Publicidad
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Publicidad
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Publicidad
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Publicidad
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Publicidad
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Publicidad
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Publicidad
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Publicidad
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Publicidad
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Publicidad
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf
Próximo SlideShare
Bài mẫu Luận văn quản lý nhà nước về khu chế xuất, HAYBài mẫu Luận văn quản lý nhà nước về khu chế xuất, HAY
Cargando en ... 3
1 de 74
Publicidad

Más contenido relacionado

Similar a Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf(20)

Más de HanaTiti(20)

Publicidad

Último(20)

Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.pdf

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------- GIẢN VIẾT DŨNG TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHUYÊN MỤC VỀ PHÁP LUẬT TRÊN ĐÀI TRUYỀN THANH CẤP HUYỆN Ở HÒA BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ Hà Nội - 2019
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------- GIẢN VIẾT DŨNG TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHUYÊN MỤC VỀ PHÁP LUẬT TRÊN ĐÀI TRUYỀN THANH CẤP HUYỆN Ở HÒA BÌNH Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học Mã số: 60 32 01 01 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học Chủ tịch hội đồng PGS.TS. Đinh Thị Thu Hằng PGS.TS. Vũ Quang Hào Hà Nội - 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Đinh Thị Thu Hằng. Các số liệu thống kê, kết quả nghiên cứu, phát hiện mới là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào trước đây. Luận văn có sử dụng, phát triển, kế thừa một số tư liệu, số liệu, kết quả nghiên cứu từ các sách, giáo trình, tài liệu.... liên quan đến nội dung đề tài. Tác giả luận văn Giản Viết Dũng
  4. LỜI CẢM ƠN Trong thời gian học tập và thực hiện luận văn Cao học, tôi đã nhận được rất nhiều sự chỉ dẫn nhiệt tình của các thầy - cô giáo khoa Báo chí và truyền thông, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội). Tôi vô cùng quý trọng, biết ơn sự chỉ bảo đó và xin được chân thành gửi lời tri ân đến toàn thể các thầy - cô giáo. Đặc biệt, tôi xin ngỏ lời cám ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS. Đinh Thị Thu Hằng - người đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ dạy, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn. Và hơn hết, trong quá trình làm luận văn, tôi đã học tập ở cô một tinh thần nghiên cứu khoa học nghiêm túc, cẩn thận, tỉ mỉ và một thái độ làm việc hết mình. Xin được gửi đến thầy sự biết ơn và lòng kính trọng chân thành nhất đến cô. Cám ơn bạn bè lớp Cao học Báo chí K47 và đồng nghiệp làm việc tại Đài truyền thanh cấp huyện: Lạc Sơn, Lương Sơn, Tân Lạc, Yên Thủy tỉnh Hòa Bình – là những người luôn sẵn sàng giúp đỡ tôi hoàn thành tốt luận văn của mình. Cảm ơn gia đình và những người thân yêu đã luôn tin tưởng, động viên và ủng hộ. Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp chân thành của Hội đồng khoa học, của quý thầy cô giáo cùng với sự góp ý của bạn bè đồng nghiệp để luận văn hoàn thiên có chất lượng tốt hơn. Hà Nội, tháng 04 năm 2019 Giản Viết Dũng
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................................1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đên đề tài ..........................................................2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................7 5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu...........................................................7 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn ............................................................9 7. Đóng góp mới của luận văn.................................................................................9 8. Bố cục luận văn..................................................................................................10 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHUYÊN MỤC VỀ PHÁP LUẬT TRÊN ĐÀI TRUYỀN THANH CẤP HUYỆN ...........................................................................................................11 1.1. Một số khái niệm và thuật ngữ liên quan đến đề tài .................................11 1.1.1. Tổ chức sản xuất..........................................................................................11 1.1.2. Chuyên mục..................................................................................................15 1.1.3. Pháp luật......................................................................................................17 1.1.4. Phát thanh và Đài truyền thanh cấp huyện .................................................19 1.1.5. Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện......................................................................................................................22 1.2. Đặc điểm và vai trò chuyên mục trên đài truyền thanh cấp huyện..........23 1.2.1. Đặc điểm chuyên mục..................................................................................23 1.2.2. Vai trò chuyên mục trên đài truyền thanh cấp huyện..................................24 1.3. Những điều kiện và quy trình tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện........................................................................26 1.3.1. Những điều kiện để tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện..........................................................................................26 1.3.2. Quy trình tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ...............................................................................................................30
  6. 1.4. Các yêu cầu đối với tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện.......................................................................................34 Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................................36 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHUYÊN MỤC VỀ PHÁP LUẬT TRÊN ĐÀI TRUYỀN THANH CẤP HUYỆN Ở HÒA BÌNH ....37 2.1. Khái quát đối tƣợng thuộc diện kháo sát ...................................................37 2.1.1. Khái quát về các Đài truyền thanh huyện Lạc Sơn, Lương Sơn, thành phố Hòa Bình................................................................................................................37 2.1.2. Tình hình hoạt động của các Đài Truyền thanh huyện ......................................41 2.1.3. Khái quát chuyên mục về “Pháp luật” trên đài truyền thanh cấp huyện Hòa Bình................................................................................................................46 2.2. Khảo sát quy trình tổ chức sản xuất chuyên mục phát thanh về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở các Đài đƣợc khảo sát.............................................47 2.2.1. Về xác định mục tiêu chuyên mục về pháp luật.................................................49 2.2.2. Về nội dung chuyên mục về pháp luật ..............................................................50 2.2.3. Về kịch bản, xây dựng kế hoạch tin, bài và nguồn nhân lực phân công công việc trong tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật........................................................52 2.2.4. Về chuẩn bị thiết bị kỹ thuật.............................................................................54 2.2.5. Về tập đồng hồ chương trình, kết cấu, phát sóng chương trình chuyên mục về pháp luật .................................................................................................................55 2.3. Đánh giá những thành công, hạn chế và nguyên nhân thành công hạn chế về tổ chức sản xuất chuyên mục pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình................................................................................................................56 2.3.1. Thành công ..................................................................................................56 2.3.2. Hạn chế........................................................................................................58 2.3.3. Nguyên nhân thành công hạn chế................................................................61 Tiểu kết chƣơng 2....................................................................................................63 CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHUYÊN MỤC VỀ PHÁP LUẬT TRÊN ĐÀI TRUYỀN THANH CẤP HUYỆN Ở HÒA BÌNH ...........................................................................................64
  7. 3.1. Những vấn đề đặt ra .....................................................................................64 3.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình..................................70 3.2.1. Giải pháp chung ..........................................................................................70 3.2.2. Giải pháp cụ thể...........................................................................................76 Tiểu kết chƣơng 3 ................................................................................................85 KẾT LUẬN..............................................................................................................87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................91 PHỤ LỤC.................................................................................................................97
  8. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Đài PT-TH Đài Phát thanh – Truyền hình Đài TT-TH Đài Truyền thanh – truyền hình GS. Giáo sư Nxb Nhà xuất bản Ts. Tiễn sĩ UBND Ủy ban nhân dân VH-XH Văn hóa – xã hội
  9. DANH MỤC HÌNH TRONG LUẬN VĂN Hình 1.1. Tổ chức sản xuất gồm nhiều nhóm người, nhiều bộ phận cùng tham gia để tạo nên sản phẩm cuối cùng ......................................................................................14 Hình 1.2. Qúa trình phát sóng Radio FM..................................................................33 Hình 2.1. Sơ đồ tổ chức bộ máy đài huyện, thị tỉnh Hòa Bình.................................44 Hình 2.2. Sơ đồ quy trình tổ chức sản xuất chuyên mục về Pháp luật chung cho các Đài TT-TH huyện ở Hòa Bình ..................................................................................48
  10. 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Sự thay đổi về công nghệ tạo điều kiện để thay đổi phương thức sản xuất chương trình phát thanh từ gián tiếp sang trực tiếp giúp những người làm phát thanh từ biên tập đến kỹ thuật viên, đạo diễn chương trình có điều kiện để thay đổi kết cấu chương trình và phương thức làm việc cho phù hợp với yêu cầu chung của nhịp sống công nghiệp hoá. Giáo dục pháp luật được hiểu là hoạt động có định hướng, tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục, tác động lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành. Ở nước ta, cùng với công tác xây dựng và tổ chức thực hiện tuyên truyền và giáo dục pháp luật. Pháp luật hiện nay đang là mắt xích quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt đối với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Và để đáp ứng được tâm tu nguyện vọng trên của người dân. Các phương tiện truyền thông nói chung và Đài truyền thanh cấp huyện hiện nay đã và đang làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến với quần chúng nhân dân bằng cách đưa pháp luật đi vào cuộc sống. Là một tỉnh miền núi, Hòa Bình có đến 7 dân tộc thiểu số sinh sống trong đó người Mường chiếm 63,7%. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có nhiều tôn giáo khác nhau đang hoạt động, ngoài những thuận lợi cũng có không ít khó khăn. Với những nỗ lực liên tục, thời gian qua các đài truyền thanh truyền hình cấp huyện ở Hoà Bình đã có đóng góp đáng kể trong sự phát triển. Các đài truyền thanh truyền hình đã được phủ sóng rộng khắp cấp huyện, thị trấn, thị xã ở Hoà Bình. Nhờ đó chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở tỉnh Hòa Bình đã được thính giả biết đến nhiều hơn, mang lại những
  11. 2 thông tin thiết thực cho nhiều người nghe đài trên nhiều lĩnh vực như chính trị, văn hóa, giáo dục, kinh tế, khoa học.... trong và ngoài nước. Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở tỉnh Hòa Bình là hoạt động quan trọng trong việc thực hiện chương trình phát thanh nói chung và trong đó có chuyên mục “pháp luật”. VìThế hiểu được công tác tổ chức sản xuất là vô cùng cần thiết. Đặc biệt là đặt trong bối cảnh mạng xã hội và phương tiện truyền thông mới đang ngày càng trở nên phổ biến và được công chúng lựa chọn, tiếp nhận thông tin như hiện nay. Thực tiễn đó đòi hỏi phải có những nghiên cứu kịp thời về tầm quan trọng của việc tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện. Mặt khác, đây là đề tài còn ít được nghiên cứu. Những ý kiến đóng góp, phê bình của thính giả gần xa cho chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh truyền hình cũng là yếu tố thôi thúc đội ngũ cán bộ lãnh đạo, ban biên tập chương trình đài truyền thanh truyền hình Hòa Bình phải nhanh chóng có những việc làm thiết thực để nâng cao hiệu quả, chất lượng tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật của Đài. Từ những lí do trên, mà tác giả mạnh dạn đưa ra nghiên cứu đề tài “Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình” để làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Báo chí học của mình. Nghiên cứu sẽ chỉ ra thực trạng việc tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện. Từ đó, đề xuất các giải pháp khắc phục những tồn tại trong công tác tổ chức sản xuất nhằm giúp chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện nói chung và các chuyên mục khác của nhà Đài các huyện thuộc tỉnh Hòa Bình ngày càng khẳng định vị thế trong lòng khán thính giả nghe đài. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đên đề tài Tổ chức sản xuất là một trong những khâu cơ bản, có tính chất quyết
  12. 3 định đến hiệu quả của hoạt động sản xuất cũng như chất lượng của sản phẩm phát thanh. Tiến sĩ Trần Bảo Khánh cho rằng: “quá trình chuyển tác phẩm báo chí dưới dạng thể loại đến với công chúng phụ thuộc vào hai yếu tố: khả năng xây dựng kế hoạch từ việc tổng hợp tình hình (tương đương với tổ chức sản xuất) và khả năng của lực lượng trong sáng tạo và sản xuất” [45, tr. 35]. Với tầm quan trọng đó, công tác tổ chức sản xuất chương trình đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Trong quá trình khảo sát các tư liệu liên quan để phục vụ luận văn này, chúng tôi thấy đến nay về lí luận có rất nhiều công trình nghiên cứu, người viết đã khai thác lí luận cơ bản về báo chí phát thanh như: Giáo trình Báo chí phát thanh của nhóm tác giả Khoa Báo chí trường Học viện báo chí tuyên truyền và Đài Tiếng nói Việt Nam biên soạn, Nxb Văn hóa thông tin, 2002. Với tổng cộng 20 chương, đề cập một cách khá toàn diện về những vấn đề của phát thanh Việt Nam hiện đại. Chuyên luận Lí luận báo phát thanh của tác giả Đức Dũng, Nxb Văn hóa - Thông tin, năm 2003. Chuyên luận bao gồm 9 chương, trong đó có đề cập đến những vấn đề của đặc trưng loại hình và các thể loại báo phát thanh. Cuốn sách Lí luận báo phát thanh, Nxb Văn hóa thông tin, 2003 của Đức Dũng. Nội dung cuốn sách gồm hai phần: Phần thứ nhất gồm 6 chương, trình bày vị trí, vai trò của báo phát thanh trong hệ thống các loại hình thông tin đại chúng; đặc trưng báo phát thanh; viết cho phát thanh; kỹ năng nhà báo phát thanh; chương trình phát thanh và phát thanh trực tiếp. Phần thứ hai gồm 9 chương, trình bày các thể loại phát thanh như: tin, tường thuật, bình luận, phóng sự, ghi nhanh, phỏng vấn, tọa đàm, bài phản ánh,... Cuốn sách Sách báo phát thanh: Lý thuyết và kỹ năng cơ bản, Nxb Chính trị - Hành chính, năm 2013 của Đinh Thị Thu Hằng. Tác giả đã giới thiệu quá trình hình thành và phát triển của báo phát thanh; đặc trưng, công chúng và phương tiện hoạt động, viết và biên tập cho báo phát thanh; các thể
  13. 4 loại của báo phát thanh và tổ chức sản xuất chương trình phát thanh Các công trình này đã hệ thống cụ thể đặc trưng của báo phát thanh, công chúng báo phát thanh, các phương tiện tác động đến phát thanh,viết và biên tập cho báo phát thanh; các thể loại phát thanh, nhất là nêu ra một quy trình cơ bản của tổ chức sản xuất chương trình phát thanh. Tác giả Phan Kim Loan, Khoa Báo chí, Trường Cao đẳng Phát thanh – Truyền hình II chủ trì đề tài nghiên cứu Sự đổi mới loại hình phát thanh của một số Đài cấp tỉnh phía Nam (từ năm 1986 đến 2010). Đề tài này ghi nhận khá đầy đủ diện mạo chung của Báo phát thanh phía Nam cũng như những thay đổi phù hợp xu hướng phát thanh đang diễn ra. Về các luận văn thạc sĩ, có đề cập đến những vấn đề của báo chí phát thanh, truyền hình địa phương, đến nay đã có một số công trình như sau: Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học của Nguyễn Thị Minh Diễm “Nâng cao chất lượng chương trình phát thanh cấp tỉnh khu vực bắc sông Hậu, đồng bằng sông Cửu Long” năm 2009, tại Học viện báo chí và Tuyên truyền. Tác giả luận văn chỉ ra những mặt thành công, hạn chế và tìm kiếm các giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả chương trình phát thanh tại 6 đài cấp tỉnh bắc sông Hậu thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học của Nguyễn Thị Mai Hồng “Nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh của hệ thời sự - chính trị - tổng hợp (VOV) Đài tiếng nói Việt Nam”, năm 2009, tại Học viện báo chí và Tuyên truyền. Từ việc khảo sát, nghiên cứu, đánh giá các chương trình phát thanh hệ VOV1 trong hơn 5 năm qua với những thành công và hạn chế của chương trình phát thanh trên hệ VOV1; tác giả luận văn đã đưa ra các định hướng và đề xuất các giải pháp đổi mới về nội dung, hình thức thể hiện nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng thông tin trên hệ VOV1. Luận văn Truyền thông đại chúng của Phạm Nguyên Long Đổi mới và
  14. 5 nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh kinh tế của Đài Tiếng nói Việt Nam, năm 2009 tại trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (ĐHQGHN). Tác giả luận văn đã nghiên cứu thực trạng sản xuất các chương trình phát thanh kinh tế: những đóng góp của chương trình (cung cấp thông tin nóng hổi về vấn đề kinh tế, khảo sát thực tế một số chương trình nổi bật: nông nghiệp-nông thôn; công nghiệp và thương mại), về phương thức thể hiện (kết cấu và thời lượng chương trình); nghiên cứu về hoàn cảnh ra đời, phát triển của chương trình phát thanh trực tiếp (Tọa đàm trực tiếp). Từ đó nêu lên những ưu điểm và hạn chế của chương trình phát thanh trực tiếp trên Hệ Thời sự- chính trị-Tổng hợp (VOV1) và đề xuất phương hướng và đưa ra các giải pháp đổi mới về tổ chức bộ máy và quy trình sản xuất các chương trình phát thanh kinh tế; đổi mới hình thức các chương trình; quảng bá, mở rộng diện phủ sóng và nghiên cứu thính giả. Cơ quan thường trú Đài THVN tại Tây Bắc, Tây Nguyên, miền Trung đã lần lượt chủ trì các đề tài: Nâng cao chất lượng chương trình phát thanh tiếng Thái (2009); Nâng cao chất lượng chương trình phát thanh tiếng Ê Đê (2010); Nâng cao chương trình phát thanh tiếng Cơ tu (2010)… Các đề tài này giới hạn phạm vi nghiên cứu một chương trình phát thanh cụ thể và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng chương trình. Luận văn thạc sĩ báo chí học Tổ chức sản xuất chương trình phát thanh, truyền hình với nước ngoài tại Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh, năm 2017, tại trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (ĐHQGHN). Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng tổ chức sản xuất chương trình phát thanh truyền hình với nước ngoài tại Đài PT-TH Quảng Ninh. Qua việc phân tích sâu sắc thực trạng, tác giả đã làm rõ những mặt tích cực cũng như những hạn chế tồn tại của hoạt động tổ chức sản xuất chương trình truyền hình với nước ngoài tại Đài PT-TH Quảng Ninh. Từ đó đưa ra đề xuất giải pháp thích hợp nhằm thúc đẩy hoạt động tổ chức sản xuất chương trình phát thanh truyền
  15. 6 hình với nước ngoài của đài Quảng Ninh trong thời gian tới, góp phần vào việc nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh truyền hình được tổ chức sản xuất với nước ngoài nói riêng và chương trình của Đài PT-TH Quảng Ninh nói chung. Luận văn Báo chí học của Đặng Thị Tuyết Mai Sản xuất chương trình phát thanh trực tiếp dưới góc nhìn quản trị truyền thông, năm 2018, tại trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (ĐHQGHN). Luận văn làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn của việc sản xuất các chương trình phát thanh trực tiếp, dựa trên các tiêu chí quản trị truyền thông của chương trình phát thanh trực tiếp mà chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của các chương trình phát thanh trực tiếp hiện nay. Qua đó, làm nổi bật vai trò của quản trị sản xuất các chương trình phát thanh trực tiếp trong xu hướng phát triển của phát thanh hiện đại. Đồng thời, luận văn đề xuất một số giải pháp để các chương trình phát thanh trực tiếp hấp dẫn và thu hút thính giả hơn. Như vậy, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào trực tiếp đề cập đến tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hoà Bình. Chính vì thế, việc nghiên cứu đề tài Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở tỉnh Hòa Bình là thật sự cần thiết và có ý nghĩa lí luận và thực tiễn đến tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hoà Bình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Thông qua làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức sản xuất chuyên mục trên đài phát thanh cấp huyện, làm rõ thực trạng tổ chức sản xuất chuyên mục Pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện tỉnh Hòa Bình, luận văn đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức sản xuất chuyên mục này.
  16. 7 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục đích trên, luận văn tập trung thực hiện nhiệm vụ sau đây: - Làm rõ những vấn đề lí luận và thực tiễn về tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện. - Phân tích thực trạng tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình những mặt được và chưa được; nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của công tác tổ chức sản xuất chuyên mục phát thanh về pháp luật trên đài truyền thanh truyền hình cấp huyện ở Hoà Bình - Đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình để làm tốt nhiệm vụ thông tin, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của thính giả. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên Đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi đề tài, tác giả sẽ khảo sát thực trạng tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở một số huyện của tỉnh Hòa Bình (huyện: Lạc Sơn, Lương Sơn, Tân Lạc, Yên Thủy), thời gian từ tháng 6/2017-6/2018. 5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lí luận Luận văn thực hiện dựa trên cơ sở nhận thức những vấn đề lí luận báo chí về tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện; đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về công tác
  17. 8 báo chí. Từ đó, vận dụng vào việc khảo sát thực trạng tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hoà Bình. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp sau đây: Phương pháp nghiên cứu tài liệu: sẽ giúp cho người nghiên cứu nắm được phương pháp của các nghiên cứu đã thực hiện trước đây; có thêm kiến thức sâu, rộng về lĩnh vực đang nghiên cứu và làm rõ hơn đề tài nghiên cứu của mình. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích tài liệu, tác giả luận văn sẽ kế thừa những kết quả nghiên cứu đã có, sử dụng nó để so sánh, minh họa cho các kết quả khảo sát của mình, từ đó khẳng định những đóng góp mới của mình. Phương pháp quan sát: quan sát thực tế hoạt động tác nghiệp của êkíp sản xuất ở các đài truyền thanh truyền hình cấp huyện ở Hoà Bình, đài tiếng nói Việt Nam VOV và một số đài các tỉnh lân cận để có cơ sở so sánh với các đài huyện ở Hòa Bình. Phương pháp điều tra xã hội học (bảng hỏi anket): điều tra bảng hỏi nhằm thu thập, phân tích một cách có định lượng ý kiến của khán giả thuộc các tầng lớp nhân dân. Chúng tôi phát ra là 400 phiếu thu về 400 phiếu. Đối tượng công chúng được thăm dò bao gồm thính giả nghe đài thuộc các huyện: Lạc Sơn, Lương Sơn, Tân Lạc, Yên Thủy. Phương pháp phỏng vấn sâu: thu thập ý kiến của các lãnh đạo, cấp ủy, chính quyền địa phương: với 2 lãnh đạo Đài PT-TH địa phương; 15 người nghe đài; 6 người tham gia sản xuất chuyên mục pháp luật ở một số đài địa phương trong tỉnh Hòa Bình về mô hình quản lí ê kíp sản xuất, cách thức sản xuất chương pháp luật trên đài truyền thanh truyền hình. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp khác như: phân tích, thống kê, phân loại số liệu: tổng hợp, phân tích kết quả khảo sát thông qua các bảng biểu, mô hình, sơ đồ....
  18. 9 Tất cả các phương pháp nêu trên đều có tác động tích cực và hiệu quả vào kết quả nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lí luận Luận văn là tài liệu tham khảo thêm về lí luận báo chí truyền thông về tổ chức sản xuất chuyên mục phát thanh pháp luật tại các cơ sở đào tạo nghiên cứu truyền thông. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn có giá trị tham khảo về mặt thực tiễn tại các cơ quan báo chí, các đài truyền thanh truyền hình nói chung và các đài truyền thanh truyền hình các huyện ở Hòa Bình nói riêng, giúp những người làm phát thanh có hiểu biết sâu sắc hơn về tổ chức sản xuất chuyên mục pháp luật, giúp tác giả đề tài mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện, ở Hoà Bình. 7. Đóng góp mới của luận văn Trên cơ sở kế thừa lí luận báo chí phát thanh của các nhà nghiên cứu trước về tổ chức sản xuất chương trình trên sóng Đài truyền thanh, luận văn hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề liên quan đến tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên Đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình. Đây là vấn đề mới, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống. Qua khảo sát việc tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên Đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình từ tháng 6/2017 - 6/2018, luận văn khẳng định vai trò của chuyên mục về pháp luật trên Đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình để thông tin đa dạng, đa chiều, giúp định hướng dư luận một cách tự nhiên, khách quan, cân bằng và công bằng. Bên cạnh đó, luận văn cũng chỉ ra những bài học kinh nghiệm, giải pháp nâng cao tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên Đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình.
  19. 10 8. Bố cục luận văn Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ Lục, Nội dung chính của luận văn gồm có 3 chương sau đây: Chương 1. Những vấn đề lí luận và thực tiễn về tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện Chương 2: Thực trạng hoạt động tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện ở Hòa Bình
  20. 11 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHUYÊN MỤC VỀ PHÁP LUẬT TRÊN ĐÀI TRUYỀN THANH CẤP HUYỆN 1.1. Một số khái niệm và thuật ngữ liên quan đến đề tài 1.1.1. Tổ chức sản xuất Theo Từ điển Tiếng Việt: “Tổ chức là sắp xếp, bố trí thành các bộ phận để cùng thực hiện một nhiệm vụ hoặc cùng một chức năng chung” [80, tr. 157]. Tổ chức còn là làm những gì cần thiết để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm có được hiệu quả tốt nhất. Trong cuốn Tổ chức nội dung thiết kế, trình bày báo in, tác giả Hà Huy Phượng có đề cập đến “Tổ chức nội dung báo và tạp chí là việc lập kế hoạch nội dung từng số báo, trang báo, tạp chí sắp xuất bản, tổ chức thực hiện để đạt được mục đích, mục tiêu và đáng ứng đến nhu cầu tiếp nhận thông tin mà công chúng cơ quan báo chí đó hướng đến” [60, tr. 2]. Hiểu theo nghĩa thông thường, tổ chức là hoạt động sắp xếp một cách có hệ thống những người được nhóm lại với nhau nhằm để đạt được những mục đích nhất định. Công tác tổ chức bao hàm hai nội dung cơ bản là Tổ chức cơ cấu (tổ chức quá trình quản trị và tổ chức cơ cấu sản xuất kinh doanh) và Tổ chức quá trình (tổ chức quá trình quản trị và tổ chức quá trình chuẩn bị cho sản xuất sản phẩm). Mỗi tổ chức điều hành thành trên một cấu trúc nhất định nào đó và cùng hoạt động để đạt được mục đích mà từng cá thế, cá nhân đơn lẻ không thể thực hiện được. Như vậy, có thể thấy, sự khác biệt về mục đích chính là yếu tố phân biệt giữa tổ chức này với tổ chức khác. Như vậy, tổ chức là những tập hợp bao gồm nhiều cá thể, nhiều thành viên rõ ràng, những thành viên này sẽ đưa ra các quyết định và xác định mục
  21. 12 đích hướng đến. Và chính các thành viên này cũng sẽ thực hiện hàng loạt hành động, hành vi để thực hiện hóa các mục tiêu, mục đích đã đề ra theo sự phân công công việc và phân công nhiệm vụ. Cũng theo Từ điển Tiếng Việt: “sản xuất tạo ra vật chất cho xã hội bằng cách dùng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động” [80, tr. 324], là hoạt động bằng sức lao động của con người hoặc bằng máy móc, chế biến các nguyên liệu thành của cải vật chất cần thiết. Vật phẩm cho xã hội phải được hiểu bao gồm sản phẩm vật chất và sản phẩm tinh thần mang những nét đặc thù. Tính đặc thù của sản phẩm phụ thuộc vào các nhân tố sản xuất như nguồn nhân lực, trình độ chuyên môn, phương tiện sản xuất và công nghệ sản xuất. Sản xuất hay sản xuất của cải vật chất là hoạt động chủ yếu trong các hoạt động kinh tế của con người. Sản xuất là quá trình làm ra sản phẩm để sử dụng, hay để trao đổi trong thương mại. Quyết định sản xuất dựa vào những yếu tố sau: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Gía thành sản xuất và làm thế nào để tối ưu hóa việc sử dụng và khai thác các nguồn lực cần thiết làm ra sản phẩm. Thuật ngữ sản xuất trước đây chỉ bao hàm việc tạo ra sản phẩm hữu hìnhhay dịch vụ. Hệ thống sản xuất có các đặc tính: Một là, hệ thống sản xuất chịu trách nhiệm cung cấp sản phẩm hay dịch vụ cho nhu cầu xã hội. Hai là, các hình thức sản xuất khác nhau có thể có đầu vào khác nhau, đầu ra khác nhau, các dạng chuyển hóa khác nhau, song đặc tính chung của nó là chuyển hóa các yếu tố đầu vào thành các kết quả đầu ra có tính hữu dụng, có ích cho đời sống con người. Các đầu vào sản xuất là nguyên liệu, lao động, các phương tiện sản xuất, kỹ năng quản trị ...Các đầu ra của sản xuất là sản phẩm hay dịch vụ và các ảnh hưởng khác đến đời sống xã hội [82, tr. 20].
  22. 13 Giáo trình giảng dạy môn Tổ chức lao động, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông cho rằng: “Qúa trình sản xuất là quá trình con người dùng sức lao động của mình thông qua công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động, nhằm mục đích tạo ra những sản phẩm có ích cho nhu cầu xã hội” [82, tr. 13]. Nếu coi sản xuất là một quá trình tổ chức sản xuất là biện pháp, các phương pháp, các thủ thuật để duy trì mối quan hệ và phối hợp hoạt động của các cá nhân, các bộ phận cùng tham gia vào quá trình sản xuất đó một cách hợp lí theo gian. Nếu coi sản xuất là một trạng thái thì tổ chức sản xuất là các biện pháp, phương pháp, các thủ thuật nhằm hình thành các bộ phận sản xuất có mối liên hệ và phân bổ chúng một cách hợp lí về không gian. Để tổ chức sản xuất tạo ra sản phẩm, đầu tiên cần phải phân chia quá trình sản xuất tạo nên các sản phẩm thành các quá trình riêng. Căn cứ vào phương pháp, kỹ năng khác nhau, dựa trên lao động máy móc sẽ hình thành nên loại hình sản xuất, cơ cấu sản xuất, lập kế hoạch sản xuất và tổ chức công tác điều phối sản xuất. Như vậy có thể hiểu, tổ chức sản xuất là làm ra những gì cần thiết để liên kết với người lao đồng, các quy trình lao động để tạo ra vật phẩm, đáp ứng nhu cầu thiết thực cho xã hội bằng cách dùng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động, trên cơ sở các quy tắc ngề nghiệp và theo quy trình nhất định. Thực chất của quá trình tổ chức sản xuất là việc phân chia quá trình sản xuất phức tạp thành quá trình thành phần (tức là các bước công việc), trên cơ sở đó áp dụng những hình thức công nghệ, các biện pháp tổ chức phân chia công lao động và các phương tiện, công cụ lao động thích hợp. Trong quá trình đó tìm biện pháp phối hợp hài hòa giữa các bộ phận tham gia vào quá trình sản xuất nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất. Có thể nói bất kỳ hoạt động sản xuất nào nhằm phục vụ đời sống của
  23. 14 con người đều cần có cách tổ chức sản xuất hiệu quả, từ khâu lựa chọn đầu vào, sử dụng máy móc trang thiết bị nào, trình độ lao động ra sao để phù hợp với yêu cầu công nghệ, lãnh đạo, tổ chức phân công lao động như thế nào cho hợp lí theo không gian và thời gian sao cho mọi hoạt động đạt được mục tiêu đề ra với hiệu quả cao nhất. Và cuối cùng, tổ chức sản xuất có vai trò quyết định đối với hiệu quả của quá trình sản xuất. Từ những điều trên, có thể khẳng định: tổ chức sản xuất là sự bố trí các công đoạn, các khâu trong một quá trình khép kín từ đầu đến cuối để đạt được mục tiêu, mục đích sản xuất đề ra. Hình 1.1. Tổ chức sản xuất gồm nhiều nhóm người, nhiều bộ phận cùng tham gia để tạo nên sản phẩm cuối cùng Bất cứ một hoạt động sản xuất nào cũng cần có đến kế hoạch tổ chức sản xuất tỉ mỉ, trong đó cần cân bằng tốt vai trò của bộ phận trong dây truyền sản xuất nhằm tạo ra sức mạnh liên kết đặc biệt. Mỗi bộ phận đều có một vai trò cụ thể và luôn hoạt động theo cơ chế bổ trợ lẫn nhau. Sản phẩm hoàn thiện là công sức của tất cả các bộ phận tham gia quy trình sản xuất. Chỉ cần một bộ phận không phát huy được hết khả năng và để xảy ra sai sót thì cả quy trình sản xuất cũng sẽ bị ảnh hưởng. Vì lí do đó, điều kiện về con người đóng vai trò quan trọng trong tổ chức sản xuất. Nếu tập hơp được những điều kiện tối ưu nhất về trình độ nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, khả năng ứng phó
  24. 15 trong mọi tình huống...thì nguồn nhân lực đó sẽ dễ dàng thực hiện tốt nhiệm vụ tổ chức sản xuất. Bên cạnh đó, tổ chức sản xuất cũng chịu ảnh hưởng của tác động khách quan. Chúng ta đang sống trong thời đại bùng nổ cách mạng khoa học công nghệ đang biến đổi từng ngày, càng lúc càng hiện đại và hoạt động tinh vi hơn. Nếu cứ tiếp tục sử dụng những tư liệu sản xuất lâu đời thì tốc độ sản xuất và chất lượng sản phẩm sẽ không đáp ứng kịp nhu cầu của đối tượng tiêu dùng hiện đại. Tổ chức sản xuất phải mang tính khoa học, nghĩa là phải kết hợp được những yếu tố cần thiết, tối ưu nhất về con người với các tư liệu sản xuất hiện đại và một phương thức sản xuất hợp lí để tạo ra dây truyền sản xuất cho ra đời những sản phẩm tốt nhất. 1.1.2. Chuyên mục Theo Từ điển bách khoa Việt Nam: “Chuyên mục (báo chí) là mục dành riêng cho một đề tài nhất định xuất hiện định kỳ và chiếm một chỗ cố định trên báo chí, do một hay nhiều người viết chuyên mục phụ trách. Một chuyên mục có đông đảo bạn đọc không những vì nội dung vấn đề được nêu ra mà còn vì tính hấp dẫn mang phong cách độc đáo và trình độ của những cây bút chuyên trách” [28, tr. 669]. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học: “Chuyên mục là mục thường kỳ trên báo, trên đài phát thanh, truyền hình dành riêng cho một vấn đề” [80, tr. 251]. Còn theo ông Clas Thor - chuyên gia báo chí của tổ chức SIDA (một dự án mà chính phủ Thụy Điển đầu tư nhằm xây dựng nền báo chí Việt Nam chất lượng cao thể hiện ở tính chuyên nghiệp, công khai, trung thực và tương tác với công chúng), khi được hỏi về chuyên mục, ông cho rằng: “Chuyên mục là mục có tính định kỳ ổn định về vị trí và nội dung, do một hoặc nhiều người biết. Một tờ báo lên duy trì một chuyên mục để người đọc có thể thấy
  25. 16 dễ dàng. Báo chí Thụy Điển chú trọng đến chuyên trang nhiều hơn chuyên mục” [54, tr. 9]. Trong cuốn sách Tổ chức nội dung và thiết kế, trình bày báo in, Nxb lý luận chính trị, năm 2006, tác giả Hà Huy Phượng có nhận xét: “Chuyên mục là một phần dành riêng cho một hai một số đề tài, thể loại báo chí, ra định kỳ, được xác định về vị trí trưng bày, phong cách thể hiện, dung lượng tác phẩm, khả năng ưu việt đối tượng công chúng báo chí toàn người sáng tạo tác phẩm, thời gian duy trì có thể dài, tạo được ấn tượng, sức hấp dẫn riêng, góp phần xây dựng bản sắc cho cơ quan báo chí” [60, tr. 15]. Chuyên mục có sức hút và sức sống trong mỗi tờ báo. Nó tạo nên phong cách và là sợi dây giữ mối quan hệ lâu dài với công chúng. Bất kỳ cơ quan báo chí nào cũng xây dựng cho mình một hệ thống chuyên mục; nếu thiếu chuyên mục báo chí sẽ mất đi tính xã hội. Mỗi chuyên mục sẽ tạo cho độc giả địa chỉ tiếp cận địa chỉ tiếp cận và có cái nhìn sâu sắc hơn về một vấn đề, sự kiện nào đó, từ đó nhận thức và hành vi đúng đắn, phù hợp với thực tiễn. Thực tiễn báo chí thế giới nói chung, ở Việt Nam nói riêng, kể từ khi xuất hiện đến nay, chuyên mục là một phần không thể thiếu và đóng vai trò quan trọng. Chuyên mục tự nó đã làm nên những bản sắc riêng, đem lại phong cách riêng cho tờ báo, tạp chí, kênh truyền hình, sóng phát thanh để khi nhắc tới chuyên mục, người ta sẽ nghĩ ngay đến tờ báo, kênh truyền hình, sóng phát thanh ấy. Nhiều độc giả, khán - thính giả cho biết nhiều lúc họ mua báo, xem kênh truyền hình, nghe chuyên mục phát thanh mà họ ưa thích hôm nay mang đến cho họ những “món ăn” gì. Tìm hiểu quan điểm đa dạng trên, có thể khái quát và đưa ra những kết luận về chuyên mục như sau: Chuyên mục là mục xuất hiện có tính định kì, thường xuyên trên báo chí và có sự ổn định về mặt nội dung, đề tài. Chuyên mục đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng và tạo nên bản sắc riêng của mỗi cơ quan báo chí.
  26. 17 Các báo, tạp chí, truyền hình, phát thanh hiện nay đều có xu hướng tạo dựng và khẳng định các chuyên mục. Đây có thể được coi là một trong những cách nhanh nhất để gây sự chú ý, tạo nhóm độc giả, xác định phong cách, uy tín của phóng viên, biên tập viên, khẳng định bản sắc của cơ quan báo chí. 1.1.3. Pháp luật Theo các tác giả Nguyễn Thị Mơ, Hoàng Ngọc Thiết trong Giáo trình Pháp lí đại cương, Nxb Giáo dục, 2008 có định nghĩa: Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù hợp với lợi ích giai cấp của mình”. Pháp luật được biểu hiện cụ thể là những quy phạm pháp luật. Do vậy nó cũng là những quy tắc xử sự chung cho phạm vi cá nhân hoặc tổ chức nhất định. Pháp luật được nhà nước ban hành hay thừa nhận không chỉ dành riêng cho một cá nhân, tổ chức cụ thể mà áp dụng cho tất cả các chủ thể. Đặc điểm của pháp luật: Thứ nhất, là hể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Thứ hai pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung. Thứ ba, là pháp luật do Nhà nước đặt ra và bảo vệ. Vai trò của pháp luật đối với đời sống xã hội hiện đại: Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là công cụ không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý nhà nước giúp hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức làm lành mạnh hóa đời sống xã hội và góp phần bồi đắp lên những giá trị mới. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp luật được đặt ra như một yếu tố khách quan. Điều không mục đích xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến bảo
  27. 18 vệ và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo đức Pháp luật càng chặt chẽ, càng đầy đủ và được thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức ngày càng được đề cao, đồng thời khả năng điều chỉnh và giáo dục của đạo đức càng được mở rộng và ảnh hưởng một cách toàn diện, tích cực đến mọi hành vi, mọi mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội. Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thể hiện đúng đắn ý chí và nguyện vọng của số đông, phù hợp với xu thế vận động của lịch sử sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường và quá trình toàn cầu hóa hiện nay, yêu cầu đặt ra đối với pháp luật là phải tác động tích cực đến nền đạo đức của xã hội. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi cá nhân trong hoạt động của mình phải tính toán chặt chẽ những điều kiện khách quan và hiệu quả kinh tế. Khi đời sống kinh tế xã hội đã và đang có những chuyển biến lớn, thì quan hệ giữa con người với con người không thể chỉ là mối quan hệ trực tiếp, cảm tính, chủ yếu vẫn bị chi phối bởi những nguyên tắc và chuẩn mực của sự phát triển ưu trội về đạo đức như trước đây, mà nó cần được bổ sung những chuẩn mực như: như tính kinh tế, tính hiệu quả…. Việc tăng cường vai trò của pháp luật, tạo môi trường thuận lợi cho sự hình thành và phát triển ý thức đạo đức đã trở thành một trong những yêu cầu cấp thiết. Quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng như xã hội dân sự đòi hỏi phải tích cực hơn nữa trong việc đưa pháp luật và đời sống, hình thành và phát triển ý thức pháp luật. Đồng thời, việc xã hội hóa tri thức, nâng cao dân trí, tạo cơ sở nâng cao đạo đức lên trình độ duy lý pháp lý và khoa học, chuyển thói quen điều chỉnh xã hội theo “lệ”, chủ yếu là sự cảm thông thành điều chỉnh xã hội bằng pháp luật trên nguyên tắc công bằng và bình đẳng xã hội là điều hết sức cần thiết. Trong quan niệm về chuẩn giá trị và đánh giá đạo đức, tính khách quan, khoa học phải thay cho sự tùy tiện muốn dựa trên cơ sở kinh nghiệm, duy cảm, duy
  28. 19 tình. Sự điều chỉnh xã hội bằng pháp luật với nguyên tắc tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật làm trong mọi thành viên trong xã hội có thể tự do phát huy khả năng sáng tạo của mình trong môi trường lành mạnh - môi trường vận hành có trật tự, nề nếp, kỷ cương của một xã hội năng động, phát triển và văn minh. Đó cũng chính là nhu cầu tình cảm, là trách nhiệm và yêu cầu đạo đức đối với mỗi công dân trong giai đoạn mới. Thực tế những năm vừa qua cho thấy, hệ thống pháp luật và việc thi hành pháp luật đã có những tác động rõ nét đến đời sống xã hội. Những quy định trong Hiến pháp, trong các luật và văn bản dưới luật luôn đề cao tính nhân đạo và nhân văn bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của nhà nước mà nhân dân là chủ và do nhân dân làm chủ. Nói đúng hơn, đó là hệ thống pháp luật phục vụ trong việc thực thi lợi ích cơ bản của con người, đặc biệt là lợi ích của người lao động. Vì vậy, nguyên tắc định hướng cho việc xây dựng nội dung và hệ thống pháp luật như: công bằng, nhân đạo, vì sự phát triển tiến bộ của con người và xã hội… cũng chính là những nguyên tắc đạo đức cơ bản mà nhân loại tiến bộ đã và đang, sẽ hướng tới. Có thể nói, pháp luật góp phần lớn trong việc hình thành ý thức tôn trọng và chấp hành những quy phạm chung, giúp con người có những hành vi ứng xử văn minh, phù hợp với xu hướng phát triển tiến bộ của thời đại. 1.1.4. Phát thanh và Đài truyền thanh cấp huyện 1.1.4.1. Phát thanh Phát thanh là một loại hình báo chí, từ giữa thế kỷ XVIII các nhà khoa hoạc trên thế giới đã nghiên cứu và phát minh ra các loại máy móc ký hiệu và thăm dò máy phát thanh. Đến thế kỷ XIX công nghiệp hóa phát triển đã thúc đẩy các ngành công nghiệp hóa phát triển đã thúc đẩy các ngành kinh tế ra đời tạo cơ sở vật chất cho sự đổi mới kỹ thuật truyền thông đại chúng. Và tạo ra dấu ấn quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của phát thanh thế giới. Trải qua những bước mày mò, tìm kiếm nhiều năm, phát thanh đã chính
  29. 20 thức góp mặt vào lĩnh vực truyền thông bằng sự kiện GS. Reginald A. Fessenden – Trường Đại học Pittsburgh (Mỹ) đã truyền thanh tin tức cho những chiếc tàu ngoài khơi vào đêm giáng sinh năm 1906. Tiếp đó là sự xuất hiện của hàng loạt các đài phát thanh trên thế giới ở Bỉ (1913), Đức (1915), Nga (1917), Australia (1920), Trung Quốc (1922) ... [18, tr. 13-14]. Ở Việt Nam, thời điểm đánh dấu sự hình thành và phát triển của ngành phát thanh là ngày 7/9/1945. Ngay sau khi đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch HCM đã kí quyết định thành lập Đài TNVN – cơ quan truyền thông đại chúng đầu tiên của nước Việt Nam mới. Trong cuốn Cơ sở lí luận báo chí của Nguyễn Văn Dững đưa ra khái niệm: “Phát thanh là một loại hình truyền thông đại chúng trong đó nội dung thông tin được truyền tải qua âm thanh. Chất liệu chính của phát thanh là nghệ thuật sử dụng lời nói, tiếng động và âm nhạc trong việc tái hiện cuộc sống hiện thực” [23, tr. 188]. Thông điệp được mã hóa truyền qua kênh phát thanh và người nhận phải có máy thu thanh mới nhận được thông điệp. Hiện nay, thuật ngữ phát thanh hiện đại chủ yếu được dùng để chỉ phương thức sản xuất chương trình với sự hỗ trợ của kỹ thuật và công nghệ số nhằm hướng tới thỏa mãn nhu cầu tiếp nhận thông tin phát thanh của công chúng hiện đại. Theo đó, mô hình tổ chức hoạt động, sản phẩm truyền thông của các cơ quan phát thanh, tích hợp đa kỹ năng của người làm phát thanh cũng đăng thay đổi nhanh chóng. Giống như lĩnh vực truyền hình, việc chuyển sang phát thanh số đang là xu thế tất yếu trên thế giới. Phát thanh tố giúp tiết kiệm tài nguyên băng tần, cho tín hiệu và chất lượng âm thanh tốt hơn so với cách hiện nay. Chính vì vậy, tại Quyết định số 22/2009/QĐ-TTg: Phê duyệt quy hoạch truyền dẫn, phát sóng phát thanh truyền hình đến năm 2020 đã quy định: “đến năm 2020, công nghệ số được áp dụng rộng rãi trong truyền dẫn, phát sóng phát thanh”. Tuy nhiên, quá trình triển khai nội dung này đến nay vẫn còn chậm.
  30. 21 1.1.4.2. Đài truyền thanh cấp huyện Thuật ngữ “truyền thanh cấp huyện” hay “truyền thanh cấp huyện thị” là một thuật ngữ đã được sử dụng phổ biến trong lí luận chuyên ngành phát thanh ở nước ta. Theo tác giả Đức Dũng, Hoàng Đình Cúc trong các cuốn sách Báo phát thanh, Lý luận báo phát thanh, Phát thanh trực tiếp... thì đây là một thuật ngữ được sử dụng để chỉ một cấp trong hệ thống truyền thanh bốn cấp ở nước ta (gồm: cấp Trung ương; cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cấp huyện, thị, thành phố trực thuộc tỉnh; cấp phường, xã, thị trấn). Trong đó, riêng hai cấp huyện, thị và cấp phường, xã, thị trấn còn được gọi chung bằng một thuật ngữ: truyền thanh cơ sở. Như vậy, có thể hiểu “Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện” được hiểu là đài chuyển tiếp tín hiệu truyền thanh, bao gồm tập hợp các thiết bị thu sóng radio, tách sóng và khuyếch đại tín hiệu âm thanh, sau đó tiếp tục truyền tín hiệu âm thanh theo đường dây truyền thanh để thực hiện việc chuyển tiếp chương trình phát thanh, chương trình truyền thanh huyện, quận trong việc cung cấp thông tin về pháp luật đáp ứng nhu cầu của xã hội, đồng thời có khả năng tích cực, thúc đẩy xã hội phát triển. Ở nước ta “từ năm 1956, Nhà nước đã quyết định đưa các đài truyền thanh xã, phường, thị trấn và bộ máy tổ chức của hệ thống truyền thanh 4 cấp gồm: Trung ương; Tỉnh, thành phố trược thuộc trung ướng; huyện, thị, thành phố trực thuộc tỉnh; phường, xã, thị trấn” [11, tr. 262] và toàn bộ mạng lưới đài phát thanh từ trung ương đến cơ sở đều thuộc sở hữu Nhà nước do Chính phủ và UBND các quản lí. Trong đó, đài truyền thanh cấp huyện, thị, và cấp phường, xã, thị trấn còn được gọi chung bằng một thuật ngữ “truyền thanh cơ sở”. Như vậy, đài truyền thanh cấp huyện là hệ thống những đường, những mạch có chung chức năng truyền dẫn lời nói, tiếng động, âm nhạc để truyền tải thông tin tại địa phương trên phạm vi huyện, thị, tác động trực tiếp vào thính giác của người tiếp nhận thông tin. Đài truyền thanh cấp huyện luôn là
  31. 22 một bộ phận hữu cơ của hệ thống báo chí chính trị của cả nước chuyển tải thông tin đến thính giả tại địa bàn cơ sở. Trong hệ thống phát thanh 4 cấp ở Việt Nam, đài truyền thanh cấp huyện có nhiệm vụ sản xuất và phát sóng các chương trình truyền thanh trên sóng FM trên phạm vi huyện, thị với nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tập trung tuyên truyền các chỉ thị, nghị quyết của Huyện ủy và Hội đồng Nhân dân cấp huyện đến với quần chúng nhân dân; phổ biến kiến thức khoa học, kỹ thuật, kinh tế, văn hóa – xã hội, quốc phòng – an ninh; gương người tốt việc tốt, điển hình tiên tiến, xây dựng nông thôn mới.... nhằm hướng người dân sống và thực hiện pháp luật; Tiếp sóng và phát sóng các chương trình của Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài PT-TH tỉnh, phục vụ nhu cầu tiếp nhận thông tin của nhân dân theo quy định của pháp luật; Xây dựng và phát triển lực lượng cộng tác viên, nhằm nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh, phục vụ đời sống văn hóa, tinh thần cho người dân. Về công tác quản lí, Đài truyền thanh cấp huyện phối hợp với các UBND các xã, thị trấn để quản lí, chỉ đạo, hướng dẫn về mặt nghiệp vụ, chuyên môn kỹ thuật đối với Đài truyền thanh xã, thị trấn. Phối hợp sản xuất cung cấp các thông tin thời sự cho đài tỉnh bằng âm thanh, hình ảnh, giúp cho khán giả theo dõi những sự kiện mới nhất đang xảy ra, đảm bảo yêu cầu cung cấp thông tin trên lĩnh vực kinh tế,chính trị, VH-XH của huyện phát sóng trên đài PT-TH tỉnh. 1.1.5. Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện Từ các quan niệm, khái niệm “Tổ chức sản xuất”, “Chuyên mục”, “Pháp luật”, “Đài truyền thanh cấp huyện”, tác giả văn cho rằng: “Tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện là quá trình lực lượng lao động có nghiệp vụ truyền thanh thường xuyên liên kết với
  32. 23 nhau bởi những quy chế tổ chức lao động chặt chẽ; cùng tác động vào công cụ lao động theo cách thức và kế hoạch sản xuất có sẵn; nhằm tạo ra một loại sản phẩm báo chí có khả năng đáp ứng các yêu cầu thông tin chính trị, xã hội, có tính mới, nhanh nhạy, chính xác, được công chúng quan tâm. Để duy trì năng lực sản xuất và sản xuất có hiệu quả, người quản lí cần chú trọng các yếu tố sau: Quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất. Có hoạch định được năng lực sản xuất trong từng giai đoạn. Linh hoạt trong phân công lao động và trong hợp tác lao động. Chuyên môn hóa năng lực quản lí và quy trình sản xuất... Căn cứ vào ý nghĩa của các khái nệm trên thì việc tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện phải dựa trên nhu cầu thông tin của dịa phương, điều kiện lao động đặc thù tại chỗ như: nhân lực, trình độ chuyên môn, phương tiện lao động, thiết bị kỹ thuật công nghệ.... 1.2. Đặc điểm và vai trò chuyên mục trên đài truyền thanh cấp huyện 1.2.1. Đặc điểm chuyên mục Mỗi chuyên mục là một bộ phận, một yếu tố cấu thành nên một sản phẩm báo chí. Chuyên mục mang những đặc trưng riêng sẽ tạo nên bản sắc của mỗi sản phẩm báo chí. Trong truyền thanh, hầu như đài nào cũng có một hệ thống các chuyên mục. Chuyên mục là nơi gắn kết chặt chẽ giữa khán giả và phóng viên, phát thanh viên. Bên cạnh những đặc điểm vốn có, chuyên mục còn mang tính chung của mỗi cơ quan báo chí. Đó là tính nhân văn và dân chủ của báo chí. Tính nhân văn và dân chủ của báo chí là sự phản ánh, đánh giá các hiện tượng và sự kiện của đời sống từ lập trường cá nhân dân. Thông qua đó để báo chí đi sâu vào quần chúng một cách thiết thực. Đồng thời, do có sự tham gia của công chúng đã làm cho báo chí thực sự trở thành diễn đàn dân chủ để người dân phát biểu tâm tư, nguyện vọng của mình, trực tiếp thảo luận những vấn đề
  33. 24 quốc kế dân sinh, thực hiện những quyền dân chủ của công dân trong việc biểu dương những nhân tố tích cực phê phán những hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội cũng như các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức kinh tế và đoàn thể xã hội. Quần chúng có thể tham gia vào chuyên mục với tư cách là cộng tác viên (cơ sở), cung cấp thông tin, trực tiếp tạo ra các sản phẩm báo chí và với tư cách công chúng đóng góp ý kiến phê bình, kiến nghị về tất cả các mặt của đời sống xã hội cũng như riêng với các hoạt động báo chí. Mặt khác sự tham gia của quần chúng làm cho thông tin báo chí nói chung và phát thanh nói riêng trở nên sinh động hơn, nhanh chóng, kịp thời và bám sát cuộc sống. Thu hút trí tuệ, tài năng sáng tạo của toàn xã hội là con đường đúng đắn để nâng cao tính hấp dẫn và tính trí tuệ của báo chí. Sự giao lưu gắn bó với công chúng có một tầm quan trọng đặc biệt, cho nên công tác thính giả đối với chương trình phát thanh luôn là mặt trọng tâm của cơ quan báo chí truyền thanh. Chuyên mục có sự ổn định tương đối về mặt dung lượng, thời gian và phạm vi đề cập. Hướng tới lượng khán giả nhất định theo ngành nghề, địa dư và sở thích. Chuyên mục mang những đặc trưng riêng biệt của mỗi cơ quan báo chí và chỉ có cơ quan báo chí đó mới có. Nói cách khác, chuyên mục chính là linh hồn của cơ quan báo chí. Tuy vậy, mỗi chuyên mục không hướng vào đối tượng khán giả chung chung mà thường hướng vào một nhóm đối tượng theo lứa tuổi, ngành nghề, địa phương nào đó... 1.2.2. Vai trò chuyên mục trên đài truyền thanh cấp huyện Cơ quan báo chí nào cũng mong muốn có nhiều độc gải thuộc nhiều tầng lớp khác nhau. Nhưng mỗi cơ quan báo chí lại có lớp công chúng riêng cố định, mỗi đối tượng công chúng ruột phù hợp với tôn chỉ mục đích của mình đề ra. Đi đôi với việc xác định nội dung, chuyên mục phải được lựa chọn kỹ
  34. 25 càng về mặt hình thức cũng như vị trí, cách thức trình bày... để nổi bật ý đồ của người đảm nhiệm. Trong Giáo trình nghiệp vụ báo chí của Khoa Báo chí – Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, các tác giả trong cuốn sách nhận đinh: “Chuyên mục đóng vai trò quan trọng trong các trang báo của từng số báo, tạo nên sự phong phú, đa dạng và hấp dẫn của tờ báo. Về mặt nội dung, nó tạo nên sự gần gũi trong quan hệ với công chúng. Chuyên mục vừa có quan hệ trực tiếp với khả năng sinh động của tờ báo, chương trình phát thanh, truyền hình, vừa có quan hệ đến khả năng thực tế của mỗi người” [66, tr. 43]. Chuyên mục vừa có sức hút và sức sống trong mỗi cơ quan báo chí. Nó tạo nên phong cách và là sợi dây giữ một mối quan hệ dài với công chúng. Phần lớn các cơ quan báo chí ở nước ta đều có sự hình thành phong cách qua một số chuyên mục. Chuyên mục ngoài ý nghĩa về nội dung còn tạo được sự cân đối và điểm nhấn hình thức, tăng hiệu quả tác động. Đối với nội dung: Mỗi chuyên mục xuất hiện đảm nhiệm một mảng đề tài – nội dung nhất định. Cơ quan báo chí càng tạo ra nhiều chuyên mục có chất lượng thì càng thu hút được đông đảo công chúng quan tâm. Chuyên mục luôn mang tính định kỳ, ổn định, và liên tục, thường xuyên. Thực tế cho thấy những chuyên mục có tính thời sự, tính chiến đấu thường tạo cho cơ quan báo chí mình có chỗ đứng riêng trong lòng công chúng. Chuyên mục còn có vai trò quan trọng trong việc góp phần tạo nên nội dung, phong cách riêng của mỗi cơ quan báo chí. Bởi vậy, để thu hút và đáp ứng được nhu cầu đông đảo của công chúng, người làm báo phải không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng chuyên mục. Đối với hình thức: Ở báo in, các chuyên mục thường được đóng khung, nền được lót màu hoặc kiểu chữ đậm, nghiêng. Bởi thế hình thức của chuyên mục thường rất nổi bật, gây được ấn tượng và sự chú ý. Chuyên mục tạo nên sự cân đối, hài hòa, đem lại điểm nhấn và phong cách riêng của trang báo, tờ báo. Đối với truyền hình và phát thanh, chuyên mục được bố trí định kỳ, cố
  35. 26 định ở một khung giờ nhất định, tạo điều kiện thuận lợi theo dõi cho đối tượng mà chuyên mục hướng tới. Để phát huy tác dụng của chuyên mục, người thực hiện, quản lí cần phải đánh giá đúng tầm quan trọng của từng loại chuyên mục để xác định vị trí, cách dùng từng kiểu chữ hay họa tiết trang trí đối với báo in hay cách kết hợp hình, lời bình, tiếng động, âm nhạc, đối với báo phát thanh, nhằm làm nổi bật chuyên mục trên trang báo hay trên kênh phát thanh, truyền hình. Đối với người làm báo: Nhà báo được giao phụ trách, đảm nhiệm chuyên mục thường là những người có kinh nghiệm. chuyên mục là nơi khẳng định tài năng, sức sáng tạo và phong cách nhà báo. Còn khi người phụ trách chưa có đủ dày dặn kinh nghiệm, thiếu khả năng sẽ dẫn đến giảm lòng tin và yêu thích của bạn đọc đối với chuyên mục và cơ quan báo chí. Đối với người làm báo, chuyên mục là nơi thể hiện những tìm tòi, khám phá cá nhân, thể hiện tư duy sắc sảo, nhạy bén với thời cuộc. Đối với công chúng: Chuyên mục gớp phần hình thành tiếng nói riêng và vẻ đẹp của cơ quan báo chí. Khán giả nhiều khi yêu mến tờ báo, chương trình truyền hình, phát thanh vì chuyên mục của nó. Có thể nói, công chúng yêu thích chuyên mục vì họ vừa là đối tướng và nhiều khi họ cũng chính là chủ thể của chuyên mục đó. Nhiều chuyên mục thiết thực, tuyên truyền, giải thích nhiều vấn đề cần thiết trong đời sống và những biến động xã hội; nhiều chuyên mục hoạt động với mục đích thông tin, giải đáp những vấn đề mà công chúng đang quan tâm. 1.3. Những điều kiện và quy trình tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện 1.3.1. Những điều kiện để tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện 1.3.1.1. Tổ chức nhân sự Bất kỳ quy trình tổ chức sản xuất nào thì nguồn nhân lực, chất điều
  36. 27 được coi là điều kiện tiên quyết - quan trọng nhất. Do đó, để tổ chức sản xuất tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên Đài truyền thanh cấp huyện ở tỉnh Hòa Bình được hiệu quả thì cần phải có nguồn nhân lực đủ đáp ứng yêu cầu của công việc trong quá trình tổ chức sản xuất. Nguồn lực đó phải được qua đào tạo đạt trình độ học vấn, trình độ chuyên môn báo chí nói chung cũng như chuyên ngành phát thanh nói riêng. Cụ thể: Đối với đội ngũ phóng viên,biên tập viên, phát thanh viên: phải là những người đã qua đào tạo cơ bản về báo chí, ít nhất ở bậc Trung cấp trở lên, có hiểu biết về pháp luật do nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa ban hành. Có khả năng sử dụng thành thạo các trang thiết bị, khoa học kỹ thuật phục vụ tác nghiệp tại hiện trường hoặc trong phòng thu âm cũng như có khả năng thực hiện viết các tin, bài đảm bảo yêu cầu của ban biên tập. Đối với đội ngũ kỹ thuật viên: là những người có trình độ, hiểu biết về khoa học công nghệ thông tin. Có khả năng sử dụng thành thạo các trang thiết bị, máy móc kỹ thuật chuyên dụng, các phần mềm thu âm và xử lý âm thanh trong quá trình thu âm, chương trình cũng như phát sóng chương trình. 1.3.1.2. Tổ chức hệ thống thiết bị kỹ thuật, công nghệ Hiện nay, khoa học kỹ thuật và công nghệ đã và đang phát triển vô cùng mạnh mẽ, ngày càng hiện đại. Nó đã tác động vô cùng to lớn đến báo chí truyền thông, nhất là ở hạ tầng thông tin. Khoa học công nghệ, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại đã giúp cho quá trình tổ chức sản xuất chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện nhanh hơn, giảm bớt đỡ số người tham gia trong quá trình tổ chức sản xuất đối với chuyên mục/chương trình phát thanh nói chung và chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện nói riêng cũng cần phải đảm bảo các điều kiện về kỹ thuật, khoa học công nghệ. Thứ nhất là việc đảm bảo thiết bị chuyên dụng dành cho đội ngũ phóng viên, Biên tập viên trong quá trình tác nghiệp: Các trang thiết, phương tiện
  37. 28 này bao gồm: máy ghi âm chuyên dụng thế hệ mới; máy tính xách tay cấu hình cao có cài đặt các phần mềm biên tập âm thanh chuyên nghiệp, có khả năng kết nối mạng Internet tốc độ cao, băng thông rộng. Đây là những thiết bị cơ bản không thể thiếu để đảm bảo quá trình tác nghiệp tại hiện trường cho phóng viên, Biên tập viên. Thứ hai là phòng thu âm hiện đại: phòng thu âm hiện đại sẽ đảm bảo tiêu chuẩn về âm thanh trong quá trình thu âm các chương trình. Trong phòng thu cũng cần phải có hệ thống micro, bàn Mixer âm thanh, hệ thống máy tính cấu hình cao được cài đặt các phần mềm biên tập âm thanh chuyên nghiệp và phiên bản mới. Hạ tầng kết nối qua mạng internet hoặc qua mạng nội bộ (mạng LAN) phải có tốc độ cao để nhận hoặc các file ghi âm thanh hoặc các chương trình thu âm định dạng chất lượng cao. Thứ ba là tự động hóa trong phát sóng chương trình: Ứng dụng công nghệ thông tin để phát sóng chương trình tự động thông qua hệ thống máy tính và các phần mềm phát sóng tự động chuyên dụng. Các hệ thống máy tính, phần mềm phát sóng tự động phải đảm bảo tương thích với hệ thống máy tính của phóng viên, Biên tập viên và của phòng thu âm. Hệ thống phát sóng tự động phải đảm bảo an toàn tuyệt đối về mặt an ninh mạng, chống xâm nhập từ bên ngoài để can thiệp vào chương trình phát sóng. 1.3.1.3. Tài chính, chi phí Nguồn tài chính, kinh phí được dùng trong quá trình tổ chức sản xuất chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện ở tỉnh Hòa Bình phải đảm bảo để chi trả cho các phần công việc, các thao tác trong quá trình tổ chức sản xuất theo quy định của pháp luật. Nguồn tài chính, kinh phí này có thể đến từ các nguồn cơ bản như: nguồn kinh phí được cấp từ nguồn ngân sách nhà nước, nguồn kinh phí từ các hoạt động kinh tế báo chí truyền thông (bao gồm nguồn thu từ quảng cáo và nguồn kinh phí từ hoạt động xã hội hóa). Các nguồn tài chính, kinh phí này để thực hiện cho các chuyên mục cơ bản sau:
  38. 29 Thứ nhất là chi phí trả nhuận bút tin, bài cho những người tham gia quá trình tổ chức sản xuất chương trình-chuyên mục. Những người này bao gồm: phóng viên, biên tập viên, phát thanh viên, kỹ thuật viên, người duyệt tin bài... Và được tính tỷ lệ theo mức độ công việc, phần việc được giao trong tổ chức sản xuất chương trình và được gọi là nhuận bút trực tiếp. Một phần tỉ lệ nhuận bút dành cho những người không tham gia tổ chức sản xuất nhưng có liên đới trong hoạt động tổ chức sản xuất (như nhân viên hành chính, lái xe) được gọi là nhuận bút gián tiếp. Thứ hai là nguồn kinh phí đầu tư sửa chữa, mua sắm trang thiết bị, bao gồm: đầu tư kinh phí cho sửa chữa, mua sắm các trang thiết bị, kỹ thuật, khoa học công nghệ dùng cho sản xuất chương trình - chuyên mục. Với sự thay đổi ngày càng nhanh về công nghệ như hiện nay thì nguồn kinh phí đầu tư cho lĩnh vực này càng ngày càng nhiều. Bên cạnh đó, là kinh phí đầu tư mua sắm thiết bị phục vụ hoạt động tổ chức sản xuất chương trình - chuyên mục như: bàn ghế, đèn, máy tính, máy in... Kinh phí dành cho lĩnh vực này không quá lớn nhưng cần thiết để phục vụ cho hoạt động tổ chức sản xuất chương trình - chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện ở tỉnh Hòa Bình. Thứ ba là nguồn kinh phí dành cho các khoản chi khác: đây là nguồn kinh phí được sử dụng để thực hiện cho các hoạt động nằm ngoài hai lĩnh vực đã nêu trên. Bao gồm: chi trả cho công tác phí, hỗ trợ độc hại, kinh phí thi đua khen thưởng, kinh phí hoạt động của các hội, đoàn thể thuộc đơn vị và các khoản chi thường xuyên. Nguồn kinh phí này cũng cần phải có để đảm bảo thực hiện hoạt động, động viên, khen thưởng cho các cán bộ, công nhân viên thi đua hoàn thành các phần việc, năng động, sáng tạo trong thực hiện tác phẩm cũng như trong quá trình tổ chức sản xuất chương trình - chuyên mục thực hiện tổ chức sản xuất chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện ở tỉnh Hòa Bình hiện nay.
  39. 30 1.3.2. Quy trình tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện 1.3.2.1. Xác định nội dung chương trình, kế hoạch tuyên truyền cụ thể Việc xác định chiến lược truyền thông, kế hoạch tuyên truyền là yêu cầu quan trọng hàng đầu để tổ chức sản xuất chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện có hiệu quả. Nó chính là một hành lang để quá trình truyền thông, tuyên truyền cho người dân không vi phạm pháp luật trong cuộc sống cũng như trong quá trình làm việc. Đồng thời, nó cũng chính là việc xác định được mục tiêu mà chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện mong muốn đạt được. Tùy theo thực tế và điều kiện cụ thể của cơ quan báo chí mà tiến hành xây dựng chiến lược truyền thông, có thể là chiến lược ngắn hạn, trung hạn, hay dài hạn, có thể ở diện rộng, có thể ở diện hẹp. Từ chiến lược truyền thông, tiếp tục xây dựng các kế hoạch tuyên truyền ở góc độ cụ thể hơn, là kế hoạch theo từng chương trình, từng ngày, từng tháng, theo quý, từng năm... Theo từng sự kiện trong ngày, theo chuỗi sự kiện diễn ra trong thời gian dài. Xác định nội dung, kế hoạch tuyên truyền cụ thể, dài hạn thường là do Ban giám đốc, Ban biên tập của cơ quan báo chí thực hiện. Còn việc xây dựng kế hoạch tuyên truyền dựa trên nội dung đó là do bộ phận phụ trách, người phụ trách hoặc trưởng phòng thực hiện. Điều này sẽ đảm bảo việc tổ chức sản xuất chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện theo đúng trọng tâm, nội dung, yêu cầu đã được xác định. Mỗi chuyên mục về pháp luật được phát sóng trên đài truyền thanh liên quan đến các vấn đề về đời sống chính trị xã hội, an ninh quốc phòng, kinh tế, VH-XH, môi trường, giáo dục, khoa học và công nghệ... Và thường là các sự kiện, hiện tượng đang được người dân và cộng đồng quan tâm, chú ý.
  40. 31 Qua thực tế nghiên cứu hoạt động báo chí địa phương, có thể nhận thấy: việc xây dựng kế hoạch tuyên truyền cụ thể có ý nghĩa rất quan trọng. Xác định rõ ràng, cụ thể tiêu, nội dung của chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện sẽ tạo sự thống nhất và bám sát với thực tế đang diễn ra tại địa phương. Cụ thể, đó là các sự kiện, hiện tượng, chuỗi sự kiện liên quan mật thiết đến các chủ trương, chính sách, chương trình của Đảng và nhà nước, của địa phương liên quan đến đời sống tinh thần, vật chất, hoạt động sinh hoạt của người dân. Đây là nội dung, thông tin tác động trực tiếp vào chuyên mục pháp luật lên sẽ được người dân quan tâm, chú ý. Việc xây dựng kế hoạch truyền thông, kế hoạch tuyên truyền cũng phải chú ý đến đặc điểm tiếp nhận thông tin pháp luật của người dân. Từ đó, trong quá trình tổ chức sản xuất chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện ở tỉnh Hòa Bình phải có hình thức, cách thức lồng ghép, đan xem giữa các nội dung thông tin có tính thời sự, chính trị, pháp luật với các thông tin, nội dung mang tính giải trí, văn văn nghệ một cách hợp lý. 1.3.2.2. Lập kế hoạch thực hiện tin bài, phân công nhiệm vụ cho người tham gia tổ chức sản xuất chuyên mục pháp luật Đây là yếu tố quan trọng, bởi để thực hiện tổ chức sản xuất chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện thì phải có nguyên liệu tức là các tin, bài…. Và có sự tham gia của các thành viên được phân công nhiệm vụ cụ thể, theo từng công đoạn để quá trình sản xuất chuyên mục được liền mạch, khép kín thông suốt. Mọi thành viên đều thực hiện theo kế hoạch và có sự phối hợp chặt chẽ. Với chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện, phải có điều tiết, dung hòa, đang xem trong việc xây dựng kết cấu chương trình (vỏ chương trình) một cách hợp lý. Đó là sự đan xen giữa tin tức với bài, phóng sự, chuyên mục với thời lượng hợp lý để thính giả có khả năng tiếp
  41. 32 nhận hiệu quả nhất những thông tin chuyển tải của chương trình phát sóng. Thực tế, một chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện luôn sử dụng thể loại tin tiếng băng, tin có tiếng động hiện trường, phóng sự, chuyên mục theo kết cấu của từng chương trình, chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện. 1.3.2.3. Lên kịch bản và biên tập nội dung Lên kịch bản là khâu quan trọng nhất trong quá trình tổ chức sản xuất chuyên mục pháp luật nói riêng và các chương trình/chuyên mục trên sóng đài truyền thanh cấp huyện nói chung. Ở nhiều địa phương đài truyền thanh cấp huyện, khâu này được gọi là thiết kế lịch phát sóng. Có hai loại lịch phát sóng được thiết kế: lịch ngày và lịch chi tiết. Lịch phát sóng hàng ngày gồm: - Tên chương trình? - Giờ phát sóng? - Thời lượng? - Nguồn (Phòng thu, hiện trường, phát thanh viên, CD, file âm thanh….). - Người thực hiện (hoặc phòng chuyên môn thực hiện). Kịch bản chi tiết vở kịch bản dành cho người dẫn tại phòng thu hoặc dẫn trực tiếp tại hiện trường. Từ lịch phát sóng, công tác biên tập sẽ lên khung chương trình theo đúng cấu trúc, thời lượng quy định sẵn và sắp xếp tin bài từ nhiều nguồn khác nhau (tin, bài do phóng viên thực hiện, tin bài trao đổi, tin bài khai thác trên báo…) theo một trình tự nhất định và lên đó chương trình phát sóng. Bình thường, Biên tập viên sẽ lựa chọn những thông tin mang tính thời sự và thiết thực để biên tập lại sao cho ngắn gọn, hấp dẫn; cấu trúc tác phẩm rõ ràng, dễ hiểu; âm thanh trong tác phẩm có sự hài hòa, sinh động, lời rõ ràng, tiếng động phải hợp lý. Trên cơ sở đó, bản thân biên tập viên, phát thanh viên hoặc người dẫn chương trình sẽ viết lời dẫn xâu chuỗi tin, bài hay cho cả chương trình điều
  42. 33 cần hết sức lưu ý những yêu cầu nêu trên bởi đặc điểm của thính giả là những người dân có trình độ tương đối hạn chế nên càng viết đơn giản, ngắn gọn rõ ràng thì càng dễ tiếp nhận và tiếp nhận đầy đủ hơn. 1.3.2.4. Sản xuất và phát sóng Sau khi có lịch phát sóng, vỏ chương trình và kịch bản chi tiết được duyệt, phát thanh viên - dẫn chương trình hoặc biên tập viên cùng ekip chương trình là các cán bộ kỹ thuật tiến hành thực hiện thu âm tại phòng thu. Trong quá trình thu, các bộ phận biên tập, người dẫn, phát thanh viên, kỹ thuật viên phải có sự phối hợp nhịp nhàng. Cùng chia sẻ và có những điều chỉnh cần thiết để xử lý các tình huống nảy sinh và hoàn thiện toàn bộ tác phẩm, chương trình phát sóng. Bên cạnh đó, từ thực tế hoạt động báo chí của cá nhân - tác giả luận văn nhận thấy khâu phát sóng cần được xem là một khâu của quy trình tổ chức sản xuất chương trình phát thanh nói chung và tổ chức sản xuất chuyên mục pháp luật nói riêng. Hình 1.2. Qúa trình phát sóng Radio FM - Nguồn: http://tamthien.byethost7.com
  43. 34 1.4. Các yêu cầu đối với tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện Chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện có đối tượng phục vụ chính là những người dân địa phương thuộc các huyện. Chính vì vậy phải đáp ứng các yêu cầu quan trọng sau đây: Thứ nhất là phải có định hướng chính trị rõ ràng, nội dung thông tin phát trong chuyên mục pháp luật phải phản ánh được những vấn đề chung của đất nước, của địa phương, đảm bảo được tính thống nhất về nhận thức hành động của người dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phải phản ánh được vấn đề pháp luật trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.... Thứ hai là về nội dung tin bài của chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện phải có sự tinh tế, chắt lọc câu từ; né tránh các vấn đề không nên cập nhập. Thứ ba là chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện phải đáp ứng được sự thỏa mãn về nhu cầu và tâm lí tiếp nhận thông tin của công chúng nghe đài truyền thanh cấp huyện. Do vậy, pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện phải có sự hài hòa giữa thông tin pháp luật và thông tin giải trí bằng các tiểu phẩm liên quan đến pháp luật để giảm bớt đi tính khô khan của thông tin...là điều không thể thiếu trong quá trình phát sóng chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện. Thứ tư là kết cấu chương trình cần cụ thể, không phức tạp, rườm rà, để theo dõi nhưng vẫn đảm bảo tính chặt chẽ, tính gọn để phù hợp với tâm lí khả năng thu nhận thông tin của công chúng theo dõi chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện. Thứ năm là chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện phải đảm bảo khả năng giúp bà con nhận thức đúng về chủ trương chính sách Đảng, pháp luật của Nhà nước trên tất cả các phương diện (chính trị, kinh tế,
  44. 35 VH-XH, an ninh quốc phòng....), hiểu đúng về pháp luật trong các chính sách đại đoàn kết dân tộc nhằm tránh tình trạng diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, mục tiêu “dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, các chính sách pháp luật về an sinh xã hội.... nhằm định hướng cho công chúng nghe đài về chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện xây dựng lối sống lành mạnh, giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc. Thứ sáu là ngôn ngữ trong chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện phải gần gũi, dễ hiểu, dễ nghe, có thể vay mượn nhưng vẫn phải đạt mức chuẩn nhất định cả về ngữ âm và ngữ nghĩa, tránh việc sử dụng từ ngữ tường minh, câu ẩn dụ, không quá nhiều thành tố, phức tạp mà phải gọn, đơn giản, dứt khoát, có trật tự. Thứ bảy là chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện khi phát sóng phải chú ý tới thời gian, không gian tiếp nhận thông tin hợp lí nhất đối với công chúng nghe đài, cụ thể là vào khoảng thời gian vào sáng sớm, giờ nghỉ trưa và chiều tối có thể nghe tại nhà hoặc cũng có thể nghe khi đang đi làm ngoài ruộng, trên nương rẫy nhờ hệ thống loa FM hoặc radio, điện thoại có tích hợp chức năng radio. Tuy nhiên, thời điểm tốt nhất vẫn là trước khi đi làm và sau khi đi làm về, trong bữa ăn tối khi mọi người quây quần bên mâm cơm các chủ đề về pháp luật sẽ được mọi thành viên trong gia đình đem ra bàn tán – đó là cách truyền bá thông tin pháp luật một cách hiệu quả (chức năng lan truyền thông tin). Thứ tám là những người làm chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện phải thực sự là những người có tâm huyết đối với nghề, trong điều kiện báo phát thanh ngày càng bị các loại hình báo chí khác cạnh tranh quyết liệt, chưa kể sự tấn công của các Đài bên ngoài. Mỗi nhà báo phải thực sự nắm rõ và hiểu rõ về pháp luật, các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước... mỗi nhà báo phải tự trang bị cho mình đầy đủ vốn
  45. 36 kiến thức, kinh nghiệm sống, thường xuyên gần gũi với công chúng ở cơ sở để có những tác phẩm báo chí về pháp luật hay, đáp ứng đúng nhu cầu thông tin pháp luật của đại đa số công chúng quan tâm đến chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện. Tiểu kết chƣơng 1 Qua nội dung nêu trên, ở chương 1, tác giả luận văn đã trình bày về cơ sở lí luận và thực tiễn việc tổ chuyên mục pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện. Đồng thời xác định rõ tổ chức sản xuất chuyên mục về pháp luật trên sóng đài truyền thanh cấp huyện cần những điều kiện, quy trình và yêu cầu về tổ chức sản xuất chuyên mục phát thanh pháp luật trên đài truyền thanh cấp huyện như: Về những điều kiện để tổ chức sản xuất chuyên mục phát thanh về pháp luật bao gồm: tổ chức nhân sự; tổ chức hệ thống thiết bị kỹ thuật, công nghệ; tài chính, chi phí.... Về quy trình tổ chức sản xuất chuyên mục phát thanh về pháp luật: Xác định nội dung chương trình, kế hoạch tuyên truyền cụ thể; lập kế hoạch thực hiện tin bài, phân công nhiệm vụ cho người tham gia tổ chức sản xuất; lên kịch bản và biên tập chương trình; sản xuất chương trình và phát sóng... Về các yêu cầu đối với quy trình tổ chức sản xuất chuyên mục phát thanh về pháp luật: phải có định hướng chính trị rõ ràng; nội dung tin bài phải có sự tinh tế; phải đáp ứng được sự thỏa mãn về nhu cầu và tâm lí tiếp nhận thông tin của công chúng nghe; kết cấu chương trình cần cụ thể, không phức tạp, rườm rà; phải đảm bảo khả năng giúp bà con nhận thức đúng về pháp luật; ngôn ngữ trong chuyên mục pháp luật phải gần gũi, dễ hiểu, dễ nghe; phải chú ý tới thời gian, không gian tiếp nhận thông tin hợp lí nhất đối với công chúng; những người làm chuyên mục pháp luật phải thực sự là những người có tâm huyết.
  46. 37 CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHUYÊN MỤC VỀ PHÁP LUẬT TRÊN ĐÀI TRUYỀN THANH CẤP HUYỆN Ở HÒA BÌNH 2.1. Khái quát đối tƣợng thuộc diện kháo sát Hòa Bình hiện có 1 thành phố và 10 Huyện, trong đó có 11 thị trấn, 8 phường và 191 xã. Tương đương với nó là 11 đài huyện thị và 101 đài truyền thanh cơ sở. Đài truyền thanh quận, huyện có chức năng như một tờ báo, là cơ quan ngôn luận của cấp ủy, chính quyền quận, huyện. Ban tuyên giáo cung cấp tham mưu và trực tiếp giúp các cấp ủy chỉ đạo về nội dung tư tưởng của hoạt động truyền thanh ở địa phương. 2.1.1. Khái quát về các Đài truyền thanh huyện Lạc Sơn, Lương Sơn, thành phố Hòa Bình 2.1.1.1. Đài truyền thanh huyện Lạc Sơn Huyện Lạc Sơn nằm ở phía Nam của tỉnh Hòa Bình, cách thành phố Hòa Bình 56km; được thành lập năm 1887; phía Bắc giáp với huyện Kim Bôi và huyện Cao Phong, phía Nam giáp với huyện Thạch Thành tỉnh Thanh Hóa, phía đông giáp với huyện Yên Thủy, phía Tây giáp với huyện Tân Lạc. Lạc Sơn có địa hình bị chia cắt bởi nhiều đồi, núi, sông, suối, nhiều xã nằm trong huyện, nằm sâu và xen kẽ các núi đá cao, xa hệ thống giao thông cho nên huyện Lạc Sơn gặp không ít khó khăn thách thức trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Nhưng, bằng những bước đi đúng đắn và có tính chiến lược, Lạc Sơn đã và đang phát huy lợi thế bức phá để đi lên. Lạc Sơn là địa phương được đầu tư ngân sách lớn do tỉnh ủy, UBND tỉnh Hòa Bình chọn làm huyện nông thôn mới. Đài truyền thanh huyện Lạc Sơn được đánh giá là một trong bốn đài truyền thanh cấp huyện mạnh nhất trên địa bàn tỉnh Hòa Bình. Chương trình phát thanh của đài truyền thanh huyện Lạc Sơn được phát sóng với thời lượng
Publicidad