Bài tiểu luận tình hình phát triển và phân bố ngành nông lâm ngư nghiệp ở việ...
C luoc toan cau ve bvmt th-ha
1. II. Chiến lược tòan cầu về bảo vệ môi trường và hành động phát triển bền vững.
II.1. Một số đặc điểm hiện trạng và xu thế diễn biến môi trường thế giới
Trong những năm đầu của thế kỉ XXI, tình hình môi trường trên thế giới, hiểu theo nghĩa
rộng bao gồm cả nhân tố về chất lượng môi trường và tài nguyên thiên nhiên, có những đặc điểm
sau :
II.1.1. Tăng trưởng dân số nhanh
Mặc dầu tất cả các nước trên thế giới đã có những cố gắng lớn về kế hoạch hóa dân số, nhưng
dân số vẫn tiếp tục tăng. Hiện nay dân số thế giới 6 tỷ người đang tiếp tục tăng tới 8,5 tỷ người.
Trong đó 80% là dân số các nước đang phát triển. Dự đoán sau năm 2020 tốc độ tăng dân số sẽ
chậm lại và lên tới 10 tỷ người vào năm 2050. Tốc độ tăng trưởng dân số toàn thế giới hiện khoảng
1,43%, hàng năm trên thế giới có thêm khoảng 92-93 triệu trẻ sơ sinh. Ở châu Á, tốc độ tăng trưởng
dân số hiện nay khoảng 1,39%.
Dân số nước ta hiện nay là 83,12 triệu người (2005) (xếp hàng thứ 12 trên thế giới về quy mô và
thứ 5 về mật độ). Năm 2004, tốc độ tăng trưởng dân số khoảng 1,33%.
Vấn đề dân số và phát triển đang được đặt ra : khoảng 20% dân số toàn cầu (hơn 1 tỷ người)
đang sống trong nghèo khổ, bậnh tật và suy dinh dưỡng ; khoảng 1 tỷ người các nước công nghiệp
phát triển thu nhập lớn gấp 30-40 lần so với những người thuộc thế giới thứ ba và sử dụng hơn 75%
tài nguyên của trái đất. Một thế giới bình quân thu nhập đầu người của 42 quốc gia nghèo nhất
khoảng 200 đô la/năm, một thế giới mỗi năm có 20 triệu người, trong đó có 9 triệu trẻ em bị chết do
đói nghèo, bệnh tật, cũng chính thế giới đó đang bị đe dọa 40-50 năm nữa do dân số tăng gấp đôi
đến mức 12 tỷ, trong đó tới 85-90% thuộc các nước đang phát triển ; bởi vì các nước phát triển dân
số đang giảm dần.
Tuy nhiên, những năm gần đây cộng động thế giới đã có chung tiếng nói và hành động trong
phối hợp Bắc Nam nhằm ứng phó và giải trừ căn bệnh gai góc của thời đại : Suy thoái môi trường,
nghèo đói, thất nghiệp… Nói chung nhân loại trên trái đất đang hình thành hướng tới tiêu điểm tối
thượng : Phát triển bền vững (PTBV).
Để đạt tới PTBV, hơn lúc nào hết, thế giới thứ ba phải tập trung nỗ lực và phương tiện (cả trong
nước và hỗ trợ quốc tế) ưu tiên giải quyết tận gốc các vấn đề sau đây :
* Con người : Kìm hãm tốc độ tăng dân số, giải quyết tốt vấn đề nhà ở, giáo dục, y tế (đặc biệt
trú trọng phụ nữ và trẻ em), phục hồi giá trị truyền thống gia đình.
* Nông nghiệp : Công nghệ phục vụ nông-lâm-ngư nghiệp, tạo ra giá trị tăng cho các nông sản
làm ra bởi nông dân, tăng thu nhập cho nông dân bằng các mô hình công nghiệp vệ tinh, phát
triển mô hình hương-trấn (village-town ship)
* Công nghiệp : phục vụ phát triển nông nghiệp, kiểm soát tốc độ đô thị hóa, tạo việc làm mới
cung ứng thị trường lao động.
* Công nghệ : Từng bước ứng dụng chông nghệ phục vụ môi trường.
* Văn hóa : Giữ gìn bản sắc dân tộc.
Thế giới chúng ta đang sống bị các nước công nghiệp phát triển xô đẩy toàn bộ hệ thống sinh
tồn của trái đất vào trạng thái giới hạn, dẫn đến hạn chế tiềm năng phát triển các phần khác trên
hành tinh này. Vậy mà đến nay các nước này vẫn chưa sẵn sàng nhận trách nhiệm về những hành
động ấy để đền bù những thiệt hại do họ gây ra : Các quốc gia công nghiệp phát triển đôi khi còn từ
chối hỗ trợ tài chính cho những nước đang phát triển nhằm tránh lỗi lầm trong quá khứ.
Những vấn đề tài nguyên môi trường mà tăng trưởng dân số đang đặt ra là :
* Lương thực : Trái đất có đủ sức nuôi sống 2 lần dân số hiện nay không ? Việc thiếu hụt lương
thực cho dù chỉ 10-20% lượng cần thiết sẽ dẫn đến hậu quả gì ?
* Nhà ở, nhu cầu vệ sinh, sức khỏe, dịch vụ : Xã hội đầy mâu thuẫn hiện nay có đủ khả năng
sản xuất, phân phối cho mỗi con người các điều kiện cần thiết để duy trì một cuộc sống tương
xứng với văn minh con người đã xây dựng được sau quá trình phát triển trên một triệu năm ?
1
2. * Chất lượng môi trường : Có phải khi dân số tăng gấp 2 lần thì các nguồn ô nhiễm cũng tăng
lên như vậy không ? Cải thiện môi trường có là việc khả thi hay không ?
I.1.2. Suy giảm tài nguyên đất
Hậu quả môi trường gắn liền trực tiếp với gia tăng dân số là suy giảm tài nguyên đất. Theo số
liệu của viện tài nguyên thế giới (năm 1993), quỹ đất cho toàn nhân loại là 13041,7 triệu hecta (ha),
mật độ dân số bình quân là 43 người/km². Đất được con người sử dụng chiếm 37% trong đó đất
trồng trọt chiếm 20,6%, đồng cỏ 69,6%.
Diện tích bình quân đầu người trên toàn thế giới là 2,432 ha, ở châu Á là 0,81 ha, châu Âu là
0,91ha. Một số nước quỹ đất rất hạn hẹp như Hà Lan, Bỉ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Bangladesh,
Singapore mỗi người chỉ có 0,3ha.
Đất trồng trọt trong những thập kỉ qua trên toàn thế giới hàng năm tăng 1,8%, ở châu Á tăng
1,3%, châu Âu 1,8% ; Bắc và Trung Mỹ 0,7%, nhiều nơi tốc độ tăng trưởng đất trộng trọt chỉ bằng
hoặc kém tốc độ tăng trưởng dân số. Diều đáng lo ngại là phần đất trồng trọt tăng chủ yếu do lấy từ
đất rừng, gây tác động xấu về môi trường.
Nước ta, đất tự nhiên có diện tích là 33168900ha, chưa kể các quần đảo Trường Sa và Hoàng
Sa. Về tổng diện tích, ta đứng thứ 55/200 nước. Diện tích bình quân đầu người hiện nay chỉ khoảng
0,09ha. Đất canh tác thực chỉ chiếm khoảng 80% đất nông nghiệp. Do hiệu quả đầu tư thấp, một số
đất nông nghiệp phải bỏ hóa, tỷ lệ này có khả năng tăng lên trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị
hóa.
I.1.3. Đô thị hóa (ĐTH) mạnh mẽ
Số dân đô thị tăng nhanh chóng với tốc độ 3% hàng năm cho tòan thế giới và 3-6,5% cho khu
vực châu Á Thái Bình Dương. Năm 1995, 45% dân số thế giới sống ở các đô thị. Dự báo đến 2020
các nước đang phát triển 50% dân số và các nước phát triển 75% dân số sống ở đô thị.
Ở châu Á, tỷ lệ dân số đô thị là 34% (năm 1965 mới có 22,2%). Trung bình trên thế giới 9
người dân có một xe ô tô, con số này ở châu Á là 32.
Ở Việt Nam, tỷ lệ cư dân đô thị 19,1% (1980), tăng chậm chạp lên 19,3% (1985), tăng lên
20,3% (1990), năm 2000 là 25%, năm 2005 dân số khu vực thành thị là 26,8% (22,3 triệu người),
dân số nông thôn 73,2% (60,89 triệu người) và dự báo đến 2010, 35% là cư dân thành thị.
Vấn đề ĐTH và phát triển : ĐTH không chỉ tăng trưởng kinh tế mà còn tạo ra nhiều vấn đề liên
quan môi trường cần được giải quyết.
ĐTH đang là vấn đề thời sự nóng bỏng trong thế giới thứ ba, đặc biệt là các nước châu Á nói
chung và khu vực Đông Nam Á nói riêng và trở thành xu thế chuyển dịch cơ cấu dân số trên toàn
cầu ở cuối thế kỉ 20 và đầu thế kỉ 21.
Hiện tượng ĐTH xuất phát từ một số nguyên nhân chủ yếu sau :
Cách mạng công nghiệp đầu thế kỉ 19 đưa tới sự phát triển các thành phố lớn và hiện đại.
Mức tăng tự nhiên dân số tại các đô thị
Di dân
Chuyển dịch của nông dân đổ xô vào các thành phố để mưu tìm cuộc sống vật chất cao hơn
nông thôn.
Năm 1890 thế giới chỉ có 14% dân số tập trung tại các đô thị, năm 1950 tăng lên 29% (tương
ứng với 600 triệu người) đến năm 1986 đạt mức 43% (khoảng 2 tỷ người). Nếu tỉ lệ này không thay
đổi vào năm 2000 gần 50% nhân loại sẽ chen chúc trong các đô thị.
Vào năm 2000 trong số 35 đô thị đông dân nhất trên thế giới sẽ có 15 thành phố thuộc châu Á
và 8 thuộc châu Phi.
Đến năm 2020, dân số sống ở đô thị tăng gấp đôi và tốc độ ĐTH xảy ra cực nhanh tại các nước
đang phát triển với tỉ lệ 3,5% mỗi năm (hơn ba lần so với các nước công nghiệp hóa). Riêng Nam
Mỹ, tốc độ đô thị hóa nhanh hơn tỉ lệ tăng trưởng dân số 2,9% so với 2,3%.
2
3. Một số vấn đề liên quan đến tình trạng suy thoái môi trường gây ra bởi sự bùng nổ ĐTH tại
châu Á :
- Năng lượng, nguyên liệu sử dụng và khối lượng chất thải bình quân đầu người tại các thành
phố cao hơn nhiều so với nông thôn.
- Ô nhiễm tại các thành phố thường tập trung trong diện tích nhất định nên càng gây tác hại đến
sức khỏe con người.
- Hạ tầng công nghệ và trình độ quản lí môi trường đô thị của hầu hết các nước châu Á còn
khiếm khuyết nên chưa thể kiểm soát có hiệu quả tác động đối với môi trường do ĐTH.
- Ô nhiễm không khí tại các thành phố châu Á rất cao. Chẳng hạn, số ngày hàng năm không khí
có hàm lượng sulfua dioxit trên mỗi m3
vượt quá định mức của tổ chức y tế thế giới (150mg) ở
Sêun là 87 ngày, Bắc Kinh 68 ngày, Calcutta 25 ngày, New York 8 ngày, Frankfurt 8 ngày,
Milan 6 ngày.
- Khối lượng chất thải lỏng và rắn không được xử lí thích hợp đang tăng nhanh tại các đô thị
châu Á.
- Nhu cầu chất đốt tại các đô thị dẫn đến nạn phá rừng, xói mòn đất, cạn kiệt nguồn nước sạch
làm giảm năng suất ngành nông nghiệp, đồng thời gây ra hiện tượng sa mạc hóa.
Ngân hàng thế giới nhấn mạnh : « Nếu không cải tiến quản lí, nhiều thành phố châu Á sẽ bị ô
nhiễm nghiêm trọng nhất thế giới, hậu quả sẽ kìm hãm tăng trưởng kinh tế và sản sinh lượng
hyđrocarbon và chất ô nhiễm khác làm suy thoái môi trường thế giới ».
Một số vấn đề chủ yếu cần quán triệt trong quan hệ giữa môi trường và ĐTH tại các nước đang
phát triển :
- Phát triển đô thị tại các nước thế giới thứ ba, đặc biệt tại châu Á-Thái Bình Dương luôn đi kèm
tình trạng suy thoái môi trường.
- Tình trạng suy thoái môi trường sẽ hạn chế hoạt động sản xuất trong hiện tại và kìm hãm phát
triển nhân lực trong tương lai.
- Môi trường đô thị bị tác động nghiêm trọng hơn nông thôn.
- Thành phần dân nghèo chiếm 30-50% tại đô thị và thành phố các nước châu Á-Thái Bình
Dương và một loạt nhu cầu đặt ra phải giải quyết : nhà ở, nước sạch, năng lượng, vệ sinh, giáo
dục, xử lý chất thải, thoát nước…
- Các đô thị đòi hỏi tập trung trên quy mô lớn về lương thực, nước, nhiên liệu… Vận chuyển
(lương thực, nước, chất đốt, kể cả các chất thải) không chỉ đơn thuần là bài toán tiếp vận mà còn
liên quan đến năng lượng. Đô thị càng lớn, vấn đề càng phức tạp và tốn kém : Ví dụ để giải
quyết nước cho thủ đô Mê xi cô người ta phải bơm nước từ Cutzanata cách xa 100km và thấp
hơn 1000m đòi hỏi năng lượng tương đương 12,5 ngàn tỷ KJ mỗi năm, cần phải xây dựng 6 nhà
máy nhiệt điện với công suất 1000 MW mỗi đơn vị, tổng chi phí đầu tư khoảng 6 tỷ USD.
- Các đô thị tại những nước đang phát triển còn gặp phải tình trạng thất nghiệp (20% dân số họat
động và khiếm dụng 40%) do nông dân bỏ ruộng đồng gia nhập đội quân thất nghiệp và khiếm
dụng.
Trong tập « Phúc trình về phát triển nhân lực » từ cuối thế kỉ 20 đã nêu ra nhận đình sâu sắc như
sau :
« Đô thị các quốc gia đang phát triển có nhiều tương phản. Các đô thị này đã góp phần phát
triển nhân lực nhưng nó cũng đã kìm hãm. Nó là trung tâm của thịnh vượng nhưng cũng là nơi tập
trung của nghèo đói. Đô thị cung ứng nhân sự tốt cho các xí nghiệp nhưng cũng tạo hạng người
tham lam nhất. Nó chứa đựng các dịch vụ tốt nhất nhưng cũng mang theo nhiều bệnh tật xã hội,
sống chen chúc, không đủ điều kiện vệ sinh, nghiện ngập, bất ổn xã hội và ô nhiễm môi trường ».
Trong khi các vấn đề môi trường gây ra bởi đô thị hóa mỗi lúc thêm nhiều và phức tạp, các
nước đang phát triển, kể cả ASEAN mắc phải một số nhược điểm cơ bản trong bộ máy quản lí môi
trường đô thị.
- Trước tiên, bộ máy quản lí tản mạn không tập trung và thiếu thích hợp.
- Thứ hai, bộ máy quản lí kém và thiếu nhân lực chuyên môn.
- Thứ ba, hiểu biết về đánh giá tác động môi trường (ĐTM) còn hạn chế do thiếu thông tin và
công nghệ môi trường. Chẳng han, chưa đánh giá để lựa chọn giữa hai giải pháp : đốt hay chôn
3
4. lấp chất thải rắn hoặc giữa phát triển các sân golf và dịch vụ du lịch dẫn đến mâu thuẫn với
nông dân địa phương phá rừng và san hồ gây ô nhiễm nước…
- Thứ tư, không có kế hoạch dành đất đáp ứng sự tăng trưởng dân số ở các thành phố đưa tới
tình trạng lạm dụng và biến đất canh tác nông thôn thành tài sản mua bán làm lợi cho một thiểu
số và làm giảm sản lượng nông phẩm.
Một số ý kiến chủ đạo nhằm tăng cường và hoàn thiện quản lí môi trường đô thị :
- Phát triển các khu công nghiệp vệ tinh nhằm giảm áp lực phát triển đô thị tập trung (kinh
nghiệm của Hy Lạp công nghiệp hóa (CNH) từ thế kỉ 19 bằng cách xây dựng các thành phố trên
nền tảng thành công của trồng trọt).
- Có kế hoạch sử dụng đất cho CNH, nhất là khu vực sản xuất tạo ra giá trị gia tăng.
- Kiên quyết phủ định các công nghiệp phụ thuộc nhiều vào việc nhập nguyên vật liệu không
phụ thuộc, liên hệ đến khu vực.
- Cung ứng hạ tầng hỗ trợ mục tiêu phát triển bền vững (PTBV).
- Cải thiện môi trường đô thị phải hoạt động song hành với lực lượng thị trường và công luận
(bao gồm các ưu tiên của cộng đồng) chứ không phải ngược lại.
- Người nào, đơn vị kinh tế nào gây ô nhiễm môi trường phải gánh chịu chi phí làm sạch môi
trường.
- Tình trạng tắc nghẽn giao thông tại các đô thị phải sớm được giải quyết.
- Phải quan tấm đến khổ, cỡ (qui mô) cho các đô thị. Thái tử Charles (là một nhà bảo vệ môi
trường) cho rằng các thành phố nhỏ dễ tiếp cận hơn là các siêu đô thị.
- Giáo dục dân chúng quan tâm đến đất đai, gia đình và hài lòng với việc làm của mình dẫu cho
thật khiêm tốn, vui lòng với cuộc sống và gắn bó với cộng đồng – Phải đào tạo các nhà quản lí
cộng đồng tài giỏi.
- Sau hết phải có chính sách tăng trưởng cân đối với phát triển cộng đồng ưu tiên dựa trên nội
lực về vốn và hạ tẩng hơn là vay mượn mà thế hệ tương lai phải mang nợ. Chính sách này phải
tạo cân đối trong quan hệ nông thôn – thành thị.
Tóm lại, phát triển đô thị tại các nước châu Á đang là thách thức lớn nhất của thế giới bởi không
phải chỉ vì tính chất phức tạp của vấn đề mà còn bởi mối quan hệ phức tạp giữa tăng trưởng, dân số,
nghèo đói và môi trường.
I.1.4. Hình thành các siêu đô thị
Xu thế ĐTH sẽ dẫn tới hình thành các siêu đô thị (megacities) với dân số trung bình trên 4 triệu
người. Năm 2000, thế giới có 20 siêu thị với dân số trên 10 triệu người (11 ở châu Á, 7 ở châu Mỹ
và 2 ở châu Phi). Khu vực châu Á-Thái Bình Dương hiện đã có 18 thành phố trên 4 triệu dân. Ở
nước ta, thành phố Hồ Chí Minh sẽ là một trong các siêu đô thị.
Ở Việt Nam, hơn 500 thành phố và đô thị, có 2 thành phố trên 1 triệu dân ( Hà Nội khoảng hơn
3 triệu dân với một nửa ngoại thành, Thành phố Hồ Chí Minh hơn 4 triệu dân – 5 triệu dân, khoảng
1/4 là ngoại thành) và 2 thành phố có số dân từ 350000 đến 1 triệu dân.
Trong những năm tới, nếu không có qui hoạch đô thị hợp lí, có khả năng thành phố Hồ Chí
Minh và cả Hà Nội sẽ trở thành siêu đô thị với tất cả những vấn đề môi trường phức tạp, về mật độ
dân cư, nghèo đói và thiếu thốn cơ sở hạ tầng.
I.1.5. Mất cân đối dân số đô thị nông thôn
Dân số đô thị toàn thế giới hiện nay đang tăng nhanh với tốc độ 1%. Khu vực châu Á-Thái Bình
Dương tốc độ này từ 1-2,5% tạo ra xu thế mất cân bằng về sự phân bố cư dân đô thị và nông thôn.
Một mặt, lực lượng lao động trẻ sẽ bị thu hút vào đô thị, mặt khác tại nông thôn do thiếu lực lượng
lao động trẻ khỏe, nên công tác hồi phục suy thoái sẽ gặp nhiều khó khăn.
Sự mất cân đối này thường diễn ra qua việc dân nông thôn di cư một cách vô tổ chức tới các đô
thị. Viện tài nguyên thế giới uóc lượng rằng, trên thế giới hàng năm có khoảng 70000 km² đất nông
nghiệp phải bỏ hoang do không còn màu mỡ, khoảng 200 000km² khác năng suất giảm sút một cách
rõ rệt. Hàng triệu nông dân không còn đất để canh tác, hoặc do lao động nông nghiệp cực nhọc
không thể nuôi sống họ đã phải bỏ làng xóm để đi tìm việc làm tại các đô thị. Một số khác tự động
4