Pedro Páramo là một cuốn tiểu thuyết lớn mang tính sáng tạo mạnh dạn và điển hình, một cuốn tiểu thuyết đòi hỏi một cảm quan mới và một lối viết thích hợp trong việc thể hiện sinh động và có hiệu lực cảm quan mới ấy, một cuốn tiểu thuyết từng là giấc mơ của Gabriel García Márquez.
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
Pedro paramo
1.
2.
3. PEDRO PÁRAMO ‹ 5
Lời giới thiệu
JUAN RULFO luôn luôn nói rằng ông không phải là
nhà văn chuyên nghiệp mà là một nhà văn nghiệp dư,
chỉ viết khi cảm hứng văn chương buộc mình phải viết.
Cho tới nay ông mới chỉ công bố hai tác phẩm: Bình
nguyên trong lửa (El Llano en llamas, tập truyện ngắn, in
năm 1953) và Pedro Páramo (tiểu thuyết, in năm 1955).
Ông chỉ có hai tác phẩm nhưng tiếng tăm của ông
đã lừng danh khắp thế giới. Tác phẩm của ông không
những được in rộng rãi trong các nước nói tiếng Tây
Ban Nha mà còn được dịch ra hầu khắp các thứ tiếng
quốc tế. Sự nghiệp văn học của ông có vị trí xứng đáng
trong văn học Mexico và văn học Mỹ Latinh hiện đại.
Juan Rulfo sinh năm 1916 tại bang Sayula, tỉnh
Jalisco và mất năm 1986 tại thủ đô Mexico. Tuổi niên
thiếu của ông trôi đi trên đất quê hương và ông theo
học bậc tiểu học ở trường làng. Cha mẹ ông, bị khánh
4. 6 › JUAN RULFO
kiệt trong thời kỳ cách mạng tư sản diễn ra ở Mexico, đã
chết khi ông còn nhỏ tuổi.
Người bà nuôi ông một số năm sau đó gởi ông vào
trại trẻ mồ côi bốn năm liền ở Guadalajara, thủ phủ
bang Jalisco. Đây là thời kỳ rất khủng khiếp mỗi khi
Juan Rulfo nhớ lại.
Tại thủ phủ bang, ông sáng tác một số truyện và
đượcđangtảitrêntờPan(Bánhmì)doJuanJoséArreola
và Antonio Alatorre lãnh đạo.
Vài lần thi cử vào đại học nhưng đều không đậu,
ông buộc phải đi làm để kiếm sống. Thoạt đầu ông vào
làm công ở văn phòng Bộ Di cư rồi sau đó ở Văn phòng
Định cư. Chính công việc này cho phép nhà văn có điều
kiện đi lại hầu khắp đất nước. Sau đó ông chuyển sang
làm việc ở bộ phận xuất bản của Viện Quốc gia Nghiên
cứu về người Anh-điêng. Ông được nhận học bổng của
Trung tâm Văn học Mexico.
Bên cạnh công việc sáng tác văn chương, Rulfo còn
làm một số công việc khác: Gần hai chục năm ông làm
công tác đạo diễn phim xung quanh các nhân vật của
ông và một số tác phẩm văn học của người khác như
tiểu thuyết Con gà vàng. Ông còn làm cả nghề chụp
ảnh. Trong các ảnh nghệ thuật của ông, người xem dễ
dàng nhận thấy những dư vị từng có trong các tác phẩm
văn chương của ông.
5. PEDRO PÁRAMO ‹ 7
Rulfo thường kể rằng ông sáng tác ngoài giờ làm việc
của nhà nước.
***
Năm 1948, ông viết truyện ngắn đầu tay: Macario,
sau này in trong tập Bình nguyên trong lửa. Như vậy
chúng ta thấy cuộc đời niên thiếu và thanh niên của nhà
văn trôi đi trong lúc đất nước Mexico đang trải qua giai
đoạn chót của cuộc cách mạng Mexico mà thực chất
của nó là cách mạng tư sản dân tộc theo hệ tư tưởng Ánh
sáng Pháp và là sự tranh giành quyền lãnh đạo giữa các
phe phái chính trị đại diện cho quyền lợi của giai cấp tư
sản và địa chủ. Nhà văn cũng đã lớn lên trong sự ngự trị
của tư trào văn học lúc đó được gọi là tiểu thuyết cách
mạng, vốn gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh giữa các
lực lượng cách mạng với lực lượng phản động và giữa
các phe phái chính trị kéo dài từ đầu thế kỷ cho đến đầu
chiến tranh thế giới lần thứ II. Tiểu thuyết cách mạng
là sản phẩm của các trí thức tham gia cuộc đấu tranh
đó, khi phe mình thất bại, họ lưu vong ra nước ngoài
hoặc lui về sống ẩn dật ở một làng quê hẻo lánh nào đó.
Trong lúc sống thanh lặng, họ hồi cố lại cuộc đời tham
gia chính sự của mình và viết lại quãng đời ấy. Do đó xét
về mặt hình thức mà nói, tiểu thuyết cách mạng Mexico
là những tập truyện phóng sự, những tập truyện - hồi
ký. Chúng không có nhân vật điển hình của văn chương
6. 8 › JUAN RULFO
mà chỉ có đám đông, sự kiện cùng những chính kiến
được nói toạc ra. Tuy nhiên, tư trào văn xuôi ấy cũng
đã để lại một số tác giả đáng lưu ý như Mariano Azuela
với tiểu thuyết Những người dưới đáy (Los de Abajo) và
José Rubén Romero với tiểu thuyết Cuộc đời vô dụng
của Pito Perez (La vida inútil de Pito Perez). Vào những
năm bốn mươi của thế kỷ 20, Mexico bước vào thời kỳ
tương đối ổn định về mặt chính trị và đất nước bước vào
thời kỳ phát triển công nghiệp, văn chương đòi hỏi phải
chuyển sang một hướng khác, phải kết thúc tư trào tiểu
thuyết cách mạng Mexico. Sáng tác của Agustín Yáñez
đã chứng tỏ điều đó.
Juan Rulfo, với những thành công trong việc sử
dụng ngôn ngữ dân gian của người nông dân Mexico
kết hợp với kỹ thuật tự sự nhiều người kể, cấu trúc nhiều
tầng trên cơ sở thời gian nhiều chiều trong Bình nguyên
trong lửa và Pedro Páramo đã mở một cánh cửa cho tiểu
thuyết Mexico hòa nhập vào dòng chính đầy sinh lực
của tiểu thuyết Mỹ Latinh sau chiến tranh thế giới lần
thứ II (1939 - 1945).
Như bạn đọc đã biết, năm 1949, nghĩa là trước khi
Pedro Páramo ra mắt bảy năm, nhà văn Cuba Alejo
Carpentier đã cho in Cõi thế tục này (El reino de este
mundo). Trong lời nói đầu của cuốn tiểu thuyết, ông
tuyên bố rằng: Lịch sử Mỹ Latinh là gì nếu không phải
là một cuốn biên niên sử về cái kỳ diệu. Sau đó, năm
7. PEDRO PÁRAMO ‹ 9
1958 ông cho in cuốn tiểu thuyết thứ hai của mình:
Những bước chân dò tìm (Los pasos perdidos). Cuốn
sách này đã khẳng định bước đường sáng tác của Alejo
Carpentier.Nhưvậychúngtathấyrằng,vềmặtlýthuyết
cũng như về mặt thực tiễn sáng tác, Alejo Carpentier là
một bằng chứng cho sự khởi xướng của châu lục.
Vì vậy, có thể nói rằng Juan Rulfo, mặc dù số lượng
tác phẩm để lại không nhiều lắm, đã có công đóng góp
rất đáng kể cho thành tựu của tiểu thuyết Mỹ Latinh
hôm nay và vị trí của ông trong nền văn học Mỹ Latinh
là không bác bỏ được.
Để làm sáng tỏ kết luận trên chúng ta hãy phân tích
tác phẩm Pedro Páramo: “Một cuốn tiểu thuyết mang
tính sáng tạo mạnh dạn và điển hình, một cuốn tiểu
thuyết đòi hỏi một cảm quan mới và một lối viết thích
hợp trong việc thể hiện sinh động và có hiệu lực cảm
quan mới ấy”, một cuốn tiểu thuyết từng là giấc mơ của
Gabriel García Márquez. Vì ông nói rằng: “Nếu tôi viết
được một cuốn tiểu thuyết như cuốn Pedro Páramo của
Juan Rulfo thì tôi cũng sẽ bẻ bút không viết nữa”.
Như tên gọi của nó, cuốn tiểu thuyết này dựng lại
cuộc đời tên địa chủ đại gian đại ác nhưng si tình tên
là Pedro Páramo từ những mẩu ký ức vương vãi trong
cõi hư vô. Trên thực tế Pedro Páramo đã chết rồi. Ở
điền trang Media Luna, làng Comala cũng chẳng còn ai
sống. Cuộc đời thực của y, từ hình dạng đến tâm tư của
8. 10 › JUAN RULFO
y, cùng với dân cư của hai làng ấy vĩnh viễn tan vào cõi
hư vô, cõi người chết, trở thành những ảo ảnh. Như vậy,
Juan Rulfo phải lấy ảo ảnh làm chất liệu cho cuốn tiểu
thuyết của mình. Những ảo ảnh này là hình bóng của
cái có thực, hay nói khác đi là cái có thực đã được thăng
hoa nhưng vẫn giữ được cái bản chất, cái tinh túy trong
lớp vỏ ảo ảnh của mình.
Khi tiếp xúc với Pedro Páramo, bạn đọc nhận thấy
tác phẩm như một bức tranh cần được ghép bởi những
phiến đoạn mà những phiến đoạn này là những đoạn
văn dài ngắn khác nhau: có khi dài năm bảy trang, có
khi dài không quá một trang. Mỗi đoạn văn ấy có khi là
một mẩu chuyện, có khi là những cuộc độc thoại hay
đối thoại. Chúng ta nhớ rằng cái làng mà Juan Preciado
đến để tìm cha mình là một địa ngục, một làng thuộc
cõi âm phủ. Bởi vì con đường từ Colima đến Comala là
một con đường dốc, càng đi xuống càng nóng và thiếu
không khí. Làng Comala là thế giới những bóng ma vì
tiếng nói, tiếng chó sủa, tiếng gió, tiếng ồn, tiếng động
là dư âm của cuộc sống trước đó vọng về, vì chúng chỉ
được cảm thấy mà không thể nghe thấy, chúng tựa như
nước từ trong các bức tường qua các khe hở, các kẽ nứt
mà chui ra.
Thoạt đầu chúng ta tiếp xúc với lời kể của Juan
Preciado. Anh ta kể lại lộ trình đi từ thành phố Colima
đến điền trang Media Luna là nơi Pedro Páramo sống.
Giữa đường anh ta gặp bà Eduviges (tại làng Comala).
9. PEDRO PÁRAMO ‹ 11
Bà này kể cho anh ta biết mẹ mình bị lão Pedro Páramo
lấy làm vợ, bị lão hành hạ và đuổi đi khỏi làng. Rồi từ
đấy anh được một bóng ma khác, bà Damiana, quản
gia của lão Pedro Páramo, dẫn về điền trang Media
Luna. Trên đường đi anh lại nghe thấy những cuộc đối
thoại. Đó là cuộc đối thoại giữa hai người nông dân
bị lão Pedro Páramo cướp mất ruộng đất, là cuộc đối
thoại của những phu đòn đi đưa đám Miguel, con trai
lão Pedro Páramo, là cuộc tình tự giữa một đôi trai gái.
Anh ta đến điền trang Media Luna, lạc vào nhà của anh
em Donis. Anh ta chết được chôn vào mồ của Dorotea,
một người đàn bà nghèo chuyên sống bằng của bố thí,
và anh ta chuyện trò với bà ta. Đến đây độc giả chợt
nhận ra những lời tự tường trình lại chuyến đi đến của
Preciado là dành cho Dorotea chứ không phải dành cho
chúng ta, những người đọc.
Cùng với lời kể chuyện của Juan Preciado, chúng ta
tiếp xúc với lời kể của người kể chuyện, luôn luôn ở ngôi
thứ ba, kể về cuộc đời của Pedro Páramo từ khi y còn là
một thanh niên choai choai, sống trong một gia đình
giàu có đã khánh kiệt sau khi người cha qua đời. Y ươn
lười nhưng xảo trá và sớm biết yêu. Y yêu say đắm một
người con gái tên là Susana. Rồi y trở thành một ông bố
đang đau khổ trước cái chết của Miguel con trai y.
Đến đây lời kể của người kể chuyện cùng hòa làm
một với cuộc nói chuyện giữa Juan Preciado và Dorotea.
Cứ mỗi bận Juan Preciado nghe thấy tiếng động, tiếng
10. 12 › JUAN RULFO
nói thì nói lại cho Dorotea và đến lượt mình Dorotea
giải thích cho Preciado hiểu nguồn gốc những tiếng
động hoặc tiếng nói ấy. Đó là lời độc thoại của một nông
dân bị tay chân của Pedro Páramo giết… Nhân những
cuộc độc thoại này, người kể chuyện cho chúng ta nghe
những việc làm của Pedro Páramo như cướp đất để trở
nên giàu có, bằng cách cưới những cô gái nhà giàu để
hưởng của hồi môn rồi tìm cách ruồng bỏ họ; bằng cách
nuôi luật gia Gerardo Trujillo làm ra những văn tự giả
để căn cứ vào đó chiếm đoạt ruộng đất của nông dân.
Khi đã giàu có, Pedro Páramo tìm mọi cách chiếm đoạt
Susana San Juan mà lúc này vì bệnh lao đã trở thành
một bóng ma.
Bạn đọc cũng dễ dàng nhận thấy càng về cuối
câu chuyện càng ít đi những cuộc đối thoại giữa Juan
Preciado với Dorotea và vai trò của người kể chuyện
càng ngày càng trở nên quan trọng. Những lời đối thoại
giữa Preciado với Dorotea xen kẽ giữa những lời độc
thoại của Susana San Juan, hoặc giả trong lúc người
kể chuyện đang kể về giây phút vĩnh biệt cuộc đời của
Susana San Juan thì người đọc lại thấy lời đối thoại giữa
Juan Preciado và Dorotea:
“- Ta đã thấy doña Susanita chết.
- Bà đã nói gì kia, hở bà Dorotea?
- Điều ta vừa nói xong”.