Se ha denunciado esta presentación.
Se está descargando tu SlideShare. ×

LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI DÂN HÀ NỘI HIỆN NAY

Anuncio
Anuncio
Anuncio
Anuncio
Anuncio
Anuncio
Anuncio
Anuncio
Anuncio
Anuncio
Anuncio
Anuncio
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------
VŨ ĐỨC CHÍNH
(Thích T...
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả điều tra trong luận án là trung
thực...
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................
Anuncio
Anuncio
Anuncio
Anuncio
Anuncio
Anuncio
Anuncio
Anuncio
Anuncio

Eche un vistazo a continuación

1 de 47 Anuncio

LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI DÂN HÀ NỘI HIỆN NAY

Descargar para leer sin conexión

Nhắn tin ZALO 0777 149 703 để nhận file word miễn phí nhé.
SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI DÂN HÀ NỘI HIỆN NAY

Nhắn tin ZALO 0777 149 703 để nhận file word miễn phí nhé.
SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI DÂN HÀ NỘI HIỆN NAY

Anuncio
Anuncio

Más Contenido Relacionado

Similares a LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI DÂN HÀ NỘI HIỆN NAY (20)

Más de OnTimeVitThu (20)

Anuncio

Más reciente (20)

LUẬN VĂN: SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI DÂN HÀ NỘI HIỆN NAY

  1. 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------- VŨ ĐỨC CHÍNH (Thích Thanh Nhiễu) SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƢỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƢỜI DÂN HÀ NỘI HIỆN NAY Chuyên ngành: Tôn giáo học Mã số: 62.22.90.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÔN GIÁO HỌC Chủ tịch hội đồng: Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Hữu Vui PGS. TS. Trần Thị Kim Oanh Hà Nội - 2016 1
  2. 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả điều tra trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được công bố trên bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận án Vũ Đức Chính (Thích Thanh Nhiễu) 1
  3. 3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU....................................................................................................................................................1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU................................................14 1.1. Nguồn tài liệu của luận án............................................................................................14 1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...........................................................................................14 1.3. Các khái niệm đƣợc dùng trong luận án..........................................................25 Chƣơng 2: CƠ SỞ CỦA SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƢỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƢỜI DÂN HÀ NỘI HIỆN NAY...........................................................................Error! Bookmark not defined. 2.1. Cơ sở triết lý của Phật giáo.......................Error! Bookmark not defined. 2.1.1. Triết lý nhân sinh tùy duyên của Phật giáoError! Bookmark not defined. 2.1.2. Triết lý nhân sinh từ bi của Phật giáoError! Bookmark not defined. 2.2. Cơ sở địa kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội và tín ngƣỡng thờ cúng truyền thống của ngƣời dân Hà Nội hiện nayError! Bookmark not defined. 2.2.1. Cơ sở địa kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hộiError! Bookmark not defined. 2.2.2. Cở sở tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội hiện nay.........................................................................Error! Bookmark not defined. 2.3. Cơ sở lịch sử truyền thống của Phật giáo trong sự hội nhậpError! Bookmark 2.3.1.Tính tương đồng giữa tín ngưỡng Phật giáo và tín ngưỡng truyền thống .................................................................Error! Bookmark not defined. 2.3.2. Tính tương đồng giữa triết lý nhân sinh trong Phật giáo và triết lý nhân sinh trong cộng đồng làng xã của người dân Hà Nội ....................Error! Bookmark not defined. Tiểu kết chƣơng 2......................................................Error! Bookmark not defined. 1
  4. 4. Chƣơng 3: BIỂU HIỆN CỦA SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƢỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƢỜI DÂN HÀ NỘI HIỆN NAY ...................................................... Error! Bookmark not defined. 3.1. Hội nhập Phật giáo với tín ngƣỡng thờ cúng truyền thống của ngƣời dân Hà Nội hiện nay qua khảo cứu thực hành nghi lễ tín ngƣỡng gia đình, dòng họ và tín ngƣỡng quốc gia . Error! Bookmark not defined. 3.1.1. Hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội hiện nay qua khảo cứu thực hành nghi lễ tín ngưỡng gia đình, dòng họ ..................................................... Error! Bookmark not defined. 3.1.2. Hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội hiện nay qua khảo cứu thực hành nghi lễ tín ngưỡng quốc gia. ................................................... Error! Bookmark not defined. 3.2. Hội nhập Phật giáo với tín ngƣỡng thờ cúng truyền thống của ngƣời dân Hà Nội hiện nay qua khảo cứu thực hành nghi lễ tại khuôn viên chùa ...................................................... Error! Bookmark not defined. 3.2.1. Sự hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống qua thực hành nghi lễ trong các ngày lễ tết tại chùaError! Bookmark not defined. 3.2.2. Sự hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống qua thực hành nghi lễ trong các ngày thường nhật tại chùaError! Bookmark not defined. Tiểu kết chƣơng 3 ........................................ Error! Bookmark not defined. Chƣơng 4: BẢO TỒN GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA SỰ HỘI NHẬP PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƢỠNG THỜ CÚNG TRUYỀN THỐNG CỦA NGƢỜI DÂN HÀ NỘI HIỆN NAY .............. Error! Bookmark not defined. 4.1. Giá trị văn hóa của sự hội nhập Phật giáo với tín ngƣỡng thờ cúng truyền thống của ngƣời dân Hà Nội hiện nay.Error! Bookmark not defined. 4.1.1. Sự hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống làm phong phú thêm đời sống tinh thần, góp phần làm giàu bản sắc văn hóa của người dân Hà Nội............................... Error! Bookmark not defined. 2
  5. 5. 4.1.2. Sự bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình hội nhập giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng truyền thống là một "giải pháp hoàn thiện" thỏa mãn nhu cầu tâm linh của người dân Hà Nội hiện nay.Error! Bookmark not defined. 4.1.3. Sự hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống góp phần bảo lưu những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của người dân Hà Nội ...................................................... Error! Bookmark not defined. 4.1.4. Sự hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống tạo nên một hệ thống di sản văn hóa vật thể quý giá, là một phần của văn hóa thủ đô nghìn năm văn hiến ............................. Error! Bookmark not defined. 4.2. Những giải pháp nhằm bảo tồn giá trị văn hóa của sự hội nhập giữa Phật giáo và tín ngƣỡng thờ cúng truyền thống của ngƣời dân Hà Nội hiện nay. ................................................Error! Bookmark not defined. 4.2.1. Đối với công tác quản lý ................Error! Bookmark not defined. 4.2.2. Đối với người dân ..........................Error! Bookmark not defined. 4.2.3. Đối với Giáo hội Phật giáo Việt NamError!Bookmarknot defined. Tiểu kết chƣơng 4 ........................................ Error! Bookmark not defined. KẾT LUẬN ..................................................... Error! Bookmark not defined. DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .............................................. Error! Bookmark not defined. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 29 PHỤ LỤC 3
  6. 6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Tín ngưỡng, tôn giáo thuộc thượng tầng kiến trúc phản ánh hiện thực xã hội. Tín ngưỡng, tôn giáo là thành tố của văn hóa, ra đời gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội loài người. Do vậy, nghiên cứu về tín ngưỡng, tôn giáo có vai trò đặc biệt quan trọng về lý luận và thực tiễn đối với tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới hiện nay. Ở Việt Nam, trước thời kỳ Đổi mới, do nhiều nguyên nhân khác nhau, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo chưa được đánh giá đúng, bị cho là mê tín dị đoan và vì thế, có lúc chúng ta chưa ứng xử đúng với tôn giáo (nhất là các di sản văn hóa tôn giáo). Việc nghiên cứu tôn giáo theo đó cũng bị coi nhẹ. Từ Đổi mới (năm 1986) đến nay, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã có những thay đổi trong nhận thức về tôn giáo, thừa nhận tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, còn tồn tại lâu dài và đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Trên cơ sở đường lối, chính sách mới của Đảng, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam trong những thập niên gần đây có nhiều khởi sắc, đáp ứng được nhu cầu tâm linh của người dân. Các tôn giáo hoạt động theo phương châm sống “tốt đời”, “đẹp đạo”, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Bối cảnh trên đây đã tạo điều kiện cho những hoạt động tôn giáo ở Việt Nam khởi phát mạnh mẽ. Phật giáo đến với dân tộc Việt Nam từ rất sớm, bằng con đường tự nhiên, dân dã. Khi đến với Việt Nam, Phật giáo bén duyên ở vùng Kinh Bắc trang nghiêm cổ kính, Phật giáo phát triển mạnh mẽ và trở nên hưng thịnh ở 1
  7. 7. thời kỳ Nhà Lý. Với sự phò giúp của các Thiền sư tài đức, Lý Công Uẩn rời đô về Thăng Long1 – mảnh đất hội tụ tinh hoa, đưa nước Việt sang một trang sử mới. Có thể nói trí tuệ và tầm nhìn Phật giáo đã tìm ra vùng đất “rồng bay” đặt thủ đô Đại Việt. Vua Lý lựa chọn mảnh đất Thăng Long làm kinh đô của nước Đại Việt cũng đồng nghĩa với việc Phật giáo lựa chọn mảnh đất này là “kinh đô” của mình. Với lịch sử nghìn năm văn hiến, Phật giáo Thăng Long - Hà Nội có những đặc trưng riêng trong dòng chảy chung đậm dấu ấn văn hóa Việt Nam. Trước khi Phật giáo đến, người dân Thăng Long - Hà Nội đã có một hệ thống tín ngưỡng thờ cúng rất đa dạng, phong phú. Trong gia đình, dòng họ, người Hà Nội thờ cúng tổ tiên, ngoài làng xã, người Hà Nội thờ cúng Thành hoàng làng, thờ Mẫu, người Hà Nội cũng thờ cúng tổ tiên của đất nước là Tổ Hùng Vương, ngoài ra còn có các tín ngưỡng thờ thần khác... Hàng năm, người Hà Nội cũng có rất nhiều các lễ hội tín ngưỡng đặc sắc... đời sống văn hóa tín ngưỡng phong phú, đa dạng là một bộ phận cấu thành diện mạo văn hóa Thăng Long – Hà Nội. Vào Hà Nội, với phương châm "tùy duyên phương tiện", Phật giáo đã linh hoạt hội nhập cùng với các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân nơi đây, để từ đó đi sâu, bám rễ vào văn hóa, đứng vững và trưởng thành, trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân chốn kinh kỳ hào hoa, phong nhã. Trải qua thời gian, Phật giáo vẫn kiên định song hành cùng đời sống văn hóa tinh thần người Hà Nội, càng ngày càng hội nhập sâu trong tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người Hà Nội như “sữa hòa tan trong nước”. Để đứng vững, khẳng định vững chắc vị trí của mình trong văn hóa Hà Nội, Phật giáo đã không ngừng thay đổi để phù hợp với 1 Trong luận án, chúng tôi sử dụng rất nhiều các tên gọi khác nhau của Hà Nội, như Thăng Long, Hà thành,... tuy nhiên các tên gọi này không phải gọi tên theo giai đoạn lịch của Hà Nội mà chúng tôi sử dụng linh hoạt và đều dùng để chỉ thành phố Hà Nội hiện nay 2
  8. 8. hoàn cảnh từng thời kỳ lịch sử thăng trầm của mảnh đất Hà Nội, khi ở thời kỳ hoàng kim (thời Lý, Trần), được "trọng dụng", Phật giáo đem hết sức mình cống hiến cho đất nước, khi có biến cố, Phật giáo lại lui về bám rễ trong đời sống nhân dân... nhưng dù trong hoàn cảnh nào, Phật giáo vẫn một lòng “thủy chung son sắc” với văn hóa Hà Nội. Ngày nay, đứng trước nhiều thách thức của thời cuộc, đời sống người dân Hà Nội có những bước chuyển quan trọng, Phật giáo vẫn trung thành với con đường đã đi nhưng ở một sắc thái mới, một sự hội nhập mới phù hợp với xu thế phát triển của đất nước nói riêng, của thế giới nói chung mà không làm mất đi bản sắc dân tộc Hà Nội - Việt Nam. Và bản thân với tư cách là một người tu hành, ngoài những hoạt động tôn giáo thường ngày, tôi luôn trăn trở, băn khoăn mình cần làm một điều gì đó để đóng góp thiết thực nhất để tôn giáo của mình phát triển đúng hướng, ngày càng đóng góp được nhiều hơn cho xã hội. Tôi nhận thấy nghiên cứu sự hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội hiện nay có thể góp một phần thực hiện mong muốn đó. Với những lý do trên đây, tôi lựa chọn đề tài: “Sự hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội hiện nay” là đề tài nghiên cứu của Luận án. Hy vọng đề tài nghiên cứu này sẽ là hạt nước, thêm vào đại dương tri thức mênh mông. 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án * Mục đích của luận án Trên cơ sở lý luận và khảo sát thực tế, luận án chỉ ra những biểu hiện của sự hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội hiện nay. Qua đó đưa ra những giải pháp nhằm bảo tồn giá trị văn hóa của sự hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội hiện nay. 3
  9. 9. * Nhiệm vụ của luận án Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án cần thực hiện các nhiệm vụ: - Chỉ ra cơ sở của sự hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng của người dân Hà Nội hiện nay - Chỉ ra những biểu hiện của sự hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội hiện nay - Chỉ ra giá trị văn hóa của sự hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống; đưa ra những giải pháp nhằm bảo tồn các giá trị văn hóa đó. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án * Đối tượng nghiên cứu của luận án Đối tượng nghiên cứu của luận án: Phật giáo hội nhập với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội hiện nay. *Phạm vi nghiên cứu của luận án - Về không gian: + Ngoài việc thu thập và khảo sát chung toàn khu vực Hà Nội, luận án còn chọn điểm nghiên cứu chính nhằm làm sáng tỏ hơn nữa được sự hội nhập giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội hiện nay. Cụ thể là: Làng đô thị hóa thành phường (tiêu biểu: Làng Trung Kính Thượng (phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội); các chùa (chùa Trung Kính Thượng, chùa Quán Sứ)... + Nghiên cứu sự hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội hiện nay, luận án đi sâu vào sự hội nhập Phật giáo Bắc tông trong thực hành nghi lễ thờ cúng tại gia đình, dòng họ, làng xã, quốc gia (thờ cúng tổ tiên: Thành hoàng làng (người có công với làng), Quốc tổ (vua Hùng), anh hùng liệt sĩ (người có công với đất nước), Tứ bất tử; tín ngưỡng vòng đời: nghi lễ sinh đẻ, nghi lễ cưới xin, thờ thần bản mệnh, tang 4
  10. 10. ma; tín ngưỡng nghề nghiệp: tín ngưỡng nông nghiệp, tín ngưỡng tổ nghề; tín ngưỡng thờ thần: đạo Mẫu) và những ngày thường nhật, lễ tết trong chùa của người dân Hà Nội mà chúng tôi đã khảo cứu được thông qua quan sát, bảng hỏi phỏng vấn. - Về thời gian: Luận án nghiên cứu sự hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân tại các làng ở Hà Nội trong giai đoạn từ khi Đổi mới (1986) đến nay. Bởi mặc dù sự hội nhập là cả quá trình nhưng từ năm 1986, Việt Nam tiến hành đổi mới, cải cách toàn diện trên mọi lĩnh vực, với chính sách mở cửa, thì sự hội nhập kinh tế mạnh mẽ bao nhiêu thì kéo theo với nó là hội nhập văn hóa cũng diễn ra mạnh mẽ như vậy và đậm nét hơn. Chính vì vậy, chúng tôi lấy mốc thời gian từ 1986 đến nay, để xác định phạm vi nghiên cứu của mình. 4. Đóng góp của luận án - Về mặt lý luận: + Luận án góp phần nghiên cứu những vấn đề lý luận về sự hội nhập văn hóa nói chung, tôn giáo nói riêng, mà cụ thể là sự hội nhập giữa Phật giáo và nghi lễ thờ cúng truyền thống của người dân tại các làng ở địa bàn Hà Nội. + Qua nghiên cứu về sự hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội, luận án cung cấp thêm tư liệu mới (làm rõ hơn nữa) về sự tương đồng và khác biệt giữa văn hóa của tôn giáo ngoại nhập (Phật giáo) với văn hóa tín ngưỡng bản địa (thờ cúng truyền thống) của người dân Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. + Qua chứng cứ nghiên cứu, luận án cho thấy “xu hướng phát triển” của tôn giáo, tín ngưỡng trong đời sống xã hội hiện nay thể hiện rõ phương châm là hội nhập với văn hóa bản địa trên tinh thần dung hợp bồi đắp cùng 5
  11. 11. nhau phát triển. Điều này có ý nghĩa quan trọng, bởi nó góp phần lý giải về tương lai của tôn giáo, tín ngưỡng trong các quốc gia. + Từ góc độ tiếp cận tôn giáo học/ triết học/ văn hóa học/ nhân học tôn giáo về sự hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội, luận án chỉ ra mức độ tác động qua lại giữa tôn giáo ngoại nhập và tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội hiện nay và ngược lại. + Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận án chỉ ra những giá trị văn hóa của sự hội nhập giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân hiện nay. Do vậy, đây cũng là một trong những minh chứng làm sáng tỏ giá trị văn hóa dân tộc cần phải bảo tồn và phát huy trong thời kỳ hội nhập văn hóa quốc tế. - Về mặt thực tiễn - Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy về tín ngưỡng, tôn giáo và văn hóa nói chung; Phật giáo, tín ngưỡng thờ cúng truyền thống và văn hóa Việt Nam nói riêng; cho việc hoạch định chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay và sau này. 5. Lý thuyết, cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án * Các lý thuyết áp dụng trong luận án Có nhiều lý thuyết áp dụng trong nghiên cứu về sự hội nhập, giao lưu văn hóa nói chung, tôn giáo nói riêng. Tuy nhiên, trong luận án này, chúng tôi chọn một số lý thuyết chính để áp dụng vào việc nghiên cứu về sự hội nhập của Phật giáo đối với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân tại ba điểm đã được lựa từ góc độ Tôn giáo học, Văn hóa học và Nhân học tôn giáo: 1. Lý thuyết về giao lưu, tiếp biến văn hóa - Giao lưu tiếp biến văn hóa là khái niệm do các nhà nhân học Anglo - Saxon đưa ra vào cuối thế kỷ XIX để chỉ sự tiếp xúc trực tiếp và lâu dài giữa 6
  12. 12. hai nền văn hóa khác nhau và hậu quả của cuộc tiếp xúc này là sự thay đổi hoặc biến đổi của một số loại hình văn hóa hoặc cả hai nền văn hóa đó. Theo các nhà nhân học Mỹ, giao lưu tiếp biến văn hóa là quá trình trong đó, một nền văn hóa thích nghi, ảnh hưởng một nền văn hóa khác bằng cách vay mượn nhiều nét đặc trưng của nền văn hóa ấy. Sự giao lưu tiếp biến văn hóa cũng là một cơ chế khác của biến đổi văn hóa. Đó là sự trao đổi những đặc tính văn hóa nảy sinh khi các cộng đồng tiếp xúc trực diện và liên tục. Các mẫu hình văn hóa nguyên thủy của một cộng đồng hoặc của cả hai cộng đồng có thể bị biến đổi thông qua quá trình tiếp xúc này. Các thành tố của các nền văn hóa biến đổi, song mỗi nền văn hóa vẫn giữ tính riêng biệt của mình. Quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa có thể diễn ra một cách cưỡng bức thông qua sự thống trị về quân sự, hoặc diễn ra bằng con đường hòa bình hơn thông qua buôn bán, truyền đạo [Xem 30,tr107]. Lý thuyết giao lưu tiếp biến văn hóa được luận án lựa chọn áp dụng để nghiên cứu về sự hội nhập Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân các làng được lựa chọn nghiên cứu. 2. Lý thuyết nghi lễ tăng cường sức mạnh Theo Villiam A. Havilan, nghi lễ tăng cường sức mạnh là nghi lễ đánh dấu những thời gian khủng hoảng trong đời sống của cộng đồng hơn là một cá nhân - thành viên của cộng đồng. Nghi lễ này được thực hiện trong thời khủng hoảng hay biến cố lớn lao nào đó của cộng đồng cư dân, mục đích để giúp cho mọi thành viên trong cộng đồng gắn bó với nhau hơn (ví dụ những cuộc khủng hoảng do hạn hán kéo dài…). Cái chết của một con người có khi cũng được xem là sự khủng hoảng cuối cùng của cuộc đời người đó và nó cũng là sự khủng hoảng đối với toàn bộ cộng đồng, đặc biết là đối với những cộng đồng nhỏ. Một thành viên của 7
  13. 13. cộng đồng (hoặc nhóm người) bị chết đi thì sự cân bằng của cộng đồng đó sẽ bị rối loạn. Do đó những người còn sống phải tái điều chỉnh và lập lại sự cân bằng cũ, đồng thời họ cần phải tự điều hòa, làm dịu cảm giác mất mát đối với người đã chết. Khi đó, nghi lễ của đám tang người đó có thể được xem là nghi lễ tăng cường sức mạnh để những người đang sống giảm nhẹ sự bối rối của họ đối với người chết, trong khi vẫn tạo ra sự tái điều chỉnh xã hội. Cũng theo Villiam A. Havilan, việc tiến hành những nghi lễ tăng cường sức mạnh không bị giới hạn bởi số lần khủng hoảng xảy ra. Ở những vùng có sự khác nhau giữa các mùa, mà con người phải thay đổi cho phù hợp, thì các nghi lễ này sẽ được tiến hành theo kiểu lễ hội hàng năm. Đối với những dân tộc có văn hóa nông nghiệp thì họ sẽ có những lễ hội trồng trọt, lễ hội cho sản phẩm thu hoạch. Sự kiện mọi người tham gia vào lễ hội, vào các dịp đặc biệt này sẽ làm gia tăng sự đoàn kết cộng đồng. Như vậy nghi lễ tăng cường sức mạnh của cộng đồng là những lễ hội có sự tham gia của toàn thể cộng đồng cư dân cùng chia sẻ một tâm thức tôn giáo, trong đó các nghi lễ, lễ hội thể hiện sự cộng cảm, là chất “keo” gắn kết, đoàn kết cộng đồng, biểu trưng đời sống tâm linh, xã hội và văn hóa, mang tính thống nhất, cộng cảm của cả cộng đồng [Xem 30,tr176]. Những quan điểm của lý thuyết nghi lễ tăng cường sức mạnh (Rites of intensification) của Villiam A. Havilan trên đây sẽ là cơ sở lý luận để chúng tôi nghiên cứu về những nghi lễ truyền thống của cộng đồng làng xã như thờ cúng , thờ Mẫu. Qua đó chỉ ra sự hội nhập trong nghi lễ của Phật giáo đối với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân các làng. 3. Lý thuyết nhân học biểu tượng Cả Victor Turner và Clifford Geertz đều chú trọng nghiên cứu biểu tượng trong nghi lễ. 8
  14. 14. - Victor Turner đề cao tính kịch hóa của nghi lễ thờ cúng và ông nhìn nghi lễ thờ cúng như một sự trình diễn. Trong bài viết về “Biểu tượng trong nghi lễ của người Ndembu” ông cho rằng biểu tượng bao gồm những sự vật, hành động, các mối quan hệ, hiện tượng, cử chỉ và những đơn vị không gian trong một tình huống nghi lễ [Xem 130,tr242]. Clifford Geertz lại coi biểu tượng là hình ảnh tượng trưng, là loại ký hiệu đặc biệt, thể hiện nội dung thực tế của một điều nào đó. Nhà nghiên cứu thông qua biểu tượng phải diễn giải ý nghĩa của những ký hiệu đó. - Clifford Geertz và Victor Turner đều cho rằng nghi lễ thờ cúng là quá trình vượt qua để chuyển tải những ý nghĩa, thông tin xã hội và nhân văn sâu sắc. Niềm tin và sự thực hành nghi lễ thờ cúng phản ánh và chỉ rõ các yếu tố chính trị, kinh tế, các mối quan hệ xã hội, hơn nữa nó là chìa khóa để hiểu con người nghĩ và cảm thấy ra sao về các mối quan hệ với môi trường và xã hội họ đang sống. Lý thuyết này, chúng tôi sử dụng để nghiên cứu nghi lễ thờ cúng trong các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của các làng được chọn nghiên cứu. 4. Lý thuyết chức năng Trong hệ thống lý thuyết này có hai trường phái, đưa ra hai loại chức năng: chức năng tâm lý (quan điểm của B. Malinowski) và chức năng xã hội (quan điểm của Emile Durkheim và được triển khai thêm trong những công trình của Radcliff - Brown). Lý thuyết của Malinowski nhấn mạnh đến chức năng tâm lý của lễ nghi. Thông qua nghi lễ, con người muốn thỏa mãn nhu cầu cá nhân, cộng đồng, đặc biệt là nhu cầu tâm lý, tình cảm [Xem 30,tr174]. 5. Thuyết trung tâm và ngoại vi Thuyết "trung tâm" trong nghiên cứu văn hoá đã được các nhà nghiên cứu thuộc trường phái "Truyền bá luận" (diffutionisim) Tây Âu đưa ra từ các 9
  15. 15. thập kỉ cuối thế kỉ XIX đầu XX, mà các đại diện chính của trường phái này là các nhà nghiên cứu Đức - Áo, như L. Frobenius, F.Ratsel, F. Grabner , W. Schmidt. Sau đó những nhà nhân học Mĩ, mà đại diện xuất sắc là Boas, LC. Wissler, đã phát triển lí thuyết trung tâm trong việc hình thành các "vùng văn hoá" của người Indian ở Bắc Mĩ. Sau CL.Wissler, A.L.Kroeber đã phát triển quan điểm về trung tâm văn hoá. Đến Những năm cuối thập kỉ 70 và đầu 80 của thế kỉ XX, các nhà nhân học Xô Viết đã xuất bản công trình "Trung tâm và ngoại vi trong nghiên cứu văn hoá từ sau các phát kiến địa lí" . Ứng dụng thuyết "trung tâm và ngoại vi" trong nghiên cứu văn hoá Việt Nam, chúng ta cũng có thể nghiên cứu văn hoá Thăng Long - Hà Nội với tư cách là trung tâm, đặt trong không gian văn hoá đồng bằng Bắc Bộ. Bởi "Có thể nói, quá trình hình thành văn hóa Thăng Long - Hà Nội là quá trình tích tụ văn hoá từ các vùng ngoại vi, trước nhất là "tứ trấn nội Kinh" (Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Đông, Sơn Tây) và xa hơn với các "trấn ngoại kinh". Và cũng chính trong môi trường kinh tế, xã hội, chính trị phát triển cao của Thăng Long - Hà Nội, các nhân tố, giá trị văn hoá tích hợp từ ngoại biên đã được định hình, nâng cấp, lên khuôn để sau đó mang bản sắc Thăng Long - Hà Nội, rồi từ đây lại lan hoả tới các vùng ngoại vi và cả nước. Hơn thế nữa, các ảnh hưởng văn hoá với bên ngoài, như với Trung Hoa suốt thời đại phong kiến tự chủ và sau này, trong giai đoạn tiếp xúc văn hoá đông tây thời thuộc Pháp, thì những ảnh hưởng, giao lưu ấy phần lớn cũng thông qua đầu mối trung tâm Thăng Long - Hà Nội mà tác động tới cả nước. Những giao lưu, ảnh hưởng hai chiều này giữa Thăng Long - Hà Nội với các vùng ngoại vi có thế tìm thấy trong nhiều hiện tượng và giá trị văn hoá. Chẳng hạn, việc hình thành các phố nghề ở Thăng Long - Hà Nội từ các làng nghề ở vùng quê và sau đó là mối quan hệ hai chiều giữa phố nghề và làng nghề mà cho tới nay vẫn tiếp tục"[Xem 114]. 10
  16. 16. 6. Quan điểm của Lương Văn Hy Khi nghiên cứu nghi lễ, lễ hội, không chỉ dừng lại ở miêu tả dân tộc học những chi tiết về cơ cấu tổ chức và diễn biến của các nghi lễ thờ cúng và sinh hoạt cộng đồng, mà còn phải gắn các nghi thức lễ hội với bối cảnh kinh tế, xã hội vĩ mô và vi mô và lịch sử quá trình tương tác xã hội diễn ra trên thực tế ở địa phương. Ngoài ra còn cần phải tìm hiểu những mâu thuẫn xã hội tiểm tàng cùng sự tăng cường những quan hệ xã hội, trong đó khía cạnh giới và các hệ quy chiếu khác nhau như giai cấp, đẳng cấp, nghề nghiệp, gia đình, dòng tộc, làng xóm…trong quan hệ giữa các chủ thể hành động tham gia vào lễ hội [Xem 30,tr173 - 174]. * Cơ sở lý luận của luận án Luận án dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, quan điểm, đường lối chính sách của Đảng nhà nước ta về tín ngưỡng tôn giáo, một số quan điểm khoa học về tôn giáo của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. * Phương pháp nghiên cứu của luận án Luận án kết hợp sử dụng một số phương pháp khác nhau nhằm đảm bảo tính hiệu quả và độ tin cậy của các thông tin thu thập được (thực địa và tài liệu có sẵn). Các phương pháp được sử dụng trong luận án là phương pháp chuyên ngành và liên ngành như tôn giáo học, nhân học tôn giáo, văn hóa học, triết học…cùng các phương pháp tổng hợp, so sánh, khái quát hóa. Cụ thể như: Chúng tôi sử dụng phương pháp Quan điểm lịch sử để thấy được truyền thống văn hóa nói chung, văn hóa tôn giáo nói riêng diễn biến vừa liên tục, vừa gián đoạn, trong đó tính liên tục là cơ bản, tính gián đoạn chỉ có tính tạm thời. Quy luật thừa kế lịch sử là biểu hiện cơ bản cho tính độc lập tương đối, tính có thể nhận thức được những giá trị văn hóa trong các tín ngưỡng thờ 11
  17. 17. cúng truyền thống, sau khi chúng chịu sự tác động của tôn giáo ngoại nhập. Vì vậy, cần phải bảo tồn những nghi lễ truyền thống này, vì đây chính là những giá trị văn hóa bản địa đã được bồi đắp. Do vậy, không chỉ quan điểm triết học Mác xít có quan điểm này mà những quan điểm tiến bộ có tính trung hòa như quan điểm của UNESCO cũng coi “văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống con người đã diễn ra trong quá khứ và cũng đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ nó đã cấu thành nên một hệ thống giá trị truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó, từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình” [136,tr 218]. Phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu: phương pháp này được áp dụng trong quá trình nghiên cứu tại thực địa, tại các thư viện ở cấp quốc gia, ở cấp tỉnh. Đồng thời phương pháp này còn sử dụng trong việc sàng lọc các tư liệu lưu trữ dưới dạng văn bản (bài khấn, gia phả, cách thức khấn…) tại các địa bàn nói trên. Phương pháp điền dã dân tộc học/ nhân học với công cụ chính là phỏng vấn sâu người dân, phỏng vấn nhóm, nhằm thu thập những thông tin tư liệu cho luận án tại các địa bàn nghiên cứu. Trong đó vấn đề trọng tâm mà luận án quan tâm là nghiên cứu Phật giáo và các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân các làng để chỉ ra sự hội nhập của Phật giáo với văn hóa bản địa và sự biến đổi của chúng trong giai đoạn hiện nay. Phương pháp điều tra xã hội học: với mục đích có những số liệu định lượng nhằm chứng minh cho một số nhận định khi nghiên cứu định tính nếu thấy cần thiết. Phương pháp phỏng vấn ăng két: với mục đích có những số liệu nhằm lượng hóa những hành vi của cá nhân trong nghi lễ thờ cúng và những quan điểm, cách nghĩ, những thực hành tôn giáo thường ngày. Chúng tôi đã thiết kế 12
  18. 18. bảng ăng két dành cho những tín đồ của Phật giáo ở các làng được lựa chọn khảo cứu. 6. Kết cấu của luận án Ngoài các phần Mục lục; Mở đầu, Kết luận; Danh mục các công trình khoa học của tác giả, đã công bố liên quan đến luận án; Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Nội dung của luận án bao gồm 4 chương, 10 tiết. 13
  19. 19. Chƣơng 1: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1.1. Nguồn tài liệu của luận án - Tài liệu chính của luận án là những tác phẩm, bài viết nghiên cứu về hội nhập văn hóa, hội nhập tôn giáo; các tư liệu điền dã: gồm phỏng vấn sâu, điều tra hồi cố, các ghi chép quan sát, tham dự... - Các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê của cấp ủy, chính quyền và các ban ngành đoàn thể ở các địa phương được khảo sát. - Luận án kế thừa những kết quả nghiên cứu trong nước và ngoài nước về vấn đề hội nhập tôn giáo nói chung; hội nhập Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người Việt nói riêng. 1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Sự hội nhập văn hóa nói chung, hội nhập tôn giáo nói riêng là vấn đề thu hút được rất nhiều sự quan tâm, chú ý của các nhà khoa học trong và ngoài nước, thuộc các lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, để phục vụ cho đề tài luận án, chúng tôi tập trung sự chú ý các tác phẩm thuộc lĩnh vực triết học, tôn giáo học, nhân học tôn giáo và văn hóa học. Để phục vụ công tác nghiên cứu, chúng tôi tìm hiểu các tài liệu ở 3 chủ đề chính: - Phật giáo Hà Nội - Các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người Hà Nội - Sự hội nhập Phật giáo với các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống. Chủ đề thứ nhất: Phật giáo Hà Nội Trước hết là các công trình sách: Để tìm hiểu về Phật giáo Hà Nội, chúng ta không thể bỏ qua những kiến thức cơ bản về Phật giáo Việt Nam: lịch sử Phật giáo, văn hóa Phật giáo..., bởi Phật giáo Hà Nội là một phần Phật 14
  20. 20. giáo Việt Nam. Phật giáo có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, đã khẳng định được vị trí vững chắc của mình trong đời sống tinh thần người Việt, chính vì vậy có rất nhiều công trình nghiên cứu công phu, của các tác giả lớn: "Lịch sử Phật giáo Việt Nam" (1989) của Nguyễn Tài Thư (chủ biên), "Việt Nam Phật giáo sử luận (3 tập)" (2008) của Nguyễn Lang, "Lịch sử Phật giáo Việt Nam" (2001) của Lê Mạnh Thát (2 tập), "Tư tưởng Phật giáo Việt Nam" (1999) của Nguyễn Duy Hinh... Các tác phẩm trên đều đề cập đến những vấn đề cơ bản của Phật giáo nói chung: nguồn gốc ra đời Phật giáo, giáo lý cơ bản Phật giáo, lịch sử Phật giáo với sự phân chia, hình thành các tông phái, sự truyền bá Phật giáo ở các vùng lãnh thổ khác nhau, quá trình du nhập Phật giáo vào Việt Nam, Phật giáo Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử… Những nội dung này đều được phân tích một cách khúc triết dưới lăng kính của các nhà sử học, văn hóa học uy tín. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Duy trong cuốn sách “Phật giáo với văn hóa Việt Nam” đã chỉ ra những đóng góp của Phật giáo với văn hóa Việt Nam, những ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống người Việt, đó cũng chính là con đường Phật giáo thâm nhập, ăn sâu, bám rễ vào xã hội Việt Nam, giúp Phật giáo có chỗ đứng vững chắc hơn, bền lâu hơn để ngày càng phát triển. Tác giả Trần Văn Giàu có tác phẩm “Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại” đã chỉ ra những giá trị đạo đức Phật giáo phù hợp, cần thiết trong đời sống hiện đại. Dựa vào đó chúng ta có thể xem xét khả năng “cân bằng”, “điều chỉnh” hành vi đạo đức Phật giáo, điều rất cần thiết trong bối cảnh đạo đức xã hội hiện nay, để Phật giáo trở thành “nhu cầu” của xã hội hiện đại. Khái quát được toàn bộ vai trò của Phật giáo Việt Nam, Đặng Văn Bài (2008) qua chuyên khảo, "Nhận diện để phát huy giá trị di sản văn hóa Phật giáo Việt Nam", đã nêu lên những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của Phật giáo đó là, du nhập vào Việt Nam sớm, thể hiện khả năng hòa đồng, tính 15
  21. 21. khoan dung, tinh thần dân chủ, bình đẳng, ảnh hưởng rộng rãi trong quần chúng, nhất là đối với những người nghèo khổ, gắn bó với cộng đồng làng xã thể hiện ở những mái chùa làng; Phật giáo gắn đạo với đời, đồng hành cùng dân tộc trong lịch sử, góp phần thiết thực vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. Phật giáo Hà Nội cũng được đề cập đến trong nhiều công trình: Đỗ Quang Hưng có cuốn sách "Đời sống tôn giáo tín ngưỡng Thăng Long - Hà Nội", Nxb Hà Nội. Không chỉ dừng lại ở việc dựng lại lịch sử các tôn giáo cũng như các hình thức tín ngưỡng ở Hà Nội một cách “lịch sử” và “tách biệt”, mà bằng cách tiếp cận tôn giáo học tác giả đã giúp người đọc có một cái nhìn tổng quan về hệ thống tôn giáo, tín ngưỡng của Thăng Long - Hà Nội, đồng thời còn cho bạn đọc nhìn thấy được đời sống tôn giáo tín ngưỡng của người Thăng Long qua các thời kỳ lịch sử. Trong đó có Phật giáo. Nguyễn Thế Long, Phạm Mai Hùng (2005) có tác phẩm Chùa Hà Nội là cuốn sách viết về những ngôi chùa Phật giáo của mảnh đất Hà Nội, ở đó ta có thể tìm thấy những kiến thức về đạo Phật ở Việt Nam và Hà Nội, giáo lý đạo Phật và đạo Phật dân gian; kiến trúc và các pho tượng trong một ngôi chùa ở Việt Nam. Các ngôi chùa được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa từ năm 1962 - 1994 ở Hà Nội. Và ta cũng có thể tìm thấy những kiến thức về cách bài trí, thờ cúng trong các chùa ở Hà Nội trong cuốn Chùa Hà Nội của Lạc Việt.... Ngoài ra còn có các công trình là đề tài cấp nhà nước, luận án, các bài tham gia hội thảo, đăng trên các tạp chí uy tín: Tác giả Nguyễn Minh Ngọc và Minh Thiện có bài viết Phật giáo Hà Nội - quá trình du nhập và phát triển đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Phật học đã cho thấy hiểu lịch sử Phật giáo ở Việt Nam nói chung và quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo Hà Nội trong tiến trình lịch sử Việt Nam 16
  22. 22. Tác giả Trần Thị Kim Oanh trong bài viết "Vị thế của Phật giáo trong văn hóa Việt Nam" đăng trong Kỷ yếu Hội thảo 30 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã chỉ ra rằng, Phật giáo với tư cách là một tôn giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, nên trong giai đoạn hiện nay, khi mà vấn đề toàn cầu hóa và tác động của nó đối với sự phát triển văn hóa và con người Việt Nam vẫn giữ vai trò quan trọng. Trong bài viết này tác giả đã phân tích rất sâu sắc hoàn cảnh và những biến đổi hiện nay với nhu cầu hội nhập văn hóa. Từ đó chỉ ra những vai trò của Phật giáo trong hoàn cảnh mới, với văn hóa Việt Nam. Trong đó, tác giả khẳng định: “Có thể nói, trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù trong lịch sử hay trong thời đại mới của dân tộc thì Phật giáo luôn là hiện thân rực rỡ nhất của sự bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc ta – một tôn giáo rất giàu tình đoàn kết, bác ái, bao dung...” [94,tr370]. Ở chủ đề thứ hai, các tác phẩm viết về các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội. Nghiên cứu đề tài sự hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân, thì phải kể đến các tác phẩm, các công trình đề cập đến các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người Việt nói chung, người Hà Nội nói riêng. Mảng các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người Việt nói chung phải kể đến các công trình của các nhà nghiên cứu tên tuổi như: Nhà nghiên cứu Toan Ánh với các cuốn sách: Hội hè đình đám, Tín ngưỡng Việt Nam, Nếp cũ, Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam... là những tư liệu quý mà tác giả đã khảo cứu về đời sống tín ngưỡng của người Việt, có thể tìm thấy trong những tác phẩm này là những kiến thức về các tín ngưỡng truyền thống, các lễ hội độc đáo của người Việt; Phan Kế Bính có tác phẩm Việt Nam phong tục; Giáo sư Trần Quốc Vượng trong công trình nghiên cứu công phu: Văn hóa Việt Nam; Tác giả Trần Đăng Duy có tác phẩm: Các hình thái 17
  23. 23. tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam, trong lời mở đầu tác giả viết: “Ở nước ta, tín ngưỡng tôn giáo như là cơm ăn nước uống, hàng trăm hàng nghìn năm nay, từ thời nguyên thủy còn tồn tại lại, sang thời xã hội phong kiến, cho đến ngày nay, chẳng một gia đình nào lại không có bàn thờ cúng, chẳng một làng ấp nào lại không có ngôi đình, đền, miếu thờ Thần, thờ Mẫu” [24,tr5], Văn hóa tâm linh người Việt miền Bắc, nxb Hà Nội, 1996 đề cập rõ nét hơn đến các tín ngưỡng người Việt vùng Bắc Bộ. Hồ Đức Thọ (Sưu tầm và biên soạn, 2002) có cuốn Nghi lễ thờ cúng truyền thống của người Việt tại nhà và chùa, đình, miếu, phủ, đã giới thiệu các nghi lễ truyền thống tại nhà và các danh sơn cổ tích đình, đền, chùa, miếu, cung cấp những kiến thức về việc thờ cúng tại các địa điểm trên một cách đầy đủ. Ở góc độ khác, các tác giả Lê Trung Vũ, Nguyễn Hồng Dương, Lê Hồng Lý (1999), với Nghi lễ vòng đời người, đã tập hợp các tư liệu cho chúng ta thấy được bức tranh tương đối đầy đủ và có hệ thống về những nghi lễ đời người của người Việt. Nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh cũng có rất nhiều tác phẩm về vấn đề này, tiêu biểu như: Đạo Mẫu ở Việt Nam, Nhận thức về đạo Mẫu và một số hình thức Shaman của các dân tộc nước ta... là những tư liệu quý viết rất sâu về Đạo Mẫu của Việt Nam, từ nguồn gốc ra đời cho đến sự biến đổi hiện nay. Viết về tín ngưỡng thờ cúng truyền thống người Hà Nội có rất nhiều tác phẩm của các nhà nghiên cứu khác nhau: Cuốn sách: “Hà Nội văn hóa và phong tục” của tác giả Lý Khắc Cung [Nxb Thanh Niên, 2000]. Dưới góc nhìn của một công trình khảo cứu, tác phẩm đưa đến cho người đọc những kiến thức về văn hóa của mảnh đất nghìn năm văn hiến về những di tích lịch sử, những phong tục, những lễ hội... của mảnh đất và con người nơi đây... 18
  24. 24. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc đã dày công nghiên cứu về Hà Nội, và kết quả ông đã cho ra đời một chùm các tác phẩm viết về Hà Nội. Về đề tài đời sống văn hóa tín ngưỡng Hà Nội, tiêu biểu có các tác phẩm: Hà Nội cõi đất con người, trong đó tác giả đề cập đến Ngôi đình và tín ngưỡng thành hoàng Thăng Long, Đền Đồng Cổ, Lễ hội Hà Nội... Hợp tác với Nguyễn Duy Hinh, 2 tác giả có tác phẩm: Các Thành hoàng và tín ngưỡng Thăng Long – Hà Nội [Nxb Lao Động, 2009] viết rất sâu về thần tích, sự tích của hệ thống các Thành Hoàng ở Hà Nội, chủ yếu là khu vực nội thành, tương ứng với khu vực kinh thành Thăng Long xưa, phong tục thờ Thành Hoàng của người Hà Nội... Trong đó khẳng định: Những thần tích đó vừa là bằng chứng của tín ngưỡng dân gian, vừa là một thành phần của nền văn hóa dân gian. Nói cách khác, thần tích mà hiện nay còn lại chính là một sở hữu đồng thời một sáng tạo văn hóa phi vật thể của dải đất ngàn năm văn vật. Nó là tâm hồn, tư duy, là trí tưởng tượng, là quan niệm về vũ trụ và nhân sinh của bao thế hệ cư dân sinh sống trên dải đất kinh kỳ này [99,tr3]. Tác giả Nguyễn Thế Long và Phạm Mai Hùng có chùm tác phẩm nghiên cứu về đời sống tôn giáo người Hà Nội, trong đó nổi bật cuốn sách: Đình và Đền Hà Nội [nxb Văn hóa Thông tin, 2005]. Các đình, đền... được giới thiệu những nét chủ yếu về thời gian xây dựng, quá trình tu sửa, thần tích của các vị thần và thành hoàng được thờ, giá trị kiến trúc và thẩm mỹ của các di vật cổ còn lưu lại, cũng như các lễ hội. Tác giả Văn Quảng đã biên soạn cuốn Văn hóa tâm linh Thăng Long Hà Nội nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, cuốn sách là cái nhìn tổng quan về đời sống tâm linh người Hà Nội. Tác phẩm đã nêu lên được vị thế của đời sống tâm linh người Hà Nội trong lòng văn hóa Việt Nam, hệ thống các vị thần thánh được thờ ở Hà Nội và giới thiệu một số đình, chùa, miếu, phủ ở Hà Nội. 19
  25. 25. Liên quan khá trực tiếp đến đề tài nghiên cứu là tác phẩm viết về tín ngưỡng truyền thống của người Hà Nội giai đoạn hiện nay của tác giả Đỗ Thị Minh Thúy có tên: Tín ngưỡng dân gian Hà Nội trong đời sống văn hóa đô thị hiện nay. Ở đó, tác giả đã khái quát được những nét tiêu biểu của tín ngưỡng dân gian Hà Nội, những biến động của tín ngưỡng dân gian Hà Nội trong đời sống văn hóa đô thị hiện nay và tác giả đưa ra những giải pháp đối với việc quản lý tín ngưỡng dân gian. Trong tác phẩm này, TS. Đỗ Thị Minh Thúy đã viết rất sâu về hệ thống tín ngưỡng dân gian Hà Nội ở các phương diện: cơ sở thờ tự, sự thờ cúng,... Nhìn chung các tác phẩm viết về tín ngưỡng thờ cúng truyền thống và nghi lễ tôn giáo nói trên đã cung cấp cho người đọc những kiến thức về lĩnh vực tín ngưỡng truyền thống của người Việt nói chung, người dân Hà Nội riêng. Chủ đề thứ ba, Sự hội nhập Phật giáo với các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống. Sự hội nhập hay tương tự là sự dung hợp, dung thông Phật giáo với các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống được ít nhiều đề cập đến trong các nghiên cứu của các tác giả lớn: Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Phan Đại Doãn, Vũ Ngọc Khánh, tuy nhiên các tác giả này đều đề cập đến sự hội nhập Phật giáo với các tín ngưỡng của người Việt ở giai đoạn đầu du nhập. Ví như quan điển của nhà nghiên cứu Phan Đại Doãn trong Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam: " Phật giáo Dâu là sự lắp ghép, kết hợp giữa Phật giáo có nguồn gốc Ấn Độ với văn hóa Việt cổ (mà yếu tố thứ hai là chính) đã tạo thành một dòng Phật giáo dân gian độc đáo. Sơn môn này rất gần gũi với nhân dân làng xã nghèo khổ, khi mà họ không hiểu nhiều về tứ diệu đế, bát chính đạo" [20,tr10]. 20
  26. 26. Tác giả Lê Tâm Đắc trong bài viết Sự hỗn dung giữa Phật giáo với tín ngưỡng thủy thần qua nghiên cứu chùa Yên Phú, một ngôi chùa ở Huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, đã cho ta thấy sự hỗn dung của Phật giáo với các tín ngưỡng bản địa, cụ thể ở đây là tín ngưỡng thờ thủy thần. trong bài viết này, tác giả cũng khẳng định: “Việc các ngôi chùa Việt truyền thống không những thờ các vị Phật, các vị hộ trì Phật pháp, mà còn thờ nhiều vị thần linh của các tôn giáo khác và các tín ngưỡng bản địa diễn ra phổ biến ở vùng đồng bằng Bắc Bộ” [106,tr20]. Tác phẩm này đã đề cập đến sự hỗn dung giữa Phật giáo với tín ngưỡng thủy thần nhưng đây chỉ cho thấy một khía cạnh của sự hỗn dung. Cùng với Tạ Quốc Khánh, Lê Tâm Đắc còn có bài viết Tính hỗn dung của người Việt thể hiện qua đối tượng thờ trong các ngôi chùa ở Hà Nội. Trong đó khẳng định chùa ở Việt Nam nói chung, ở Hà Nội nói riêng thờ cúng nhiều loại thần thánh từ nhiều tôn giáo, tín ngưỡng cùng với thờ Phật. Những đối tượng thờ cúng này thuộc nhiều nhóm khác nhau: thần nông nghiệp, thần của các tôn giáo khác, thờ Mẫu, thờ vong hồn, thờ người có công xây chùa... Trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, tác giả Bùi Trọng Hiền cũng có bài viết: Lan man về truyền thống hỗn dung tín ngưỡng của người Việt trong đó ít nhiều có đề cập đến sự dung hợp Phật giáo với các tôn giáo, tín ngưỡng thờ cúng khác ở Việt Nam. Liên quan đến chủ đề này, tác giả Đinh Thị Hà Giang có bài viết đăng trên Tạp chí Di sản văn hóa: Hỗn dung tôn giáo qua hiện tượng thờ Phật tại gia ở Việt Nam hiện nay, trong đó tác giả khẳng định: Hỗn dung tôn giáo hiểu một cách chung nhất chính là sự pha trộn của hai hay nhiều hệ thống tín ngưỡng với nhau trong cùng một hệ thống tín ngưỡng. Đây là vấn đề mang tính quy luật khách quan luôn xảy ra khi có nhiều tôn giáo, tín ngưỡng cùng tồn tại trong cùng một nền văn hóa. Trong văn hóa Việt Nam, đây là một đặc điểm quan trọng và đặc điểm này biểu hiện rõ nét nhất trong Phật giáo. 21
  27. 27. * Đánh giá chung Các công trình nghiên cứu trên đây, ở các góc độ khác nhau đều đề cập ít nhiều liên quan đến đề tài luận án. Phật giáo Hà Nội được đề cập đến trong nhiều tác phẩm của các tác giả, tuy nhiên chỉ là sự đề cập "thoáng qua" khi viết về Phật giáo Việt Nam nói chung, chỉ được đề cập cụ thể trong một số ít các công trình như cuốn Đời sống tín ngưỡng Thăng Long - Hà Nội của Đỗ Quang Hưng, bài Phật giáo Hà Nội - quá trình du nhập và phát triển của 2 tác giả Nguyễn Minh Ngọc và Minh Thiện,... Tuy nhiên, chưa có những đánh giá toàn diện về Phật giáo ở Hà Nội. Các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội có tương đối nhiều, tuy nhiên những nghiên cứu này thường thiên về sự mô tả từng loại hình tín ngưỡng. Còn viết trực tiếp về sự hội nhập (hay các vấn đề liên quan hỗn dung, dung hợp) giữa Phật giáo và các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống thì còn quá ít, vấn đề này chỉ được đề cập đan xen khi đề cập đến các vấn đề khác khi viết về Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là sự hội nhập cụ thể của Phật giáo với các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống cụ thể ở Hà Nội thì hầu như còn "trống vắng". * Những vấn đề, luận cứ, luận điểm được Luận án tiếp thu, kế thừa - Về mặt lý luận: Trước hết, từ những công trình đã công bố về Phật giáo Việt Nam nói chung, Phật giáo Hà Nội nói riêng, các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội; các công trình liên quan đến sự hội nhập tôn giáo, "hỗn dung" tôn giáo, dung hợp tôn giáo chúng tôi kế thừa những vấn đề lý luận của các nhà nghiên cứu đưa ra, đó là: Tôn giáo, tín ngưỡng là một hình thái ý thức xã hội vừa bị quy định bởi tồn tại xã hội, vừa chịu ảnh hưởng của các hình thái ý thức xã hội khác. Khi tồn tại xã hội thay đổi thì tín ngưỡng tôn giáo cũng thay đổi theo, "đáp ứng" nhu cầu của xã hội mà tồn tại, phát triển. Đó chính là cơ sở lý luận để chúng tôi triển khai vấn đề hội nhập Phật giáo và tín ngưỡng 22
  28. 28. thờ cúng truyền thống trên nền tảng những biến đổi, những "đòi hỏi" của điều kiện kinh tế xã hội Hà Nội hiện nay. Thứ hai, qua những tác phẩm, bài viết trên, các tác giả đã đưa ra khái niệm, định nghĩa, nội hàm của các vấn đề hội nhập, tín ngưỡng, tín ngưỡng truyền thống... Đó là những cơ sở lý luận, là công cụ giúp cho chúng tôi đi sâu nghiên cứu và triển khai Luận án - Về nội dung: Qua tổng quan những tác phẩm và bài viết về các vấn đề Phật giáo Việt Nam nói chung, Phật giáo Hà Nội nói riêng; Tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người Việt Nam nói chung, tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người Hà Nội nói riêng; ; các công trình liên quan đến sự hội nhập tôn giáo, "hỗn dung" tôn giáo, dung hợp tôn giáo giúp chúng tôi hiểu thêm về bản chất sự hội nhập, giao lưu, tiếp biến văn hóa nói chung, bởi sự hội nhập Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng truyền thống thực chất cũng chính là sự hội nhập văn hóa, ở đây là sự hội nhập của văn hóa ngoại lai (Phật giáo), văn hóa bản địa (các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống). Qua đọc các tác phẩm của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi cũng hiểu rằng, hội nhập Phật giáo và các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống là một quá trình đã bắt đầu từ rất lâu trong lịch sử, bởi từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã lựa chọn con đường dung hợp, chung sống hòa bình với các tín ngưỡng, tôn giáo khác ở Việt Nam. Sự kết hợp giữa Phật giáo và các tín ngưỡng, tôn giáo bản địa đã tạo ra ở Việt Nam một dòng Phật giáo dân gian hết sức độc đáo. Chính vì vậy, sự hội nhập hiện nay chỉ là sự tiếp nối quá trình đó, tuy nhiên nó có những đặc điểm riêng bị quy định bởi điều kiện hiện tại. Chính vì vậy, nghiên cứu sự hội nhập giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội hiện nay không tách rời quá trình đã diễn ra trước đó, mà phải coi nó là một phần nối tiếp của dòng chảy đó. 23
  29. 29. * Những vấn đề còn bỏ trống được Luận án nghiên cứu Có thể nói vấn đề hội nhập của Phật giáo với tín ngưỡng, tôn giáo bản địa được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến trong nhiều tác phẩm, ở nhiều góc độ khác nhau nhưng chủ yếu đề cập đến sự hội nhập này trong các thời kỳ trước đó và chủ yếu lấy Phật giáo là chủ thể, đề cập đến biểu hiện ở sự hội nhập ở bản thân Phật giáo (Phật giáo đã tiếp thu những yếu tố gì, thích ứng với tín ngưỡng bản địa ra sao...). Ở Luận án này chúng tôi chủ yếu khai thác sự hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống trong giai đoạn hiện nay, với những biến đổi mạnh mẽ của đời sống kinh tế, xã hội dẫn đến sự biến đổi trong đời sống tâm linh của người dân, vì thế sự hội nhập diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên nhiều phương diện khác nhau. Và chủ thể để xem xét biểu hiện sự hội nhập chúng tôi nghiên cứu chính là trong việc thực hành các nghi lễ thờ cúng của người dân. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực địa, chúng tôi chỉ ra những giá trị và các biện pháp bảo tồn giá trị văn hóa của sự hội nhập Phật giáo và các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống. Địa bàn khảo sát của chúng tôi là thành phố Hà Nội nhưng chủ yếu tập trung ở làng đô thị hóa, các chùa tiêu biểu. Nhìn chung các tác phẩm trên đây thuộc các chủ đề phân chia đều là những công trình nghiên cứu rất công phu về các mảng đề tài, tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu về sự hội nhập của Phật giáo đối với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi mà sự hội nhập diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên nhiều phương diện khác nhau. Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Sự hội nhập Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội hiện nay” là đề tài nghiên cứu, trước hết là để lấp một phần vào mảng nghiên cứu đang còn mỏng những công trình về sự hội nhập giữa tôn giáo với văn hóa bản địa nói chung và Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống 24
  30. 30. nói riêng. Để trên cơ sở đó có những đề xuất ý kiến về việc gìn giữ giá trị văn hóa của sự hội nhập một cách sát thực hơn. 1.3. Các khái niệm đƣợc dùng trong luận án - Hội nhập: Thuật ngữ này chính là thuật ngữ “Hội nhập quốc tế ” được nói ngắn gọn lại. Vì nó được dịch từ tiếng nước ngoài (Tiếng Anh: International integration, tiếng Pháp: Intégration internationale). Bởi vậy được hiểu: Là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. - Hội nhập tôn giáo và tín ngưỡng: Chính là sự hội nhập văn hóa – xã hội. - Hội nhập văn hóa – xã hội: Là quá trình mở cửa, trao đổi văn hóa với các nước khác; chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần với thế giới; tiếp thu các giá trị văn hóa tiến bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa dân tộc; tham gia vào các tổ chức hợp tác và phát triển văn hóa – giáo dục và xã hội khu vực và hợp tác chặt chẽ với các nước thành viên hướng tới xây dựng một cộng đồng văn hóa – xã hội rộng lớn hơn trên phạm vi khu vực và toàn cầu. - Giao lưu hội nhập văn hóa: Là quá trình tiếp xúc giữa hai nền văn hóa khác nhau, từ tiếp xúc đó dẫn đến sự thấu hiểu, gắn kết với nhau, đan xen, vay mượn các yếu tố của nhau để cùng hoàn thiện, phát triển - Tín ngưỡng: Theo từ nguyên học (tiếng Anh: belief / believe): Là tự do về ý thức (conscience), hay tự do về niềm tin tôn giáo (croyance religieuse). Nếu hiểu theo nghĩa thứ nhất thì tín ngưỡng bao trùm lên tôn giáo. Còn hiểu theo nghĩa thứ hai thì tín ngưỡng chỉ là một bộ phận quan trọng cấu thành tôn giáo. 25
  31. 31. - Tín ngưỡng theo nghĩa rộng: Là một thành tố của văn hóa tổ chức cộng đồng, thuộc phạm vi đời sống cá nhân, được hình thành tự phát, nhưng có vai trò rất quan trọng trong đời sống con người. - Tín ngưỡng theo nghĩa hẹp: Là sự tin tưởng, ngưỡng mộ và sùng bái 2 những thần thánh, vật thiêng hoặc linh hồn người chết do con người tưởng tượng ra hoặc do con người suy tôn, gán cho những phẩm chất siêu phàm. - Tín ngưỡng dân gian: Là loại hình tín ngưỡng do chính nhân dân – trước hết là những người lao động sáng tạo trên cơ sở những tri thức phản ánh sai lạc dưới dạng kinh nghiệm cảm tính từ cuộc sống thường nhật của bản thân mình. Theo X.A Tôcarep thì phân loại phải dựa trên cơ sở: 1) Đặc trưng và thực chất của tôn giáo, 2) Phải coi tôn giáo là một hiện tượng xã hội, 3) Tôn giáo mang tính lịch sử và tính kế tục lịch sử, 4) Tính tương quan giữa các hình thức tôn giáo tín ngưỡng. Và dựa theo tiêu chí này mà chúng tôi phân loại tín ngưỡng như sau: Thờ cúng tổ tiên (tô tem giáo) : gia đình - dòng họ, làng xã, quốc gia (Quốc tổ (vua Hùng), các anh hùng dân tộc (người có công với đất nước), Tứ bất tử. 2. Tín ngưỡng vòng đời: nghi lễ sinh đẻ, nghi lễ cưới xin, thờ thần bản mệnh, tang ma. 3. Tín ngưỡng nghề nghiệp: tín ngưỡng nông nghiệp, tín ngưỡng ngư dân, tín ngưỡng tổ nghề... 4. Tín ngưỡng thờ thần: Thổ địa, đạo Mẫu,... - Tôn giáo (Phật giáo): Là một hiện tượng xã hội, một thành tố văn hóa; nó chứa đựng nội dung phong phú về lịch sử, tư tưởng, triết học, đạo đức, văn 2 Nhà dân tộc học, tôn giáo học người Nga trong công trình “Các hình thái tôn giáo sơ khai và sự phát triển của chúng”, đã phê phán cách phân các loại tôn giáo trong lịch sử và hiện tại và ông đã đưa ra cách phân loại tôn giáo trên cơ sở hình thái học tôn giáo. 26
  32. 32. hóa, chính trị... Tôn giáo (Phật giáo) là một bộ phận của đời sống tinh thần của con người; là chất kết dính tập hợp con người trong một cộng đồng nhất định và phân rẽ với các cộng đồng khác. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo (Phật giáo) ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính trị, văn hóa, xã hội, tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán của nhiều dân tộc, quốc gia. - Thờ cúng: Là hành động dùng lễ vật, các động tác mang tính thành kính biểu hiện sự cung kính của mình với một đấng siêu nhiên. Bởi vì: + Thờ: Được hiểu là hành động biểu hiện sự sùng kính một đấng siêu nhiên như thần thánh,… Đồng thời thờ cũng được hiểu là một cách cư xử với bề trên cho phải đạo: như thờ cha mẹ, thờ thầy… + Cúng: Nghĩa là dâng lễ vật cho các đấng siêu nhiên, cho người đã khuất hay cho bản thân lễ vật đó. Cúng cũng có thể có ý nghĩa phi tôn giáo nhưng thờ cúng là thuật ngữ chỉ dùng riêng cho tôn giáo. - Truyền thống: Theo từ nguyên học (tiếng latin: tradition “hành vi lưu truyền”): Là quá trình chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác những yếu tố xã hội và văn hóa, những tư tưởng, chuẩn mực xã hội, phong tục, tập quán, nghi lễ và được duy trì trong các tầng lớp xã hội và giai cấp trong một thời gian dài. Truyền thống là cốt lõi, là bộ phận bền vững nhất của văn hóa tộc người. Truyền thống xấu có tác dụng duy trì chế độ xã hội và nền văn minh lỗi thời. Truyền thống tốt đẹp góp phần tích cực xây dựng xã hội mới, con người mới. Tuy nhiên, sự đối lập nói trên là tương đối. Trong quá trình phát triển của lịch sử, những truyền thống cũ không phù hợp với tình hình mới, mất dần, một số thay đổi hình dạng, những yếu tố mới nảy sinh và dần dần trở thành truyền thống. Tính bền vững của truyền thống cũng là tính tương đối. Dù sao nó cũng là bộ phận bất ổn định nhất của văn hóa, làm cho văn hóa có tính kế thừa. 27
  33. 33. - Tín ngưỡng thờ cúng truyền thống: Là niềm tin, sự tôn thờ, kính trọng của con người với đối tượng có thực hoặc siêu nhiên đã có từ lâu, được truyền từ đời này sang đời khác, trở thành cái được lưu truyền, gìn giữ, trở thành cái chung để cố kết, phản ánh đời sống văn hóa, tinh thần của một cộng đồng dân cư. - Người dân Hà Nội: Là những người sinh sống và làm việc ở Hà Nội bất kể nguồn gốc họ được sinh ra ở đâu và thuộc tộc người (dân tộc) nào, chẳng hạn Việt, Tày, Nùng… - Hội nhập Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng truyền thống: Là quá trình tiếp xúc giữa nền văn hóa Phật giáo (Ấn Độ, Trung Quốc) và nền văn hóa tín ngưỡng (niềm tin được thể hiện trong thực hành nghi lễ) truyền thống (nối kết cộng đồng qua nhiều đời) của người dân Hà Nội (người đang sinh sống, làm ăn trên địa bàn Hà Nội). Qua đây nó đã vay mượn, thẩm thấu, gắn kết, đan xen vào nhau để cùng hoàn thiện, phát triển. - Tứ Bất Tử: Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, “Tứ Bất Tử” là bốn vị thần thánh đáng kính ở vùng đồng bằng sông Hồng, là: bà chúa Liễu Hạnh, Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử và Thánh Tản Viên (sẽ được đề cập rõ hơn ở phần sau). 28
  34. 34. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Xuân Mai (2007), Những biến đổi kinh tế - xã hội của hộ gia đình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 2. Toan Ánh (1992), Nếp cũ - Tín ngưỡng Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Toan Ánh (2012), Nếp cũ “Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua nếp cũ gia đình và Lễ - Tết - Hội Hè", Nxb Trẻ, Hà Nội. 4. Bách khoa thư Hà Nội (1999), Phần Tôn giáo Hà Nội, Nxb Từ điển Bách khoa, Bản in thử để trưng cầu ý kiến (Tài liệu tham khảo). 5. Đặng Văn Bài (2008), "Nhận diện để phát huy giá trị di sản văn hóa Phật giáo Việt Nam", Tạp chí Di sản văn hóa (2) (23), tr.7-12. 6. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội, Dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu lần thứ XVI Đảng bộ TP Hà Nội. 7. Ban chấp hành Đảng bộ phường Yên Phụ (2015), Lịch sử cách mạng phường Yên Phụ (1930 - 2013), Nxb Hà Nội. 8. Ban Tôn giáo Chính phủ (1992), Các văn bản của Nhà nước về hoạt động tôn giáo Tập 1 (Lưu hành nội bộ). 9. Nguyễn Chí Bền (chủ biên) (2010), Bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn hóa vật thể Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội. 10. Phan Kế Bính (2011), Việt Nam phong tục, Nxb Văn học. 11. Bộ Tư pháp (2001), Luật 28/2001/QH10 Di sản văn hóa. 12. Bộ Văn hóa - Thông tin (2001), Số 39/ 2001/ QĐ - BVHTT, Quyết định của Bộ trưởng Bộ văn hóa - Thông tin: Về việc ban hành Quy chế tổ chức lễ hội (ngày 23/ 8/ 2001), Hà Nội. 29
  35. 35. 13. Bộ kế hoạch và đầu tư, Tổng cục Thống kê (2014), Báo cáo Điều tra lao động việc làm, quý 2, Hà Nội. 14. Đoàn Minh Châu (1999), Nâng cao bản lĩnh văn hóa cho thanh niên Hà Nội trong bối cảnh giao lưu quốc tế hiện nay, Cung văn hóa thể thao thanh niên, Hà Nội. 15. Thích Thiện Châu (1996), Những lời Đức Phật dạy về hòa bình và giá trị con người, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam. 16. Chính phủ (2010), Nghị định 98/2010/NĐ-CP, Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của luật di sản văn hóa và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa, Hà Nội. 17. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (2002), Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 18. Cục Thống kê Thành phố Hà Nội (2015), Niên giám thống kê 2014, Hà Nội. 19. Lý Khắc Cung (2000), Hà Nội văn hóa và phong tục, Nxb Thanh Niên, Hà Nội. 20. Phan Đại Doãn (1986), "Vài nét về Phật giáo là làng xã", Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 21. Thích Thanh Duệ, Quảng Tuệ, Tuệ Nhã (1995), Dâng hương, tập tục và nghi lễ, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 22. Nguyễn Đăng Duy (1996), Văn hóa tâm linh người Việt miền Bắc, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 23. Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 30
  36. 36. 24. Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 25. Nguyễn Đăng Duy (2011), Văn hóa tâm linh, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 26. G. Dumoutier (1907), Các tục thờ cúng Việt Nam, bản đánh máy lưu tại Thư viện Viện Thông tin, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Ký hiệu 40749, Hà Nội. 27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 47, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 59, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 29. Đảng ủy Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân phường Nhật Tân (2004), Lịch sử cách mạng phường Nhật Tân, quận Tây Hồ - Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 30. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh (2008), Nhân học đại cương, Nxb Đại học Quốc gia TPHCM. 31. Lê Tâm Đắc, Tạ Quốc Khánh (2003), "Tính hỗn dung của người Việt thể hiện qua đối tượng thờ trong các ngôi chùa ở Hà Nội", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo (2), tr.9-15. 32. Nguyễn Đại Đồng (2012), Giáo hội Phật giáo Việt Nam từ Đại hội đến Đại hội (1981 - 2012), Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 33. Ngô Văn Giá (Chủ biên) (2007), Những biến đổi về giá trị văn hóa truyền thống ở các làng ven đô Hà Nội trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 34. Đinh Thị Hà Giang (2011), "Hỗn dung tôn giáo qua hiện tượng thờ Phật tại gia ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Di sản văn hóa, (số 1), (34), tr.54-56. 31
  37. 37. 35. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Thích Minh Quang dịch) (1994), Kinh Pháp cú thí dụ, Thành hội Phật giáo, Thành phố Hồ Chí Minh. 36. Trần Văn Giàu (1993), Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 37. Ngô Thị Hồng Hạnh (2000), Công tác quản lý di tích ở thủ đô Hà Nội trong thời gian qua. Di tích lịch sử - văn hóa Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 38. Lê Đức Hạnh (2005), "Một vài đóng góp của Phật giáo đối với văn hóa Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo (5), tr.16-25. 39. Hoàng Thị Hạnh (2009), "Tôn giáo trong đời sống và vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước Việt Nam", Tạp chí nghiên cứu tôn giáo (1), tr.19-25. 40. Mai Thanh Hải (2004), Địa chí tôn giáo - Lễ hội Việt Nam (đình, chùa, nhà thờ, đền, miếu, lễ hội, tu viện, am, điện, lăng tẩm), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 41. Trương Quang Hải (Chủ biên) (2010), Atlas Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 42. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam Tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 43. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 44. Nguyễn Duy Hinh, (2007), "Về hai đặc điểm của Phật giáo Việt Nam", Một số bài viết về tôn giáo học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 45. Nguyễn Duy Hinh, Lê Đức Hạnh (2011), Phật giáo trong văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội. 32
  38. 38. 46. Bùi Trọng Hiền (2012), "Lan man về truyền thống hỗn dung tín ngưỡng của người Việt", Tạp chí Văn hóa nghệ thuật (5), tr.6-11. 47. Hòa thượng Tuyên Hóa (giảng thuật) (Thích Thuận Châu dịch) (2006), Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Tập I, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 48. Học viện chính trị Quốc gia HCM (2001), Thực trạng nguyên nhân, xu hướng vận động của Phật giáo ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra cho công tác lãnh đạo quản lý, Hà Nội. 49. Tạ Chí Hồng (2004), Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong đời sống đạo đức của xã hội Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 50. Hội ngôn ngữ học Hà Nội (2010), Hà Nội những vấn đề ngôn ngữ văn hóa, Nxb Thời Đại, Hà Nội. 51. Nguyễn Thế Hùng (2004), "Đôi điều về tu bổ di tích tín ngưỡng - tôn giáo", Tạp chí Di sản văn hóa (6), tr. 62-65. 52. Đỗ Quang Hưng (2010), Đời sống tôn giáo tín ngưỡng Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 53. Phan Thị Mai Hương (chủ biên) (2010), Những biến đổi tâm lý của cư dân vùng ven đô trong quá trình đô thị hóa, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 54. Nguyễn Thừa Hỷ (2010), Kinh tế xã hội đô thị Hà Nội thế kỷ XVII, XVIII, XIX, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 55. Nguyễn Thừa Hỷ (2012), Văn hóa Việt Nam truyền thống một góc nhìn, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội. 56. Vũ ngọc Khánh (1986), "Phật giáo và văn hóa dân gian Việt Nam", Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 33
  39. 39. 57. Vũ Ngọc Khánh, Ngô Đức Thịnh (1990), Tứ Bất Tử, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 58. Phạm Bá Khiêm (biên soạn và giới thiệu) (2013), Đền Hùng và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 59. Vũ Khiêu (chủ biên) (2010), Văn hiến Thăng Long, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 60. Khoa Lịch sử (2006), Làng Việt Nam đa nguyên và chặt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 61. Đặng Thị Lan (2006), Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 62. Nguyễn Lang (2008), Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập I, Nxb Văn học, Hà Nội. 63. Nguyễn Lang (2008), Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập II, Nxb Văn học, Hà Nội. 64. Nguyễn Lang (2008), Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập III, Nxb Văn học, Hà Nội. 65. Nguyễn Đình Lâm (2013), Âm nhạc trong Nghi lễ Phật giáo ở Hà Nội, Luận án Tiến sĩ Tôn giáo học, Học viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. 66. Cao Ngọc Lân, Vũ Cao Minh (2011), Văn hóa Phật giáo trong lòng người Việt, Nxb Lao động, Hà Nội. 67. Phan Huy Lê (chủ biên) (2010), Lịch sử Thăng Long Hà Nội , Tập I, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 68. Nguyễn Thế Long, Phạm Mai Hùng (2005), Đình và Đền Hà Nội, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 69. Nguyễn Thế Long, Phạm Mai Hùng (2005), Chùa Hà Nội, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 34
  40. 40. 70. Nguyễn Thế Long (2006), Truyền thống đạo đức, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 71. Hồ Quang Lợi (2014), Hà Nội cuộc kiến tạo mang hưng khí thời đại, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 72. Trịnh Duy Luân (2000), Hà Nội: một số biến đổi trong đời sống và diện mạo đô thị hiện nay, trong nơi ở và cuộc sống của cư dân Hà Nội, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 73. Nguyễn Đức Lữ (2009), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội. 74. Nguyễn Đức Lữ (2011), Tìm hiểu về tôn giáo và chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội. 75. Lê Cẩm Ly (2003), "Về nghi thức tang ma của người Việt ở làng Xuân Tảo, xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm", Tạp chí Văn hóa dân gian (6), tr. 57- 62. 76. C. Mác và Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 21, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 77. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 78. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 79. Phan Ngọc (2004), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 80. Hữu Ngọc (2010), Chân dung Hà Nội truyền thống, thành phố Rồng nghìn tuổi, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 81. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên) (2010), Tư liệu văn hiến Thăng Long - Hà Nội: Tuyển tập văn kiện lịch sử, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 82. Nguyễn Minh Ngọc, Minh Thiện (2004), “Phật giáo Hà Nội - quá trình du nhập và phát triển”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học (1), tr. 50-53. 35
  41. 41. 83. Trần Đức Ngôn (2005), Văn hóa truyền thống ngoại thành Hà Nội dưới tác động của kinh tế thị trường, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 84. Nhiều tác giả (2008), Sự biến đổi của tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay, Nxb Thế giới, Hà Nội. 85. Nhiều tác giả (2010), Thăng Long - Hà Nội: Tuyển tập công trình nghiên cứu Lịch sử, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 86. Nhiều tác giả (2005), Phật giáo trong thời đại chúng ta, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 87. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (2003), Luật di sản văn hóa và văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 88. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (2002), Hiến pháp nước CHXHCNVN năm 1992 (sửa đổi), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 89. Nhà xuất bản Khoa học xã hội (2008), Phật giáo với văn hóa xã hội Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 90. Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc (2003), Tập tục cúng gia tiên, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 91. Nhà xuất bản Văn học (2009), Đại Việt Sử ký toàn thư, Toàn tập, Nxb Văn học, Hà Nội. 92. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin (2013), Luật thủ đô và những quy định mới về công tác quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực tại thành phố Hà Nội, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 93. Nhà xuất bản Từ Điển Bách Khoa (2002), Từ điển Tôn giáo, Nxb Từ Điển Bách Khoa, Hà Nội. 94. Trần Thị Kim Oanh (2012), "Vị thế của Phật giáo trong văn hóa Việt Nam", Kỷ yếu hội thảo Kỷ niệm 30 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 36
  42. 42. 95. Trần Thị Kim Oanh (2013), "Chức năng xã hội của tôn giáo – nhìn từ góc độ triết học”, Tạp chí Triết học (1), tr.41-49. 96. Phạm Lan Oanh (2003), "Vài nét về nhu cầu lễ hội ở Thăng Long - Hà Nội", Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (10), tr.9-13. 97. Nguyễn Vinh Phúc (2000), Hà Nội phong tục, văn chương, Nxb Trẻ, Hà Nội. 98. Nguyễn Vinh Phúc (2005), Hà Nội cõi đất con người, Nxb Thế giới, Hà Nội. 99. Nguyễn Vinh Phúc, Nguyễn Duy Hinh (2009), Các Thành hoàng và tín ngưỡng Thăng Long - Hà Nội, Nxb Lao động, Hà Nội. 100. Lê Văn Quán (2007), Văn hóa ứng xử truyền thống của người Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 101. Hồng Quang (2011), Bộ sách Phật học ứng dụng 2, Nxb Phương Đông, Hà Nội. 102. Văn Quảng (2009), Văn hóa tâm linh Thăng Long Hà Nội, Nxb Lao động, Hà Nội. 103. Nguyễn Duy Quý (2008), "Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Triết học (3), tr.12-17. 104. Sở văn hóa thông tin Hà Nội (1993), Lễ hội Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 105. Nguyễn Kim Sơn (Chủ biên) (2014), Hà Nội thủ đô anh hùng, Thành phố vì hòa bình, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 106. Nguyễn Đức Sự, Lê Tâm Đắc (2010), Mấy vấn đề về Phật giáo trong lịch sử Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 107. Hà Văn Tăng, Trương Thìn (1999), Tín ngưỡng mê tín, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 37
  43. 43. 108. Hà Văn Tấn (2005), Đến với lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn, 109. Lê Mạnh Thát (2001), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tập I, Nxb TP. Hồ Chí Minh. 110. Lê Mạnh Thát (2001), Lịch sử Phật giáo Việt Nam Tập II, Nxb TP. Hồ Chí Minh. 111. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên, 2001), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 112. Ngô Đức Thịnh (2004), Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 113. Ngô Đức Thịnh (2006), "Bốn luận điểm phương pháp luận trong nghiên cứu Thăng Long - Hà Nội", Văn hoá, văn hoá tộc người, văn hoá Việt nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 114. Ngô Đức Thịnh (2007), "Lý thuyết "trung tâm và ngoại vi" trong nghiên cứu không gian văn hóa", Tạp chí Văn hoá dân gian (1), tr3-9. 115. Ngô Đức Thịnh (chủ nhiệm), Đỗ Quang Hưng, Nguyễn Thị Yên, Trần Thị Lan, Nguyễn Phương Hà (bản thảo) (2008), Tôn giáo tín ngưỡng, lễ hội và phong tục Thăng Long - Hà Nội, Hà Nội. 116. Hồ Đức Thọ (2002), Nghi lễ thờ cúng truyền thống, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 117. Đỗ Thị Minh Thúy (2010), Tín ngưỡng dân gian Hà Nội trong đời sống văn hóa đô thị hiện nay, Nxb Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội. 118. Nguyễn Tài Thư (Chủ biên) (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 119. Nguyễn Tài Thư (1993), "Phật giáo và sự hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết học (4), tr. 48-53. 38
  44. 44. 120. Nguyễn Tài Thư (Chủ biên) (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 121. Lưu Minh Trị (2000), Tiềm năng và giá trị lịch sử Thăng Long – Hà Nội ngàn năm, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 122. Lưu Minh Trị (2002), Tìm trong di sản văn hóa Việt Nam Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 123. Phan Nhật Trinh (2011), Sự dung hợp Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Viêt, Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội. 124. Trung tâm Bảo tồn di sản văn hóa Tôn giáo (2012), Kỷ yếu tọa đàm khoa học Một số vấn đề văn hóa tôn giáo và tư vấn bảo tồn di sản văn hóa tôn giáo trong giai đoạn hiện nay, Nxb Thời Đại, Hà Nội. 125. Trung tâm Bảo tồn di sản văn hóa tôn giáo (2014), Kỷ yếu Tọa đàm khoa học Vu Lan - báo hiếu của đạo Phật với xã hội Việt Nam hiện nay, Hà Nội. 126. Nguyễn Quốc Tuấn (1999), "Mối quan hệ giữa văn hóa dân tộc và tôn giáo ngoại sinh", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo (1), tr. 47-53. 127. Nguyễn Quốc Tuấn (2008), Vai trò của Phật giáo Việt Nam đối với sự phát triển bền vững của đất nước, Tham luận tại Hội thảo Vesak 128. Lê Hữu Tuấn (1998), "Ảnh hưởng của Phật giáo đối với tư duy của người Việt trong lịch sử", Tạp chí Triết học (6), tr 36-38. 129. Vũ Quốc Tuấn (2010), Làng nghề, phố nghề Thăng Long - Hà Nội trên đường phát triển, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 39
  45. 45. 130. Victor Turner (2006), "Biểu tượng trong nghi lễ của người Ndembu", Những vấn đề Nhân học Tôn giáo, Nxb Tạp chí Xưa & Nay Đà Nẵng, Đà Nẵng. 131. Thích Thanh Tứ (2006), "Phật giáo Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, Xây dựng và bảo vệ tổ quốc", Tạp chí Nghiên cứu Phật học (3), tr.3-12. 132. Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội, sở Khoa học Công nghệ và Môi trường, Trung tâm điều tra cơ bản (2001), Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu, điều tra quá trình đô thị hóa từ làng - xã thành phường của Hà Nội, những tồn tại và giải pháp khắc phục, Quyển I, Hà Nội. 133. Ủy ban nhân dân Quận Cầu Giấy (2007), Di tích lịch sử quận Cầu Giấy Hà Nội, Hà Nội. 134. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội, Sở Tư pháp (2013), Luật Thủ Đô, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 135. Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội (2015), Báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2015, Hà Nội. 136. Ủy ban quốc gia về thập kỷ thế giới phát triển văn hóa (1992), Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Hà Nội. 137. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 138. Nguyễn Thị Ngọc Vân (2010), Hà Nội qua số liệu thống kê 1945 - 2008, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 139. Nguyễn Thị Ngọc Vân (Chủ biên) (2010), Hà Nội qua số liệu thống kê, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 40
  46. 46. 140. Viện khoa học xã hội việt nam, Viện thông tin Khoa học xã hội (2004), Tôn giáo và đời sống hiện đại , Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 141. Viện Xã hội học (2000), Kết quả xử lý số liệu phỏng vấn hộ gia đình phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, bản đánh máy, Thư viện Viện Xã hội học, Hà Nội. 142. Viện Xã hội học (2000), Đề tài "Nghiên cứu quá trình đô thị hóa từ làng - xã thành phường của Hà Nội", bản đánh máy, Thư viện Viện Xã hội học, Hà Nội. 143. Lạc Việt (2009), Chùa Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 144. Lê Trung Vũ (2000), Biểu hiện của mê tín thông qua sinh hoạt tôn giáo. Vai trò của tôn giáo trong xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thủ đô, Đề tài 01X - 12/7/2000, Hà Nội. 145. Lê Trung Vũ, Nguyễn Hồng Dương, Lê Hồng Lý (2007), Nghi lễ vòng đời người, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 146. Lê Trung Vũ (2010), Lễ hội Thăng Long, Nxb Thanh Niên, Hà Nội. 147. Nguyễn Hữu Vui (1994) (đồng tác giả), Những vấn đề tôn giáo hiện nay, Nxb Khoa học Xã hội. 148. Nguyễn Hữu Vui (1994), "Tôn giáo và đạo đức", Những vấn đề tôn giáo hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 149. Nguyễn Hữu Vui (1995), "Thử cắt nghĩa hiện tượng tôn giáo và tín ngưỡng có chiều gia tăng hiện nay", Tạp chí Khoa học (1), Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.37-42. 41
  47. 47. 150. Trần Quốc Vượng (1986), "Mấy ý kiến về Phật giáo và văn hóa dân tộc", Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 151. Trần Quốc Vượng (Chủ biên) (2002), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 152. Trần Quốc Vượng (2005), Hà Nội như tôi hiểu, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 153. Trần Quốc Vượng (2006), Thăng Long - Hà Nội, tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội. 154. Trần Quốc Vượng (2014), Văn hóa Việt Nam, Nxb Thời Đại và Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội. 155. Lý Tế Xuyên (1972), Việt điện u linh, Nxb Văn học, Hà Nội. 156. Trần Thị Hồng Yến (2008), "Biến đổi môi trường sống dưới tác động của đô thị hóa (trường hợp làng Trung Kính Thượng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy", Tạp chí Dân tộc học (6), tr.30-38. 157. Trần Thị Hồng Yến (2013), Biến đổi về xã hội và văn hóa ở các làng quê trong quá trình đô thị hóa tại Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 42

×