xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ - HC.docx
1. 1
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
-Nguyễn Tuân-
NHÂN VẬT HUẤN CAO TRONG CẢNH CHO CHỮ
Văn học là tấm gương phản chiếu vẻ đẹp tâm hồn con người. Nhiệm vụ
của người nghệ sĩ chân chính là tìm kiếm vẻ đẹp ẩn tàn, khuất lấp giữa những nơi
tưởng chừng như xấu xa, dơ bẩn và không thể tồn tại cái đẹp. Với ngòi bút tài
hoa, uyên bác, nhà văn Nguyễn Tuân là cây đại thụ của nền văn xuôi hiện đại
Việt Nam, ông đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh “phát hiện cái đẹp ở chỗ không
ai ngờ tới” (Thạch Lam) qua tác phẩm “Chữ người tử tù”. Tại nơi tăm tối, nơi mà
cái ác ngự trị như ngục tù phong kiến, hình ảnh Huán Cao với nét đẹp tài hoa
cùng khí phách hiên ngang và nhân cách cao thượng vẫn bừng sáng rực rỡ. Vẻ
đẹp ấy hội tụ trong cảnh cho chữ - một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Truyện được viết trong thời kì đen tối, ngột ngạt của đất nước khi bị thực
dân Pháp xâm lược, dựa trên những câu chuyện mà Nguyễn Tuân nghe được từ
người cha kể lại – cụ tú Nguyễn An Lan về nhà nho tài hoa, người anh hùng Cao
Bá Quát – một con người cả đời chỉ biết cuối đầu trước cái đẹp “Nhất sinh đê thủ
bái mai hoa" và được in lần đầu trên tạp chí “Tao đàn” vào năm 1938 với nhan
đề “Dòng chữ cuối cùng”, sau đó được tuyển in trong tập truyện “Vang bóng một
thời” (1940) và đổi tên thành “Chữ người tử tù”. Đây được xem là tác phẩm xuất
sắc trong mảng sáng tác trước năm 1945 của Nguyễn Tuân. Thông qua việc xây
dựng hình tượng Huấn Cao trong cảnh cho chữ, nhà văn muốn thể hiện quan điểm
thẩm mĩ và bộc lộ tình yêu thầm kín đối với đất nước, quê hương.
Câu chuyện xoay quanh cuộc tri ngộ đặc biệt giữa Huấn Cao và viên quản
ngục. Trong đó, Huấn Cao là tử tù bị bắt vì tội cầm đầu bọn phản nghịch chống
lại Triều đình và bị tạm giam ở nhà lao tỉnh Sơn chờ ngày xử tử. Còn viên quản
ngục là cai ngục của nhà lao này, vốn là người si mê cái đẹp nên ông rất ngưỡng
mộ tài viết chữ đẹp của Huấn Cao. Trong những ngày Huấn Cao bị giam, ông có
ý biệt đãi nhưng bị Huấn Cao khinh bạc. Sau đó, vì hiểu được tấm lòng của viên
quản ngục nên Huấn Cao đã quyết định cho chữ. Thế là cảnh cho chữ “xưa nay
chưa từng có” đã diễn ra ngay tại nhà ngục này, trong đêm khuya trước khi Huấn
Cao bị hành hình. Đọc truyện, độc giả có thể thấy rõ vẻ đẹp của Huấn Cao được
khắc hoạ qua ba phương diện: tài hoa, khí phách và thiên lương, thể hiện trong
xuyên suốt mạch truyện qua nhiều phân đoạn khác nhau nhưng đến cảnh cho chữ,
ba vẻ đẹp ấy không còn xuất hiện riêng rẽ mà kết tinh với nhau để tạo nên thời
khắc đẹp nhất, tuyệt hảo nhất cuộc đời Huấn Cao.
Cho chữ là hành động sáng tạo nghệ thuật, nó thường diễn ra trong một
không gian nghệ thuật, là nơi có trăng thanh gió mát, sáng sủa và khoáng đạt,
đồng thời người cho chữ phải ở trong tâm thế thoải mái, tự do, phóng khoáng để
tạo nên những tác phẩm hoàn mĩ. Thế nhưng ở đây cảnh cho chữ lại diễn ra nơi
tử ngục, trong một “buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa
2. 2
bãi phân chuột, phân gián” và người cho chữ là Huấn Cao lại hiện lên trong tư
thế: “Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiền”. Dẫu Huấn Cao cho chữ tại
nơi ngục tù tối tăm, dơ bẩn lại bị trói buộc, giam cầm về thể xác và án tử đang
treo lơ lửng trên đầu nhưng nó vẫn không thể ngăn cản người nghệ sĩ tài ba “dậm
tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”. Cảm nhận hình ảnh Huấn
Cao, ta thấy rõ phong thái đàng hoàng, ung dung, tự tại. Đó là phong thái của
người nghệ sĩ thực thụ đang dồn tụ mọi tinh hoa để khai sinh nghệ thuật. Dù bị
thời gian thúc giục nhưng không vì thế mà cảnh cho chữ diễn ra một cách qua
loa, đại khái. Trái lại, Huấn Cao đã thực hiện tất cả nghi thức từ khâu nhỏ nhất
như “thay bút con”, “đề lạc khoản” một cách trọn vẹn và chu toàn. Vì vậy, mỗi
nét chữ được viết nên đều mang theo sự tỉ mỉ, khéo tay và tinh xảo của một nghệ
nhân thư pháp tài năng. Chính sự tài hoa của Huấn Cao đã xua tan cái không khí
tù túng và tối tăm, thay vào đó là sự thiêng liêng chưa từng có nơi tử ngục khiến
cho độc giả không khỏi mê mẩn, xuýt xoa. Bằng niềm say mê nghệ thuật bất tận,
Huấn Cao đã bỏ qua tất cả tác động về thời gian lẫn không gian và cả bản án để
dồn mọi tinh tuý cho cái đẹp. Không chỉ vậy, ông còn rung động trước mùi thơm
của mực viết: “thoi mực thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá”. Mùi mực thơm ấy
là chất xúc tác khiến tâm hồn người nghệ sĩ thư pháp thăng hoa để khai sinh nên
cái đẹp toàn mĩ với sự toả sáng của “những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên hoài
bão tung hoành của cả cuộc đời con người”. Hoá ra tài hoa của Huấn Cao không
chỉ dừng lại ở việc viết chữ đẹp mà đó còn là vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài
năng, của một trang hào kiệt với khí thế bất phàm.
Cùng với tài hoa thì khí phách của Huấn Cao cũng được thể hiện nổi bật
trong cảnh cho chữ. Rõ ràng có một sự đổi ngôi kì lạ giữa hai nhân vật Huấn Cao
và quản ngục. Kẻ nắm trong tay quyền lực, là đại diện cho bộ máy cai trị của
Triều đình phong kiến như quản ngục lẽ ra phải ngẩng cao đầu thì lại trở nên sợ
sệt, cúi đầu “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh ô chữ đặt trên phiến lụa
ống”. Trong khi đó, kẻ tử tù đáng lý phải cúi mình trước sự áp chế lại hiện lên
trong tư thế đàng hoàng, ngạo nghễ. Sự đổi ngôi ấy một lần nữa khẳng định bản
lĩnh của người anh hùng hiên ngang, lấn át bọn giai cấp thống trị ở Huấn Cao.
Nhưng quan trọng nhất ở Huẫn Cao vẫn là vẻ đẹp của thiên lương và cái
tâm trong sáng. Huấn Cao không chỉ để lại cho quản ngục “những nét chữ vuông
tươi tắn” như một công trình nghệ thuật tuyệt mĩ mà còn để lại cho ông một lời
khuyên đầy ý nghĩa: “Tôi bảo thực đấy, thầy Quan nên tìm về nhà quê mà ở, thầy
hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó
giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả cái đời lương
thiện đi”. Cách đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy rồi mới khuyên đã thể
hiện rất rõ tấm lòng của Huấn Cao. Ông không còn xem quản ngục là kẻ đối địch
với bản thân trên bình diện xã hội, mà đối đãi với quản ngục như một người tri
âm, tri kỉ, vì nghệ thuật mà trở nên đồng điệu với nhau. Trên cương vị ấy, ông đã
thật lòng khuyên quản ngục nên thay đổi chỗ ở và đổi nghề để giữ lấy bản tính
thiện lương cho bền vững. Lời khuyên ấy khiến cho viên quản ngục thoát khỏi sự
3. 3
u mê và nhận ra con đường đúng đắn cho cuộc đời mình, vì vậy mà cảm động
“vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẻ miệng
làm cho nghẹn ngào” rằng “Kẻ mê mụi này xin bái lĩnh”. Bởi lẽ, đó là một lời
khuyên chí lí, chí tình và đầy sức cảm hoá xuất phát từ tấm chân tình của Huấn
Cao dành cho quản ngục. Có thể nói, thiên lương và cái tâm trong sáng của Huấn
Cao không chỉ mang vẻ đẹp toàn thiện mĩ mà nó còn có khả năng hướng thiện và
thanh lọc tâm hồn con người. Ẩu sâu trong lời khuyên ấy là một thông điệp nghệ
thuật sâu sắc mà Nguyễn Tuân muốn gửi gắm đến chúng ta, đó là “cái đẹp có thể
sản sinh ra từ một vùng đất chết nhưng nó không thể sống chung mãi cùng cái
xấu và cái ác. Muốn thưởng thức cái đẹp và nghệ thuật trước hết con người phải
giữ cái tâm trong sáng và tốt đẹp”.
Bằng bút pháp lí tưởng, ngôn ngữ trang trọng, giàu hình ảnh, nghệ thuật
tương phản đối lập cùng với tình huống truyện độc đáo đầy kịch tính, qua cảnh
cho chữ, Nguyễn Tuân đã ngợi ca vẻ đẹp nhân cách của Huấn Cao. Đó là vẻ đẹp
của người nghệ sĩ tài ba, một anh hùng có khí phách hiên ngang và một thiên
lương thanh khiết. Qua đó, nhà văn đã tô đậm sự thắng thế vươn lên của cái đẹp,
cái thiện với cái ác, cái xẫu xa và khẳng định sức mạnh bất tử của cái đẹp, cái
thiện, đồng thời bộc lộ thầm kín lòng yêu nước thiết tha, cháy bỏng của văn nhân.
Sau năm 1945, những sáng tác của ông không còn khắc hoạ nét đẹp vang bóng
một thời mà ông hướng ngòi bút của mình đến thực tại để khai thác vẻ đẹp của
những người dân bình dị, chẳng hạn như hình ảnh ông lái đò với nghệ thuật vượt
thác leo ghềnh trong tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”, qua đó bộc lộ trực tiếp tình
yêu đất nước, quê hương. Nhưng dù là trước hay sau năm 1945 thì hạt ngọc trong
văn chương của Nguyễn Tuân vẫn là vẻ đẹp chân-thiện-mĩ bởi ông là người nghệ
sĩ “suốt đời đi tìm cái đẹp”.
Đây là đoạn trích hay nhất của một áng văn trác tuyệt, gần đạt đến sự toàn
diện, toàn mĩ. Nó toả ra ánh hào quang rực rỡ, mang theo vẻ đẹp tuyệt diệu kết
tinh từ ngòi bút của người nghệ sĩ tài hoa. Nó đã khắc hoạ trọn vẹn vẻ đẹp nhân
cách hoàn hảo của nhân vật Huấn Cao và bộc lộ niềm cảm phục sâu sắc của tác
giả đối với những người anh hùng xả thân vì nghĩa lỡn, đồng thời thê hiện nhiều
điều về quan niệm thẩm mĩ của văn nhân. Cảnh cho chữ trong tác phẩm đã dấy
lên trong tôi bao cảm xúc mãnh liệt và khi gấp lại những trang văn, tôi vẫn sẽ cảm
nhận rõ từng mạch đời đập theo từng con chữ tựa mạch máu chảy dưới làn da.