2. Lao xao bồ đề gọi gió
Bốn bề cô tịch khói hương
Mõ sớm lan cùng sóng vỗ
Chuông khuya man mác hoa vườn
Lặng lẽ tan hòa bóng nước
Thâm nghiêm tọa giữa Tây Hồ
Hoàng hôn nhuộm vàng Trấn Quốc
Màu thiền thoáng gợi ngàn xưa...
Chùa Trấn Quốc, ngôi chùa nằm trên một hòn đảo ở phía Đông Tây Hồ, với bề
dày lịch sử hơn 1500 năm, chùa được coi là lâu đời nhất nhất Thăng Long-Hà
Nội...
3.
4. Lịch sử của chùa:
Chùa được xây dựng vào đầu thời vua Lý Nam Đế (544-548) ở trên
bãi sông hồng, thuộc địa phận làng An Hoa, huyện Quảng Đức, phủ
Phụng Thiên. Khi đó chùa được mang tên là Khai Quốc. Đến thế kỉ
15, chùa được đổi tên là An Quốc và cuối cùng vào thế kỉ 17, chùa đã
được mang và giữ tên là Trấn Quốc đến ngày nay... Nhưng không
chỉ vậy, ngoài các tên gọi như Khai Quốc, An Quốc và Trấn Quốc,
nhiều người Hà Nội xưa thường gọi là chùa Trấn Vũ cũng như câu
thơ ca ngợi vẻ đẹp thanh tịnh của chùa:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ.
5.
6. Cấu trúc đặc sắc của chùa Trấn Quốc
Chùa Trấn Quốc, với kiến trúc hài hòa giữa tính uy
nghiêm, cổ kính với cảnh quan thanh nhã giữa nền tĩnh
lặng của một hồ nước mênh mang. Là trung tâm Phật Giáo
của kinh thành Thăng Long vào thời Lý và Trần. Với
những giá trị về lịch sử và kiến trúc, chùa Trấn Quốc nổi
tiếng là chốn của Phật linh thiêng, là điểm thu hút rất
nhiều tín đồ Phật tử và khách tham quan, du lịch trong và
ngoài Việt Nam...
7. Với vị trí đặc biệt, chùa tọa lạc ngay trên một hòn đảo duy nhất của hồ
Tây. Phía trên cửa chùa có ghi 3 chữ “ phương tiện môn” và câu đối hai
bên viết bằng chữ nôm:
“ Vang tai xe ngựa qua đường tục
mở mặt non sông đứng cửa thiền”
Giống hầu hết những ngôi chùa khác ở Việt Nam, kết cấu và nội thất chùa
Trấn quốc có sự sắp xếp trình tự và theo nguyên tắc khắt khe của phật
giáo. Gồm nhiều lớp với nhà ba ngôi chính là tiền đường, nhà thiêu
hương và thượng điện nối thành hình chữ Công.
8.
9. Tiền đường của chùa hướng về phía Tây.hai bên nhà thiêu hương và
thượng điện là hai dãy hành lang. Sau Thượng điện là gác chuông. Gác
chuông là một ngôi nhà ba gian , mái chồng diêm, nằm trên trục sảnh đường
chính.
Bên phải là nhà tổ và bên trái là nhà bia. Trong chùa hện nay đang lưu giữ
14 tấm bia. Trên đó khắc năm 1815 có bài văn của tiến sĩ Phạm Quý Thích
ghi lại việc tu sửa chùa sau một thời gian dài đổ nát. Công việc này bắt đầu
nào năm 1812 và kết thúc vào 1815....
10. Nhưng không chỉ thế, điều đặc biệt nhất của chùa đó chính là ở khuân viên
của chùa Trấn Quốc còn “ Bảo tháp lục độ đài sen”. Bảo tháp này được xây
dựng vào năm 1998 với 11 tầng, cao 15m. Mỗi tầng tháo có 6 ô cửa hình vòm
, trong mỗi ô đặt một pho tượng Phật A Di Đà bằng đá quý. Đài tháp có đài
sen 9 tầng ( được gọi là cửu phẩm liên hoa) cũng bằng đá quý. Bảo tháp này
còn được dựng đối xứng với cây bồ đề lớn. Đây là cây bồ đề mà thủ tướng Ấn
Độ đã đem sang, nó cũng chính là một nhánh cây từ cây bồ đề mà đức Phật
đã bước xuống cách đây hơn 2000 năm... Trụ trì của chùa cũng đã giải thích
sự đối xứng đó là: “ hoa sen tượng trưng cho Phật tính chân, như tính sinh ở
dưới bùn mà không bị ô uế. Bồ đề là trí giác, trí tuệ vô thượng.”
11. Và trong văn bia” tái tạo Trấn Quốc tự bi” do tiến sĩ khoa Kỷ Hợi
năm Cảnh Hưng thứ 40 soạn ca, đã ca ngợi: “ Đứng trên cao ngắm
cảnh chùa, mây lồng đáy nước, mặt hồ ánh xanh xanh khiến du
khách lâng lâng. Tiếng chuông chùa gọi ai tỉnh mộng trần tục.....”