30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
Factoring
1. Factoring - cứu tinh cho
những khoản nợ khó đòi!
Trần Phương Minh
Trong thời đại ngày nay, kinh doanh ngày một phát triển kéo theo sự đa
dạng cũng như mức độ phức tạp của mối quan hệ chủ ngân hàng - người
vay nợ. Không một doanh nghiệp nào tránh khỏi những khoản nợ phát sinh,
và điều này đã trở thành một yếu tố tất nhiên trong các hoạt động kinh
doanh thường nhật của doanh nghiệp.
Các công ty có thể vay vốn từ nhiều nguồn khác nhau để phục vụ cho hoạt động kinh
doanh của mình, nhưng cùng lúc đó, tình trạng nợ khó đòi đã trở thành một vấn đề nhức
nhối đối với nhiều doanh nghiệp chủ nợ. Nhiều công ty đang phải đối mặt với mức độ rủi
ro tín dụng rất cao, trong đó rủi ro về tổn thất nợ khó đòi là một trong những nhân tố cần
được kiểm soát chặt chẽ. Không ít trường hợp, tổn thất do các khoản nợ bị "ngâm" của
các công ty liên tục gia tăng, làm suy giảm năng lực cạnh tranh, thậm chí dẫn tới nguy cơ
phá sản.
Nhưng khó khăn nào cũng sẽ có lối thoát. Trong bối cảnh rắc rối này, hoạt động mua bán
nợ (factoring) trở thành vị cứu tinh khi nó có thể giải quyết được tình trạng bế tắc về nợ
nần, giúp công ty chủ nợ thu hồi vốn để hoạt động. Đối với các công ty hoạt động thường
xuyên phát sinh nợ dài ngày, giải pháp mua, bán nợ là không thể thiếu. Tại Mỹ và châu
Âu, các công ty kinh doanh chuyên mua bán nợ được hình thành từ khá sớm và tích lũy
được nhiều kinh nghiệm trong quản lý nợ khó đòi của các công ty. Họ tạo ra một thị
trường nợ rất sôi động có thể mang lại nhiều lợi nhuận, đồng thời cung cấp nhiều giải
pháp chuyên môn hoá cho cả chủ nợ lẫn khách nợ.
Không chỉ có vậy, hoạt động mua bán nợ còn trợ giúp cho những công ty mới thành lập
khỏi e ngại khi tiếp cận với các nguồn vốn vay phục vụ hoạt động kinh doanh ban đầu.
Vậy hoạt động mua bán nợ (factoring) là gì?
Từ “factor” bắt nguồn từ “factare” trong tiếng Latinh, có nghĩa là “thực hiện” hay “làm”.
Công cụ tài chính này xuất hiện từ thế kỷ 18 trước Công nguyên ở Babilonia dưới thời
vua Hammurabi và là một phần của những giao dịch mua bán vải vóc trên con đường tơ
lụa năm xưa. Khái niệm factoring phát triển liên tục và ngày nay đã trở nên quen thuộc
trong kinh doanh, thương mại, tài chính ngân hàng hay xuất nhập khẩu.
Theo Từ điển kinh tế (Dictionary of Economic – Christopher Pass & Bryan Lones),
“Factoring là một sự dàn xếp tài chính, qua đó một công ty tài chính chuyên nghiệp
(công ty mua nợ - factor firm) mua lại các khoản nợ của một công ty với số tiền ít hơn
giá trị của khoản nợ đó. Lợi nhuận phát sinh từ sự chênh lệch giữa tiền thu được của số
nợ đã mua và giá mua thực tế của món nợ đó. Lợi ích của công ty bán nợ là nhận được
tiền ngay thay vì phải chờ đến lúc con nợ trả nợ, hơn nữa lại tránh được những phiền
toái và các chi phí trong việc theo đuổi các con nợ chậm trả”.
1
2. Còn theo Từ điển thuật ngữ Ngân hàng – Hans Klaus thì “factoring là một loại hình
tài trợ dưới dạng tín dụng chuyển nhượng nợ. Một công ty chuyển toàn bộ hay một phần
khoản nợ cho một công ty tài chính chuyên nghiệp (công ty mua nợ, thông thường là một
công ty trực thuộc ngân hàng). Công ty này đảm nhận việc thu các khoản nợ và theo dõi
các khoản phải thu để hưởng thủ tục phí và có lúc ứng trước các khoản nợ. Thông
thường công ty mua nợ phải chịu rủi ro mất khả năng thanh toán của món nợ”.
Tiến sĩ kinh tế Edward W. Reed và Edward K. Gill cho rằng: “Factoring là việc mua lại
các khoản nợ. Các công ty mua nợ mua các khoản nợ của khách hàng trên cơ sở không
truy đòi và tiến hành một số các dịch vụ khác ngoài việc ứng trước các khoản nợ. Công
ty mua nợ đánh giá mức tín dụng trong hiện tại và tương lai của khách hàng (người bán)
và xác lập các hạn mức tín dụng ứng trước. Các khách hàng được yêu cầu gửi trực tiếp
cho công ty mua nợ bản sao hoá đơn. Khoản ứng trước thường từ 80% - 90% trị giá hoá
đơn. Khoản dự trữ 10% - 20% được công ty mua nợ giữ lại để phòng ngừa hàng trả lại,
hàng giao thiếu, hoặc các yêu cầu khác của người mua. Thường thường vào cuối tháng,
công ty mua nợ tính toán mức phí thu được trên số dư trên các khoản nợ chưa thu và cấp
thêm vốn cho khách hàng”.
Qua các khái niệm về factoring trên đây, chúng ta có thể hiểu factoring là việc chuyển nợ
của người mua hàng (con nợ) từ người bán hay cung ứng dịch vụ (chủ nợ cũ) sang công
ty mua nợ (chủ nợ mới). Công ty mua nợ đảm bảo việc thu nợ, tránh các rủi ro về không
trả nợ hoặc không có khả năng trả nợ của người mua. Công ty mua nợ có thể trả trước
thời hạn toàn bộ hay một phần các khoản nợ của người mua cùng với một khoản hoa
hồng tài trợ và phí thu nợ. Mọi rủi ro không thu được đều do người tài trợ gánh chịu.
Từ đó hình thành một quan hệ tài chính liên quan tới ba bên gồm công ty mua nợ (ngân
hàng, tổ chức tài chính), người bán hàng hoá hay cung ứng dịch vụ và người mua hàng
hoá hay nhận dịch vụ. Ngoài ra, nghiệp vụ factoring có thể "biến hoá" thành một số dịch
vụ phụ như quản lý tài khoản phải thu của khách hàng, cung cấp các thông tin kinh tế,
tiền tệ, tín dụng và thương mại nhằm tăng thu và giữ tốt mối quan hệ bạn hàng lâu dài.
Sở dĩ nghiệp vụ mua bán nợ được nhiều công ty trên thế giới áp dụng bởi lẽ thông qua
nghiệp vụ này, hoạt động tài chính trong kinh doanh được đa dạng hơn do có nhiều sản
phẩm và dịch vụ hơn. Cụ thể với nghiệp vụ factoring, trên thị trường sẽ có nhiều loại
hình dịch vụ mới:
Tránh rủi ro tài chính
Một trong những nguyên nhân chính gây nên tình trạng phá sản ở phần lớn các công ty là
việc bị chiếm dụng vốn do khách hàng không thanh toán các khoản nợ. Do đó, việc quản
lý rủi ro các khoản nợ không có khả năng thanh toán của khách hàng trong tín dụng
thương mại là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các công ty. Và rủi ro này
công ty có thể tránh được khi bán các khoản nợ của mình cho một công ty chuyên biệt
chuyên mua các khoản nợ - đó là các công ty mua nợ. Chính các công ty này với nghiệp
vụ kinh doanh chuyên nghiệp của mình có thể mua lại các khoản nợ, bù lại họ sẽ được
hưởng lợi nhuận từ việc mua các khoản nợ thấp hơn giá trị thực của các khoản nợ đó.
Trợ giúp quản lý tài chính
2
3. Với đặc thù là công ty tài chính chuyên biệt, các công ty mua bán nợ đã mang lại một giải
pháp toàn diện cho việc quản lý tài khoản vãng lai cho nhiều công ty khách hàng: một
mặt, đơn giản hoá hoạt động kế toán của công ty, mặt khác, bảo đảm thu nợ và xác định
các khoản thanh toán cho khách hàng. Ngoài ra, công ty mua nợ sẽ cung cấp những nhận
định phân tích một cách toàn diện cũng như xác định những bất thường, từ đó đưa ra
khuyến cáo cho khách hàng. Khi đó, công việc của công ty mua nợ là theo dõi các khoản
kỳ hạn thanh toán, kiểm tra các quy định thanh toán, nhắc nhở qua điện thoại, điện tín và
cuối cùng là quản lý các khoản nợ khó đòi. Với hệ thống kỹ thuật hiện đại, các công ty
mua nợ sẽ thực hiện việc nhắc nhở các khoản nợ qua các thư nhắc nhở tự động, hoặc hệ
thống nhắc nhở tự động qua điện thoại. Nhờ thế, công ty đã rút ngắn dần những khoản nợ
chậm trả và tạo thói quen cho người mua hàng thanh toán đúng hạn.
Tạo vốn trong kinh doanh
Điều này có nghĩa là công ty mua nợ sẽ trả tiền ngay tức thì khi chuyển quyền sở hữu các
hoá đơn. Những khoản tài trợ này là khoản không thể truy đòi. Bởi lẽ khoản tiền công ty
mua nợ chuyển cho khách hàng không phải là các khoản ứng trước đơn thuần mà là
khoản bán hết món nợ đó cho công ty mua nợ và khách hàng không phải hoàn lại cho
công ty mua nợ nếu người mua không có khả năng thanh toán. Thông qua hình thức này,
nhiều công ty không những giải phóng được các khoản nợ khó đòi mà còn có thêm nguốn
vốn tái đầu tư cũng như sử dụng vốn có hiệu quả hơn từ việc bán các hoá
đơn.
Ngoài những lợi ích phong phú mà factoring đem lại, có rất, rất nhiều lý do
để các doanh nghiệp quan tâm đến dịch vụ này: tận dụng khả năng chuyên
môn của các công ty factoring để đem lại lợi ích cho mình, hay sẽ có nhiều
sự lựa chọn phương pháp thanh toán sớm hơn cho các nhà cung cấp hàng hoá (đặc biệt là
trong xuất nhập khẩu, từ đó nhanh chóng có nguồn vốn tái đầu tư để không bỏ lỡ những
cơ hội kinh doanh mới.
Kể từ khi các công ty mua bán nợ có những đánh giá chuẩn xác về mức độ rủi ro tín
dụng, đồng thời sẵn sàng mua lại các khoản nợ với giá chiết khấu không cao (khoảng
10% đến 20% khoản nợ), rất nhiều công ty đã để mắt tới dịch vụ này. Không những vậy,
có nhiều khách hàng còn sẵn sàng trả phí để nhờ các công ty factoring điều tra và cung
cấp thông tin nhằm đảm bảo quản lý tín dụng một cách hiệu quả nhất, từ đó tăng vòng
luân chuyển vốn cũng như hạn chế rủi ro tài chính.
Điều cốt lõi của nghiệp vụ factoring là tạo ra lòng tin về khả năng thanh toán nợ của
nhiều công ty cho vay, nhờ vậy, các công ty này sẽ yên tâm và tập trung vào công việc
kinh doanh của mình để đẩy mạnh doanh thu và lợi nhuận. Không quan tâm đến mọi diễn
tiến xung quanh (thậm chí cả trong trường hợp phá sản), với factoring, những khoản tiền
mặt “nóng” sẽ luôn sẵn sàng. Ngoài ra, factoring không chỉ là sự lựa chọn cho những
khoản nợ khó đòi, việc sử dụng dịch vụ này còn có thể đẩy nhanh những khoản thanh
toán từ khách hàng mua hàng trả chậm.
Dịch vụ của các công ty factoring không giống nhau mà có thể có những khác biệt về
điều khoản, điều kiện mua bán nơ cũng như tỷ lệ chiết khấu tuỳ theo nhu cầu của khách
hàng, con số nợ nần, khả năng thu hồi nợ…
3
4. Factoring và các ngân hàng
Nhiều ngân hàng đã vận dụng factoring như một trong những hoạt động kinh doanh
chính của mình. Với dịch vụ factoring, các ngân hàng lớn trên thế giới nhận thấy có thể
mở rộng mối liên hệ với khách hàng của họ trong một số ngành công nghiệp. Hơn nữa,
họ có thể tiến hành dịch vụ cho các ngân hàng đại lý có các khách hàng cần đến các dịch
vụ factoring.
Hiện nay, có không ít các ngân hàng thương mại đang duy trì hình thức cho vay chi phí
sản xuất hàng hoá hoặc thu mua hàng và cho vay luân chuyển hàng hoá. Cho vay như thế
đưa đến việc doanh nghiệp sẽ ỷ lại vào vốn tín dụng của ngân hàng thương mại. Do vậy,
việc cho vay chi phí sản xuất và cho vay luân chuyển hàng hoá sẽ khiến ngân hàng
thương mại chịu rủi ro cùng doanh nghiệp: một khi hàng hoá không tiêu thụ được, khoản
nợ sẽ rất khó thu hồi. Trong khi đó, sử dụng dịch vụ factoring, các ngân hàng thương mại
cung ứng vốn cho doanh nghiệp tiếp tục chu kỳ sản xuất sau, nhưng ngân hàng thương
mại ấy thu nợ bằng tiền hàng hoá bán chịu của chu kỳ sản xuất trước nên mức độ rủi ro ít
hơn. Nhờ vậy, dịch vụ factoring còn giúp doanh nghiệp không lâm vào cảnh nợ nần dây
dưa, khó đòi.
Bên cạnh việc các ngân hàng mở dịch vụ chiết khấu thương phiếu đối với hàng hoá tiêu
thụ thì dịch vụ factoring khiến việc cung ứng vốn tín dụng của ngân hàng thương mại cho
các công ty trên thị trường được đơn giản hơn và an toàn hơn. Đồng thời, việc này còn
khuyến khích doanh nghiệp sản xuất hoặc thu mua hàng hoá bằng vốn tự có của mình.
Vốn tín dụng của chi nhánh ngân hàng thương mại chỉ là vốn bổ sung khi doanh nghiệp
bán hàng trả chậm.
Factoring và xuất khẩu
Có một thực tế hiển nhiên là cuộc cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu đang ngày càng
trở nên khắc nghiệt và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu luôn phải tìm mọi cách để nâng
cao khả năng cạnh tranh của mình. Một trong những yếu tố để cạnh tranh giữa các nhà
xuất khẩu là điều kiện thanh toán. Nếu như một doanh nghiệp có thể xuất khẩu với
phương thức thanh toán ghi sổ nợ (open account), thì chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ ký
thêm được nhiều hợp đồng. Tuy nhiên, nếu xuất khẩu với hình thức này thì rủi ro thanh
toán sẽ tăng lên. Vì vậy, doanh nghiệp chỉ dám chấp nhận phương thức này với những
khách hàng uy tín, lâu năm của mình mà thôi. Ngay cả khi được đảm bảo về rủi ro thanh
toán, doanh nghiệp vẫn bị khách hàng chiếm dụng vốn trong suốt thời gian chờ đợi.
Thiếu luồng tiền mặt mà lại không thể dễ dàng tiếp cận với vốn từ các nguồn truyền
thống (như tín dụng ngân hàng), doanh nghiệp sẽ gặp không ít khó khăn để duy trì sản
xuất.
Trong tình thế đó, factoring đã xuất hiện như một vị cứu tinh. Factoring được đánh giá là
một dịch vụ tài chính mới, chỉ với thủ tục rất đơn giản, có thể giúp doanh nghiệp vừa
xuất khẩu cho khách hàng theo điều kiện thanh toán ghi sổ, lại vừa thu được tiền mặt
ngay sau khi xuất hàng đi.
Với giới kinh doanh xuất nhập khẩu thì factoring được hiểu là dịch vụ mua bán các khoản
phải thu của khách hàng (purchase/sale of account receivables). Định nghĩa này xuất phát
từ thuật ngữ kế toán: khi xuất hàng bán cho khách hàng nhưng bên bán chưa nhận được
4
5. tiền hàng thì khoản tiền này được ghi vào tài khoản phải thu của khách hàng. Factoring là
dịch vụ mua các khoản tiền nằm trong tài khoản nói trên. Cơ chế của factoring trong xuất
nhập khẩu rất dễ hiểu. Nhà xuất khẩu ký hợp đồng dịch vụ với công ty factoring. Khi
hàng được giao đi cho khách hàng, nhà xuất khẩu gửi hoá đơn tới công ty factoring. Công
ty factoring sẽ ứng trước cho nhà xuất khẩu khoảng 80% giá trị của hoá đơn. Công ty
factoring sẽ thu tiền hàng từ nhà nhập khẩu. Sau khi thu được 100% tiền hàng, công ty
factoring sẽ thanh toán nốt 20% còn lại cho nhà xuất khẩu.
Với ý nghĩa là factoring nhằm bảo hiểm rủi ro thanh toán, chúng ta có hai loại factoring:
factoring truy đòi và factoring miễn truy đòi. Đối với factoring truy đòi, công ty factoring
có quyền đòi lại khoản tiền đã ứng trước cho nhà xuất khẩu nếu nhà nhập khẩu không
thanh toán. Với factoring miễn truy đòi, nếu nhà nhập khẩu mất khả năng chi trả, công ty
factoring có trách nhiệm thanh toán 100% giá trị hoá đơn cho nhà xuất khẩu.
Dịch vụ factoring trong xuất nhập khẩu đã được sử dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế
giới. Các nước trong khu vực cũng đã phát triển factoring như Trung quốc, Indonesia, Än
độ, Nhật bản, Malaysia, Hàn quốc, Singapore, Sri Lanka, Đài loan và Thái lan. Thật
không công bằng cho các nhà xuất khẩu Việt nam khi các đối thủ cạnh tranh của họ ở các
nước khác đang được hưỏng lợi thế từ dịch vụ này. Chỉ những năm gần đây, dịch vụ
factoring mới bắt đầu được đưa vào phục vụ các công ty xuất nhập khẩu Việt Nam.
“Thương trường như chiến trường”, để có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh
khốc liệt hiện nay, các doanh nghiệp ngoài nỗ lực tự thân còn rất cần đến sự trợ giúp
nhiều mặt của các ngân hàng cũng như các công ty đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực tài
chính tiền tệ. Điều đó đòi hỏi các công ty tài chính phải nhanh chóng nâng cao chất lượng
sản phẩm, dịch vụ và đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho
thanh toán thương mại. Nếu không, các doanh nghiệp khó tránh khỏi nguy cơ thiếu vốn
sản xuất, kinh doanh do vốn bị chiếm dụng, các nhà xuất khẩu khó tránh khỏi rủi ro trong
thanh toán, kéo theo gây tâm lý lo lắng, bất ổn cho doanh nghiệp nói riêng, cũng như kìm
hãm tốc độ phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung.. Để đạt mục tiêu đó, các công
ty tài chính không có con đường nào khác là phải nhanh chóng áp dụng nhiều nghiệp vụ
tài chính mới mà các công ty, tập đoàn trên thế giới đã áp dụng thành công. Và nghiệp vụ
factoring là một trong số đó.
(Tổng hợp)
5