tấn
chè búp khô thì năm 1998 sau khi thanh lý 7982 ha,
trồng mới 26000 ha thì diện tích chè còn khoảng 73000
ha, cho sản lượng trên 50.000 tấn chè búp khô.
Trình độ thâm canh, ứng dụng khoa học vào
trong sản xuất nông nghiệp đã được cải thiện do vậy
năng suất cây trồng đã tăng đáng kể. Rõ ràng nhất là
đối với cây lúa. Năm 1986 năng suất lúa mới chỉ đạt
28,1 tạ/ha thì năm 1998 năng suất đã là 39,6 tạ/ha,
-43-
44. cao hơn năng suất trung bình 38,05 tạ/ha của thế giới
và 23tạ/ha của Thái Lan. Năng suất cao su của Việt
Nam năm 1998 đạt 1tấn/ha cao hơn mức 916 tạ/ha của
thế giới, gấp 1,3 lần năng suất của Indonexia. Năng
suất cà phê của Việt Nam cao gấp 1,5 lần của Brasin,
gấp 1,7 lần Colombia và gấp 2,17 lần Indonexia.
Tuy đã có những tiến bộ như đã nêu ở trên song
ngành sản xuất nông nghiệp ở nước ta vẫn còn không ít
hạn chế. Điển hình là: Chất lượng hàng nông sản của
ta chưa cao, hiện nay còn nhiều vùng, nhiều địa
phương nông dân còn chạy theo năng suất, số lượng,
chưa chú ý đến chất lượng sản phẩm. Việc mở rộng quá
mức diên tích trồng lúa vụ 3 ở Đông Bằng Sông Cửu
Long, cũng như sử dụng lúa lai ở Trung Quốc cho năng
suất cao nhưng chất lượng thấp ở các tỉnh phía Bắc,
sử dụng quá nhiều phân bón hoá học và thuốc kích
thích tăng trưởng trong sản xuất cũng là một trong
những lý do làm cho chất lượng hàng nông sản của Việt
Nam chưa cao.
c.Tình hình chế biến một số mặt hàng nông sản xuất
khẩu.
Chế biến đang là một lĩnh vực còn nhiều yếu
kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển xuất khẩu
hàng nông sản của Việt Nam. Trong thời gian qua, hoạt
động chế biến hàng nông sản phục vụ cho xuất khẩu chủ
yếu được thực hiện bởi những người sản xuất với
phương tiện chế biến thô sơ lạc hậu, nên có năng suất
thấp. Hoạt động này chưa được thực hiện một cách hợp
-44-
45. lý, đồng bộ, chưa được quan tâm một cách đúng mức nên
sản phẩm tạo ra thường có phẩm cấp thấp do tạp chất
nhiều, ngoại hình không hấp dẫn, chất lượng không
cao. Những yếu kém trong khâu chế biến được xem là
nổi cộm nhất hiện nay và là một trong những nguyên
nhân làm giảm sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam.
d.Tình hình xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam.
Có thể nói rằng từ năm 1990 trở lại đây, hơn 10
thực hiện chủ trương phát triển xuất khẩu, ngoại
thương Việt Nam nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng
nông sản nói riêng đã có những chuyển biến lớn. Điều
đó được thể hiện ở một số nét sau:
Hoạt động xuất khẩu nông sản có tốc độ tăng trưởng
khá nhanh và ổn định. Đặc biệt là ở các mặt hàng Gạo,
cà phê, cao su. Sản lượng xuất khẩu của các mặt hàng
này được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2: Sản lượng xuất khẩu một số mặt hàng nông sản
chủ yếu của Việt Nam giai đoạn 1995 - 2000
ĐV: 1000 tấn
Năm
1995 1996 1997 1998 1999 2000
Mặt hàng
Gạo 2058 3047 3682 3800 4500 3500
Cà phê 248,1 281,4 391,6 382 487,5 640
Cao su 138,1 194,5 195 197 265 325
Nguồn: Vụ
Thương Mại - Dịch vụ, Bộ KH&ĐT, 2000.
-45-
46. Hiện nay các mặt hàng này đã vươn lên trở thành
các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. So với
tốc độ phát triển bình quân trên thế giới thì ba mặt
hàng trên của Việt Nam có tốc độ phát triển cao và có
nhiều mặt hàng đã vươn lên đứng vị trí cao trong số
các nước tham gia xuất khẩu trên thị trường thế giới.
Chẳng hạn: từ năm 1997, Việt Nam đã vươn lên vượt Mỹ
về xuất khẩu gạo, chỉ đứng sau Thái Lan. Cà Phê Việt
Nam hiện nay đang vượt Indonexia về số lượng xuất
khẩu, vươn lên đứng vị trí số 3 trong số các nước
xuất khẩu, chỉ đứng sau Brasin và Colombia. Cao su
cũng đứng vào danh sách 10 nước xuất khẩu hàng đầu
của thế giới.
Cùng với sự tăng lên về số lượng, chất lượng hàng
nông sản xuất khẩu của Việt Nam trong những năm qua
cũng tăng lên rõ rệt. Tỷ trọng gạo 25% tấm giảm từ
60% như trước đây xuống còn 30% như hiện nay, gạo
chất lượng cao 5% tấm tăng từ 20% lên 50-60% trong
thời gian tương ứng, cà phê loại một tăng từ 15% năm
1994 lên 72% năm 1998. Chất lượng hàng xuất khẩu tăng
lên làm cho gía hàng xuất khẩu của Việt Nam trong
thời gian qua cũng tăng. Chênh lệch giữa giá gạo Việt
Nam với Thái Lan giảm từ 50 đến 60 USD/tấn năm 1995
xuống còn xuống còn 10 đến 15 USD/tấn năm 1998, chênh
lệch giá với cà phê Braxin từ 600 USD/tấn năm 1995
xuống còn 150 USD/tấn năm 1998.
Trong những năm qua số lượng hàng nông sản xuất
khẩu của Việt Nam ngày càng tăng, chất lượng hàng
xuất khẩu ngày càng được cải thiện tuy nhiên do chịu
-46-
47. sự tác động lớn của tình hình cung, cầu hàng nôngsản
trên thị trường thế giới nên kim ngạch xuất khẩu hàng
nông sản của Việt Nam tăng, giảm không ổn định.
Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản
chủ yếu giai đoạn 1995 - 2000.
ĐV: triệu USD
Năm
1995 1996 1997 1998 1999 2000
Mặt hàng
Gạo 530 868 891 1100 1080 668
Cà phê 595,5 420 497,5 593,8 592 480
Cao su 193,51 163,3 194,6 127,5 145 178
Nguồn: Vụ
Thương Mại - Dịch vụ, Bộ KH&ĐT.
Thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
ngày càng mở rộng. Nếu những năm trước đây hàng nông
sản của Việt Nam được xuất khẩu chủ yếu sang Liên Xô
và các nước Đông Âu thì nay hàng nông sản của Việt
Nam đã có mặt ở khắp các châu lục. Hàng nông sản của
Việt Nam đã gây được sự chú ý và đã bắt đầu thâm nhập
vào những thị trường khó tính như Anh, Thuỵ Sĩ, Nhật
Bản, Pháp, Hồng Kông...và những thị trường xa lạ như
Mỹ la tinh và Châu Phi. Ngoài ra một số mặt hàng nông
sản của Việt Nam đã xây dựng được mối quan hệ hợp
tác, liên doanh, liên kết được với một số cơ sở chế
biến nông sản nổi tiếng trên thế giới. VD: Cà phê đã
xây dựng được mối quan hệ với 60 khách hàng thuộc 40
-47-
48. quốc gia, trong đó có sự hiện diện của các hãng cà
phê nổi tiếng như Nestle (Mỹ), Newman (Đức), ED và
Fman (Anh), Vocate (Thuỵ Sĩ), Adirat (Pháp), Itochu
(Nhật Bản); cao su đã xây dựng thành công mối quan hệ
truyền thống với 20 khách hàng từ các quốc gia Pháp,
Đức, Italia, Hà Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.
Trên đây là những thành tựu mà ngành nông sản xuất
khẩu Việt Nam đã đạt được trong thời gian qua. Tuy
nhiên ngành vần còn không ít những tồn tại trong quá
trình hoạt động của mình. Những tồn tại gồm:
Tuy tốc độ tăng trưởng ở một số mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam tương đối cao nhưng so với
tiềm năng phát triển của ngành và so với kết qủa xuất
khẩu hàng nông sản của một số quốc gia khác trên thế
giới thì kết quả đạt được như trên còn quá khiêm tốn.
Chẳng hạn: Năm 1998. Đối với mặt hàng Cà phê lượng
xuất khẩu của Việt Nam mới chỉ bằng 38,35% lượng xuất
khẩu của Braxin và bằng 60% lượng xuất khẩu của
Colombia; Đối với Cao su lượng xuất khẩu mới chỉ bằng
12% của Indonexia và bằng 10,75% lượng xuất khẩu của
Thái Lan.
Nam nhưng số lượng thị trường nhập khẩu truyền
thống chỉ khoảng 10 quốc gia trong đó hầu hết là các
quốc gia Châu á. Đa số thị trường nhập khẩu hàng nông
sản Việt Nam là những thị trường nhập khẩu với khối
lượng nhỏ, không ổn định.
-48-
49. Trên thị trường thế giới hàng nông sản Việt Nam
chủ yếu tồn tại ở dạng thô hoặc mới chỉ qua sơ chế,
bao bì, mẫu mã lạc hậu, thiếu sức hấp dẫn nên gía
hàng nông sản Việt Nam không cao, hàng nông sản Việt
Nam còn phải chấp nhận lấy mức giá trung bình trên
thị trường thế giới làm tiêu chuẩn và mức phấn đấu
của mình. Thêm và đó, hoạt động xúc tiến thương mại
của Việt Nam rất yếu nên khả năng thâm nhập vào
những thị trường chính ngạch (thị trường đòi hỏi chất
lượng cao, tiêu chuẩn vệ sinh nghiêm ngặt) của hàng
nông sản của Việt Nam rất thấp, hàng Việt Nam chưa có
chỗ đứng trong siêu thị của các thị trường này. Chình
vì vậy, trong thời gian qua hàng nông sản Việt Nam
chủ yếu phải xuất khẩu qua môi giới trung gian, tỷ lệ
xuất khẩu trực tiếp rất thấp.
Hoạt động thu thập thông tin, tìm kiếm thị trường
còn bộc lộ nhiều yếu kém. Thông tin thu thập được
chưa cập nhật, biến động giá cả, tình hình cung, cầu
trên thị trường chưa nắm được nên lúc giá trên thị
trường cao thì lại không có hàng xuất khẩu còn khi
giá thị trường xuống thấp thì hàng lại dư thừa dẫn
đến việc bị hách hàng ép giá, phải xuất khẩu với giá
thấp, hiệu quả xuất khẩu không cao.
Qua phân tích tình hình sản xuất, chế biến, xuất
khẩu hàng nông sản của Việt Nam thời gian qua ta thấy
những thành tựu mà ngành đạt được trong thời gian qua
thật đáng khích lệ ... Tuy nhiên vẫn còn không ít các
vấn đề tồn tại cần được giải quyết. Chính vì vậy,
-49-
50. trong thời gian tới để tiếp tục phát triển Việt Nam
phải phát huy những thành tựu đã đạt được và tìm ra
giải pháp cho những tồn tại của mình.
e.Vai trò của hoạt động sản xuất, xuất khẩu nông
sản.
Trong hơn 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế xã hội, nông nghiệp nước ta đã
đóng vai trò quan trọng vào thắng lợi chung của sự
nghiệp đổi mới, là nền tảng vững chắc cho sự ổn định
và phát triển trong những năm tiếp theo. Vai trò của
hoạt động sản xuất và xuất khẩu nông sản của nước ta
trong những năm qua được thể hiện ở một số điểm sau:
Hoạt động sản xuất nông sản góp phần quan trọng
vào việc đảm bảo nhu cầu tiêu thụ hàng nông sản trong
nước, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và giải
quyết công ăn việc làm cho người lao động.
Hoạt động xuất khẩu hàng nông sản đóng góp phần
đáng kể vào việc tích luỹ vốn cho quá trình công
nghiệp hoá đất nước, giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động, giảm bớt nhập siêu, giảm bớt căng
thẳng trong cán cân thanh toán cũng như nhu cầu ngoại
tệ.
Hoạt động xuất khẩu hàng nông sản đã tác động trực
tiếp đến đời sống của người nông dân trên nhiều
phương diện. Khi thực hiện xuất khẩu, một lượng hàng
nông sản dư thừa trên thị trường nội địa sẽ được giải
quyết, lập lại quan hệ cung cầu ở mức giá cao hơn,
-50-
51. nông dân không những bán được nông sản mà còn bán
được giá. Hoạt động này làm cho nông dân có thu nhập
cao hơn từ đó làm tăng sức mua của dân cư trong thị
trường nông thôn rộng lớn với 80% dân số. Đây chính
là một động lực thúc đẩy quá trình sản xuất trong
nước.
Hoạt động xuất khẩu hàng nông sản sẽ khai thác tối
đa lợi thế của Việt Nam về điều kiện khí hậu, tài
nguyên đất nước, nguồn nhân lực... Hơn nữa hiện nay
Đảng và nhà nước ta đang thực hiện xây dựng các mô
hình kinh tế mới như kinh tế trang trại, cao su tiểu
điền, tổ hợp tác tự nguyện, hợp tác xã kiểu mới ...
thì hoạt động xuất khẩu nông sản càng trở nên quan
trọng hơn bao giờ hết, hoạt động này sẽ góp phần quan
trọng thúc đẩy các mô hình kinh tế mới phát triển.
-51-
52. Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản của công ty
VILEXIM .
I.Giới thiệu sơ lược về công ty.
1.Tên gọi, trụ sở, nguồn vốn của công ty.
a.Tên gọi.
−Tên Việt Nam: Công ty xuất nhập khẩu với Lào.
−Tên tiếng Anh: Việt Nam National Import-Export with Laos.
b.Trụ sở.
−Trụ sở chính của công ty tại 4A - Đường Giải Phóng - Hà Nội.
-52-
53. Ngoài trụ sở chính tại Hà Nội công ty còn có các chi
nhánh và văn phòng đại diện đặt tại các tỉnh, thành
phố sau:
−Chi nhánh tại thành phố HCM: 6/59 Bis đường Cao Thắng
quận 3.
−Đại diện ở Đông Hà Quảng Trị.
−Đại diện tại Vientinate - Cộng hòa nhân dân Lào.
c.Nguồn vốn hoạt động của công ty.
−Vốn điều lệ: 9.717.179.746 đồng.
−Vốn lưu động: 5.757.471.539 đồng.
−Vốn cố định: 3.959.708.207 đồng.
Trong những năm tiếp theo tùy theo yêu cầu của công
ty, công ty sẽ tiếp tục tăng thêm nguồn vốn bằng cánh
bổ sung thêm từ lợi nhuận của công ty.
2.Lịch sử hình thành công ty.
Công ty VILEXIM Hà Nội trực thuộc Bộ Thương Mại
được thành lập ngày 24-12-1987 theo quyết định số 82/
VNG-TCCB của Bộ Ngoại Thương (nay là Bộ Thương Mại).
Tiền thân của công ty là công ty xuất nhập khẩu biên
giới được thành lập năm 1967 thực hiện nhiệm vụ vận
chuyển hàng hóa của các nước XHCN chi viện cho kháng
chiến chống Mỹ cứu nước của Lào. Từ năm 1976 đến năm
1987 ngoài nhiệm vụ vận chuyển hàng viện trợ cho Lào,
công ty còn được Bộ Thương Mại giao cho tiến hành các
hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp với Lào và trong
thời gian này công ty đổi tên thành công ty xuất nhập
khẩu với Lào. Trước chính sách mở cửa nền kinh tế của
đất nước, để tồn tại và tiếp tục phát triển công ty
-53-
54. đã không ngừng mở rộng mối quan hệ hợp tác kinh doanh
với nhiều tổ chức, công ty kinh doanh của nước ngoài.
Đến nay công ty đã có quan hệ ngoại giao với khoảng
40 nước và quan hệ kinh doanh với khoảng trên 23 nước
trên thế giới.
3.Cơ cấu tổ chức của công ty .
Công ty xuất nhập khẩu với Lào là một doanh nghiệp
nhà nước trực thuộc Bộ Thương Mại. Cơ cấu của công ty
là một thể thống nhất từ trên xuống. Được thể hiện ở
sơ đồ sau:
Phòng tổ chức
hành chính
Phòng kế toán
tài vụ
Phòng kế hoạch
tổng hợp
Phó giám đốc
Phòng dịch vụ
đầu tư
Các phòng XKN
Giám đốc
từ 1-4
Đại diện
Đông Hà -Quảng Trị
Chi nhánh
tại TP.HCM
-54-
55. Phó giám
đốc
Đại diện
tại Viênchăn-Lào
Ban lãnh đạo công ty: Là bộ phận đứng đầu công ty.
Giám đốc công ty là đồng chí Nguyễn Khánh Kiền,
được Bộ trưởng Bộ Thương Mại bổ nhiệm. Giám đốc là
đại diện hợp pháp cho mọi quyền lợi và nghĩa vụ của
công ty trước pháp luật, các cơ quan quản lý nhà
nước. Giám đốc sẽ trực tiếp điều hành công ty theo
chế độ một thủ trưởng, có quyền quyết định mọi hoạt
động kinh doanh của công ty sao cho có hiệu quả đồng
thời là người chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ
thương Mại và tập thể cán bộ công nhân viên trong
công ty.
Tham mưu cho giám đốc là hai phó giám đốc.
−Phó giám đốc: Tăng Văn Cường - phụ trách công tác xuất nhập khẩu, hành
chính ở các kho Cổ Loa, kho Pháp Vân, kho 139 Lò Đúc, kho và cơ quan đại
diện tại Đông Hà, liên doanh đầu tư và công tác đời sống cho cán bộ công nhân
viên.
−Phó giám đốc: Nguyễn Trường Sơn - Phụ trách chi nhánh tại Thành Phố HCM
và văn phòng đại diện tại Viên Chăn Lào.
Các phó giám đốc có quyền triển khai các quyết
định của giám đốc, giúp giám đốc điều hành công ty,
tạo sự nhịp nhàng, thống nhất và chịu trách nhiệm
trước giám đốc về nghiệp vụ chuyên môn và lập báo cáo
định kỳ lên giám đốc.
−Dưới ban lãnh đạo là các phòng ban chức năng, các chi nhánh và văn phòng
đại diện. Cụ thể:
-55-
56. −Phòng tổ chức hành chính: Tham mưu cho giám đốc quản lý nhân sự trong
công ty. Gồm: Sắp xếp, tuyển chọn, thuyên chuyển, lập kế hoạch đào tạo cán bộ,
đánh giá chất lượng cán bộ, xét duyệt định mức tiền lương lao động trong công
ty. Ngoài ra còn quản lý công văn, giấy tờ trong các quan hệ đối nội và đối
ngoại của công ty.
Phòng kế toán tài vụ: có chức năng huy động vốn và các nguồn lực khác phục
vụ cho công tác kinh doanh của công ty, tiến hành nhận vốn và tài sản của nhà
nước giao cho công ty, tổ chức hạch toán kinh doanh, kiểm tra, kiểm soát việc
chấp hành các chế độ quản lý tài chính của các đơn vị thành viên trong công ty,
lập các báo cáo tài chính định kỳ, tổng hợp và công khai tình hình tài chính của
công ty, cung cấp số liệu, tài liệu liên quan đến tình hình tài chính của công ty
cho giám đốc cũng như các cơ quan quản lý nhà nước có chức năng.
Phòng kế hoạch tổng hợp: Thực hiện chức năng tổng hợp, báo cáo tình hình
hoạt động của công ty. Qua đó, ban giám đốc sẽ đề ra phương án sản xuất kinh
doanh phù hợp.
Phòng kinh doanh: Gồm 6 phòng, trong đó có 4 phòng thực hiện chức năng
xuất nhập khẩu, 1 phòng đầu tư có nhiệm vụ thường xuyên theo dõi tình hình
triển khai của các dự án đầu tư, đồng thời lập kế hoạch đầu tư trình ban giám
đốc, 1 phòng dịch vụ nhận các dịch vụ thuộc phạm vi kinh doanh của công ty
theo yêu cầu của khách hàng trong và ngoài nước .
Chi nhánh và văn phòng đại diện: Trưởng chi nhánh và văn phòng đại diện có
quyền ra quyết định và quản lý mọi hoạt động kinh doanh của chi nhánh và văn
phòng đại diện, có quan hệ với các cơ quan chủ quản cấp trên, với các đơn vị
kinh tế trong và ngoài nước. Trưởng chi nhánh và văn phòng đại diện có nhiệm
vụ báo cáo hoạt động kinh doanh của mình lên phó giám đốc điều hành chi
nhánh, văn phòng đại diện đồng thời chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước ban
giám đốc và tập thể cán bộ công nhân viên về quá trình điều hành sản xuất và
kinh doanh của mình.
-56-