SlideShare una empresa de Scribd logo
1 de 55
Descargar para leer sin conexión
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------
SENGSOULATH YOUBI
VĂN HÓA RỪNG Ở TÂY BẮC LÀO VÀ TÂY BẮC
VIỆT NAM
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Việt Nam học
Hà Nội - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------
SENGSOULATH YOUBI
VĂN HÓA RỪNG Ở TÂY BẮC LÀO VÀ TÂY BẮC VIỆT
NAM
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Việt Nam học
Mã số: 60 22 01 13
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Hoài Giang
Hà Nội - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung của luận văn “Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào
và Tây Bắc Việt Nam” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, không sao
chép bất cứ các công trình nào khác, các tài liệu tham khảo và trích dẫn đều
được liệt kê và ghi rõ nguồn gốc.
Hà Nội, tháng 10 năm 2019
Học viên
SENGSOULATH Youbi
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn với đề tài “Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào
và Tây Bắc Việt Nam ”, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô
ở khoa Việt Nam học và Tiếng Việt, trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô trong khoa Việt Nam học và
Tiếng Việt đã giảng dạy tôi những kiến thức quý giá trong quá trình học tập,
đặc biệt tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến TS. Đặng Hoài Giang,
người trực tiếp hướng dẫn luận văn, đã tận tình hướng dẫn tôi tìm ra hướng
nghiên cứu, cách tìm tài liệu, và đã dành rất nhiều thời gian chỉnh sửa bản
thảo luận văn này. Tôi xin cảm ơn Ông Saly, Trưởng làng Suandara và người
dân trong làng đã tạo điều kiện cho tôi đi thực địa để thu thập tài liệu. Tôi xin
bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cha mẹ và những người thân trong gia đình đã
hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian qua và đặc biệt
trong thời gian tôi theo học khóa thạc sĩ tại trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Do kiến thức và kinh nghiệm của bản thân người viết còn hạn chế,
những thiếu sót trong luận văn là không thể tránh khỏi. Vì vậy tôi kính mong
sẽ nhận được sự góp ý và chỉ bảo của quý thầy cô để luận văn này được
hoàn chỉnh hơn nữa.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2019
Học viên
SENGSOULATH Youbi
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề...................................................................... 4
3. Mục tiêu nghiên cứu................................................................................ 8
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.......................................................... 8
4.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................ 8
4.2. Phạm vi nghiên cứu............................................................................ 9
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và các nguồn tài liệu ................................... 9
5.1. Phương pháp nghiên cứu.................................................................... 9
5.2. Các nguồn tài liệu............................................................................. 10
6. Đóng góp của luận văn.......................................................................... 10
7. Cấu trúc của luận văn........................................................................... 10
Chƣơng 1........................................................................................................ 12
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI................................... 12
1.1. Khái niệm văn hóa rừng.................................................................... 12
1.1.1. Một số khái niệm về văn hóa ........................................................ 12
1.1.2. Một số khái niệm về rừng ............................................................. 13
1.1.3. Văn hóa rừng................................................................................. 16
1.2. Giới thiệu về vùng Tây Bắc Lào ....................................................... 16
1.2.1. Vị trí địa lý, khí hậu ...................................................................... 16
1.2.2. Con người, tín ngưỡng, tôn giáo và các lễ hội ở vùng Tây Bắc Lào
................................................................................................................. 18
1.2.3. Giới thiệu về làng Suandara.......................................................... 22
1.2.4. Giới thiệu về dân tộc Lào ở Tây Bắc Lào..................................... 22
1.3. Giới thiệu về vùng Tây Bắc Việt Nam.............................................. 24
1.3.1. Vị trí địa lý, khí hậu ...................................................................... 24
1.3.2. Con người, tín ngưỡng, tôn giáo và các lễ hội ở vùng Tây Bắc Việt
Nam ......................................................................................................... 27
1.3.3. Giới thiệu về dân tộc Thái ở Tây Bắc Việt Nam .......................... 30
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ........................................................................... 33
2
Chƣơng 2........................................................................................................ 34
VĂN HÓA RỪNG: NHÌN TỪ TÂY BẮC LÀO VÀ TÂY BẮC VIỆT
NAM ............................................................................................................... 34
2.1. Văn hóa rừng của ngƣời Lào ở Tây Bắc Lào.................................. 34
2.1.1. Nhận thức của con người về thế giới rừng.................................... 34
2.1.2. Cách phân loại rừng của người Lào.............................................. 34
2.1.3. Chức năng sinh kế của rừng.......................................................... 39
2.1.4. Các nghi lễ và thực hành văn hóa gắn với rừng............................ 40
2.1.4.1. Lễ cúng thần làng (khăm hó) ................................................. 41
2.1.4.2. Lễ báo ma trong rừng ma (Phị thí khọp phi pa sạ) ................ 46
2.2. Văn hóa rừng của ngƣời Việt ở vùng Tây Bắc Việt Nam .............. 48
2.2.1. Nhận thức của con người về thế giới rừng.................................... 48
2.2.2. Cách phân loại rừng của người Thái............................................. 50
2.2.3. Chức năng sinh kế của rừng.......................................................... 52
2.2.4. Các nghi lễ và thực hành văn hóa gắn với rừng............................ 53
2.2.4.1. Lễ Xên Bản ............................................................................ 54
2.2.4.2. Lễ Xên mường ....................................................................... 55
2.2.4.3. Lễ cúng rừng ma của người Thái Mường Mô ....................... 61
2.2.4.4. Nghi thức cầu ma rừng phù hộ............................................... 63
2.2.4.5. Lễ cúng chuộc gỗ rừng........................................................... 63
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ........................................................................... 65
Chƣơng 3........................................................................................................ 66
BIẾN ĐỔI VĂN HÓA RỪNG VÀ MỘT VÀI SO SÁNH BƢỚC
ĐẦU ................................................................................................................ 66
3.1. Những biến đổi của văn hóa rừng trong thời gian hiện nay.......... 66
3.1.1. Biến đổi văn hóa rừng của người Lào........................................... 66
3.1.2. Biến đổi văn hóa rừng của người Thái.......................................... 68
3.2. Những nét tƣơng đồng....................................................................... 70
3.3. Những nét khác biệt........................................................................... 72
3.4. Các nguyên nhân dẫn đến sự tƣơng đồng và khác biệt.................. 73
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 ........................................................................... 77
3
KẾT LUẬN.................................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 81
............................................................................................................. 92
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xưa đến nay, Lào vẫn được biết đến như là một đất nước của
rừng.Cuộc sống của người dân Lào từ xưa luôn gắn bó với rừng và thế giới tự
nhiên.Rừng góp phần hình thành thế giới quan, nhân sinh quan của người
Lào.Nhiều phong tục tập quán cũng gắn với không gian rừng.Lối ứng xử coi
trọng tự nhiên, coi trọng tinh thần hài hòa, bất bạo động của người Lào cũng
là sản phẩm của quá trình thích nghi với thế giới tự nhiên, với rừng, cộng
thêm tác động của Phật giáo Nam tông. Ngày nay mặc dù điều kiện chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội ở Lào đã thay đổi nhiều, nguồn tài nguyên rừng của
Lào đã bị suy giảm nhiều, nhưng “ văn hóa rừng” của người Lào vẫn còn tồn
tại – tất nhiên là có nhiều thay đổi so với truyền thống.
Mặc dù vậy, cho đến nay, gần như chưa có nghiên cứu nào tập trung
phân tích các biểu hiện và vai trò của rừng trong văn hóa Lào.Nói cách khác,
chưa có ai thật sự đi giải mã “văn hóa rừng” của người Lào. Theo hiểu biết
của tôi, cũng chưa có ai nghiên cứu văn hóa rừng của người Lào trong sự đối
sánh với văn hóa rừng của người Việt Nam để thấy được những tương đồng
và dị biệt giữa hai tộc người trong quan hệ ứng xử với rừng. Là một học viên
cao học chuyên ngành Việt Nam học, được sống trong môi trường văn hóa
của hai nước Lào và Việt, tôi muốn thực hiện đề tài “Văn hóa rừng ở Tây Bắc
Lào và Tây Bắc Việt Nam” để đóng góp một điều gì đó cho lĩnh vực nghiên
cứu còn nhiều khoảng trống này. Tôi chọn khảo sát vùng Tây Bắc Lào –
chính xác là tỉnh Luangprabang bởi tỉnh này là một trong những tỉnh giáp với
Tây Bắc Việt Nam, cũng là quê hương của tôi.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
5
Đề tài này có mối liên hệ mật thiết với các công trình liên quan đến văn
hóa rừng của người Thái (Tây Bắc) và các tộc người khác ở Việt Nam (nhóm
1); và các công trình nghiên cứu về văn hóa rừng của người Lào nói chung
(nhóm 2).
Trong nhóm 1, có các công trình đáng chú ý sau đây:
Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam (NXB KHXH, 1978) của Cầm Trọng:
Đây là một trong những chuyên khảo đầu tiên trình bày một cách có hệ thống
về lịch sử, ngôn ngữ, chế độ ruộng đất, cấu trúc xã hội và đời sống tín ngưỡng
của người Thái ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Những miêu tả về đời sống tín
ngưỡng của tác giả đã giúp chúng ta hình dung phần nào về văn hoá rừng của
người Thái. Một thời gian sau đó, Cầm Trọng cùng với Phan Hữu Dật tiếp tục
xuất bản một chuyên khảo khác về văn hoá Thái – nhưng không còn bó hẹp
trong người Thái ở Tây Bắc mà người Thái trên toàn Việt Nam: Văn hóa Thái
Việt Nam(NXB Văn hóa dân tộc, năm 1995).
Tri thức bản địa của người Thái ở miền núi Thanh Hóa (Luận án TS
Lịch sử - chuyên ngành Dân tộc học, 2009) của Vũ Trường Giang: Tác giả đã
nghiên cứu sâu về những tri thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp và bảo
vệ tài nguyên thiên nhiên; tri thức bản địa về y học dân gian và chăm sóc sức
khỏe; tri thức bản địa trong tổ chức và quản lý xã hội ở xã Yên Khương
(huyện Lang Chánh) và Xuân Lệ (huyện Thường Xuân). Trong năm này, tác
giả Nguyễn Thị Hồng Viên cũng xuất bản một công trình có chủ đề tương tự:
Kiến thức bản địa của người Thái trong canh tác nương rẫy ở vùng ven thành
phố Sơn La (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009). Công trình của Nguyễn
Thị Hồng Viên cho thấy người Thái ở ven thành phố Sơn La đã tạo lập được
hệ sinh thái nhân văn của mình khá hoàn hảo, hệ canh tác nương rẫy đóng vai
6
trò quan trọng trong việc quản lý bảo vệ đất, cũng như trong đời sống hàng
ngày của họ.
Gần đây, nhóm tác giả Đặng Thị Oanh, Đặng Thị Ngọc Lan, Nguyễn
Văn Thủy đã công bố công trình Ứng xử với rừng trong văn hóa truyền thống
của người Thái ở Điện Biên(Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội, năm 2015). Nhóm tác giả đã tập trung nghiên cứu về kinh
nghiệm quản lý và khai thác lợi ích từ rừng để phục vụ cuộc sống hàng ngày,
cũng như đời sống tinh thần và tín ngưỡng gắn với rừng của người Thái ở tỉnh
Điện Biên.
Về chủ đề văn hoá rừng của các tộc người khác ở Việt Nam, trước hết,
phải kể đến công trình Chúng tôi ăn rừng của nhà dân tộc học người Pháp
George Condominas. Đây là một bút ký dân tộc học mô tả toàn bộ đời sống
của làng Sar Luk thuộc bộ lạc M’Nông Gar trong chu kỳ một năm nông
nghiệp – từ lúc hạ cây, đốt rẫy cho đến khi thu hoạch: tìm đất làm rẫy, thử đất,
đám cưới, đám tang, các lễ hội… [G. Condominas (2008), Chúng tôi ăn rừng
(bản tiếng Việt), NXB Thế giới, Hà Nội]. Bên cạnh đó, có thể nhắc đến hàng
loạt các công trình khác, như:
Ứng xử của người Dao đỏ ở Sapa trong việc cư trú, khai thác và bảo vệ
rừng, nguồn nước của tác giả Phạm Công Hoan (NXB Khoa học Xã hội,
2015): Cuốn sách đã khái quát chung về tên gọi, lịch sử tộc người, địa vực cư
trú, đặc điểm kinh tế - xã hội của người Dao Đỏ ở Sa Pa, tỉnh Lào Cai và phân
tích cách ứng xử của người Dao Đỏ ở Sapa trong khai thác và bảo vệ rừng,
nguồn nước.
Rừng thiêng ở Mường Khủn Tinh của Trần Văn Hạc và Sầm Văn Bình
(NXB Khoa học Xã hội, 2015): Các tác giả đã tập trung viết về rừng thiêng và
7
những quy ước cũng như những điều cấm kỵ liên quan đến rừng của người
Thái ở Mường Khủn Tinh, huyện Qùy Hợp, miền Tây Bắc Nghệ An.
Ứng xử với môi trường tự nhiên của người Dao vùng Tây Bắc (NXB
Văn hóa Dân tộc, Hà Nội năm 2018) của tác giả Trần Hữu Sơn - đã tổng quan
về người Dao và ứng xử với môi trường tự nhiên của người Dao ở vùng Tây
Bắc. Trong cuốn sách này, ứng xử với môi trường tự nhiên của người Dao
vùng Tây Bắc được phản ánh qua các hoạt động sinh kế truyền thống, cách ăn
mặc, lập làng, dựng nhà ở, giữ rừng thiêng, giữ nguồn nước, tín ngưỡng tôn
giáo và những biến đổi trong ứng xử với môi trường tự nhiên của họ.Ở nhóm
2, các công trình nghiên cứu về văn hóa Lào cũng có nhiều nhưng phần lớn
tập trung nghiên cứu về các lễ hội nói chung, còn nghiên cứu về văn hóa liên
quan đến rừng dường như còn ít. Có thể điểm qua một số công trình tiêu biểu
như sau:
Lào đất nước và con người (NXB Giáo Dục, 1987) của Nguyễn Trọng
Điều:Tác giả tập trung miêu tả những nét đặc trưng về thiên nhiên đa dạng
của nước Lào, về con người với nền văn hóa nhiều màu sắc và về tiềm năng
kinh tế cũng như sự phát triển của kinh tế của nước Lào.
Đất nước Lào lịch sử và văn hoá (NXB Chính trị Quốc Gia Hà Nội,
1996) do GS.Lương Ninh chủ biên, tái bản tại. Tác giả tập trung trình bày quá
trình lịch sử đấu tranh giành độc lập, tự do của nhân dân các bộ tộc Lào từ
thời tiền sử đến khi nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ra đời, đồng thời
qua đó giới thiệu một số nét khái quát nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc
cùng những thành tựu văn hóa nổi bật của Lào.
Ngôn ngữ và văn hoá Lào trong bối cảnh Đông Nam Á (NXB CTQG,
1998) của Phạm Đức Dương trình bày các đặc điểm của ngôn ngữ và văn hoá
Lào xét trong bối cảnh Đông Nam Á.
8
Đối thoại với các nền văn hoá Lào do Trịnh Huy Hóa biên dịch (NXB
Trẻ 2002). Nội dung của sách tập trung tìm hiểu về lịch sử và văn hoá của các
dân tộc ở Lào như các phương diện:nguồn gốc dân tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, lễ
hội, phong tục.
Ngoài các công trình nghiên cứu trên, còn có nhiều bài viết về văn hóa
Lào như: Lễ hội Xuông Hưa (đua thuyền) và lễ hội Lay Hưa Phay (thả bè
nến) trên sông của người Lào của PGS.TS Nguyễn Lê Thị - tạp chí Nghiên
cứu Đông Nam Á số 11(92),2007; Chức năng và vai trò lễ hội Thạt Luổng
trong đời sống văn hóa của nhân dân Lào của Bounnam Phongbouapheuane –
Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số 6(183), 2015.
Như vậy, có thể nói, các nghiên cứu liên quan đến văn hóa rừng của
người Thái nói riêng và của các tộc người ở Việt Nam nói chung có khá nhiều
nhưng số lượng và chất lượng của các nghiên cứu về văn hóa rừng ở Lào còn
rất hạn chế. Đặc biệt, hầu như chưa có bất kỳ nghiên cứu so sánh nào giữa
văn hóa rừng của các tộc người ở Lào và ở Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính của luận văn là chỉ ra sự giống và khác nhau giữa “ văn
hóa rừng”của người Lào với “văn hóa rừng” của người Việt Nam (qua so
sánh giữa vùng Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam). Để thực hiện mục tiêu
này chúng tôi phải tập trung nghiên cứu cách ứng xử của người Lào và người
Việt Nam với rừng, cách khai thác rừng cho đến phong tục tập quán và các
nghi lễ, tín ngưỡng liên quan đến rừng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
9
Đối tượng nghiên cứu là văn hóa rừng của người Lào (dân tộc Lào) ở
vùng Tây Bắc Lào và văn hóa rừng của người Việt (dân tộc Thái) ở vùng Tây
Bắc Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian, chúng tôi tập trung nghiên cứu ở vùng Tây Bắc Lào và
vùng Tây Bắc Việt Nam.Tây Bắc Lào (làng Suanđara, huyện Xiêng Ngơn,
tỉnh Luangprabang) tôi chọn vùng này để nghiên cứu bởi vì Luangprabang là
một trong những tỉnh giáp với Tây Bắc Việt Nam. Ngoài ra, do thời gian hạn
chế nên tôi đã chọn một làng để tập trung nghiên cứu.Về thời gian, đề tài sẽ
khảo sát vấn đề nghiên cứu kể từ giai đoạn trước thế kỷ 20 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và các nguồn tài liệu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này tôi sẽ sử dụng phương pháp phân tích tài
liệu, phương pháp nghiên cứu thực địa và phương pháp so sánh/đối chiếu.
- Phương pháp phân tích tài liệu: Được sử dụng để tham khảo các
nguồn tài liệu thành văn liên quan đến đề tài luận văn, đặc biệt là nghiên cứu
của các tác giả đi trước.
- Phương pháp nghiên cứu thực địa: Tôi đã dành khoảng một tháng để
đi thực địa ở làng Suanđara – huyện Xiêng Ngơn – tỉnh Luangprabang. Trong
thời gian thực địa, tôi đã sử dụng các phương pháp phỏng vấn sâu, quan sát
tham dự và thảo luận nhóm nhằm thu thập các thông tin nói về văn hóa rừng
của người Lào. Trong các phương pháp này, phỏng vấn sâu là phương pháp
quan trọng nhất.
- So sánh, đối chiếu: Đề tài Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc
Việt Nam nên tác giả đã sử dụng phương pháp này để chỉ ra những tương
10
đồng và khác biệt trong cách ứng xử với rừng của các cộng đồng được chọn
nghiên cứu ở hai quốc gia.
5.2. Các nguồn tài liệu
1. Tìm hiểu về văn hóa rừng ở miền Tây Bắc của Lào qua các nguồn
tài liệu sách, trang web, và tài liệu chính là đi thực địa ở làng
Suanđara huyện - Xiêng Ngơn - tỉnh Luangprabang.
2. Tìm hiểu về văn hóa rừng ở miền Tây Bắc của Việt Nam qua các
nguồn tài liệu sách, tạp chí, trang web.
6. Đóng góp của luận văn
- Giới thiệu và làm rõ khái niệm văn hóa rừng.
- Chỉ ra được những chiều cạnh cấu thành văn hoá rừng của người
Lào ở Tây Bắc Lào và người Thái ở Tây Bắc Việt Nam.
- Chỉ ra những tương đồng và dị biệt giữa văn hóa rừng ở vùng Tây
Bắc Lào và văn hóa rừng ở Tây Bắc Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn bao gồm có 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
1.1. Khái niệm “văn hóa rừng”
1.2. Giới thiệu về vùng Tây Bắc Lào
1.3. Giới thiệu về vùng Tây Bắc Việt Nam
Chƣơng 2: Văn hóa rừng nhìn từ Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt
Nam
11
2.1. Văn hóa rừng của người Lào ở Tây Bắc Lào
2.2. Văn hóa rừng của người Việt ở Tây Bắc Việt Nam
Chƣơng 3: Biến đổi về văn hóa và một vài so sánh bƣớc đầu
3.1. Những biến đổi của văn hóa rừng trong thời gian hiện nay
3.2. Những nét tương đồng
3.3. Những nét khác biệt
3.4. Các nguyên nhân dẫn đến sự tương đồng và khác biệt.
12
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm văn hóa rừng
1.1.1. Một số khái niệm về văn hóa
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn
hóa (culture). Người đầu tiên đưa ra định nghĩa về văn hóa là Taylor – một
nhà nhân loại học người Anh. Ông viết: “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa
rộng của tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật,
đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con
người chiếm lĩnh với tư cách là thành viên của xã hội”[14, tr.13].
Dựa trên quan điểm duy vật lịch sử, C.Mác coi văn hóa là toàn bộ
những thành quả được tạo ra nhờ hoạt động lao động sáng tạo của con người
– hoạt động sản xuất vật chất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực của con
người.C. Mác đã đồng nhất văn hóa với phương thức hoạt động sống riêng có
của con người. Đó là phương thức mà con người sử dụng lao động sáng tạo
của mình để biến đổi và cải tạo giới tự nhiên, “vận dụng bản chất cố hữu của
mình” để cải tạo hiện thực khách quan, “nhào nặn”, “xây dựng” thực tại
khách quan cho chính mình “theo các quy luật của cái đẹp” [2, tr. 137].
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của
mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản
13
sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”
[13, tr 408].
Năm 1986, Tổ chức văn hóa thế giới (UNESCO), đã cho rằng: “Trong
ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật
chất, trí tuệ và cảm xúc, quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm
người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối
sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những
tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người những suy xét
về bản thân. Chính văn hóa đã làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc
biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính
nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình
là một phương án chưa hoàn thiện được đặt ra để xem xét những thành tựu
của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩ mới mẻ và tạo nên những
công trình vượt trội lên bản thân”[36, tr. 17].
Hiện nay, đa số học giả cho rằng, văn hóa là tổng thể những giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử [36, tr. 5-6].
1.1.2. Một số khái niệm về rừng
Năm 1930, Morozov đã định nghĩa khái niệm về rừng như sau: Rừng là
một tổng thể cây gỗ, có mối liên hệ với nhau, nó chiếm một phạm vi không
gian nhất định và trong khí quyển, rừng chiếm phần lớn về mặt trái đất và là
một bộ phận của cảnh quan địa lý. Đến năm 1952, M.E. Tcachenco đã phát
biểu rằng: Rừng là một bộ phận cảnh quan địa lý, trong đó bao gồm một tổng
thể cây gỗ, cây bụi, cây cỏ, động vật và vi sinh vật. Trong quá trình phát triển
của mình chúng có mối quan hệ sinh học và ảnh hưởng lẫn nhau với hoàn cảnh
bên ngoài. Cho đến năm 1974, I.S. Mê Lê Khôp quan niệm rằng: Rừng là sự
14
hình thành phức tạp của tự nhiên, là thành phần cơ bản của sinh quyển địa cầu
[24, tr. 5].
Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào năm 2007, đã định
nghĩa rừng: “Rừng là tài nguyên thiên nhiên quý giá, có hệ thống sinh thái
riêng gồm có các loài sinh vật, nguồn nước và đất rừng trong đó có các loài
cây cối tự mọc lên theo tự nhiên hoặc có người trồng trong khu vực rừng
phòng hộ, rừng cấm và rừng sản xuất [43].
Theo Luật Lâm Nghiệp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam năm 2017, “Rừng là một hệ sinh thái bao gồm các loài thực vật rừng,
động vật rừng, nấm, vi sinh vật, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong
đó thành phần chính là một hoặc một số loài cây thân gỗ, tre, nứa, cây họ cau
có chiều cao được xác định theo hệ thực vật trên núi đất, núi đá, đất ngập
nước, đất cát hoặc hệ thực vật đặc trưng khác; diện tích liên vùng từ 0,3 ha trở
lên; độ tàn che từ 0,1 trở lên [30].
Như vậy, các định nghĩa trên chủ yếu hiểu rừng như là một hệ sinh thái
tự nhiên, nhưng đối với các tộc người có cuộc sống gần gũi với rừng, môi
trường sống của họ toàn gắn liền với rừng núi thì rừng không chỉ là tự nhiên
thuần túy. Theo nhà văn hóa Nguyên Ngọc, đối với các tộc người ở Tây
Nguyên, họ coi từng cây rừng đúng như một sinh vật sống chẳng hề thua kém
con người, cũng có linh hồn ngang bằng con người, cũng đầy cảm xúc, vui
mừng, hạnh phúc, đau đớn hệt con người. Khi buộc phải chặt hạ một cây gỗ
cho nhu cầu thiết yếu của mình, bao giờ người Tây Nguyên cũng ân cần làm
lễ xin lỗi cây, tạ ơn rừng. Người Tây Nguyên sống “theo đạo đức của rừng”,
quan niệm con người cần phải hiến mình như rừng. Như vậy ở Tây Nguyên,
rừng là cội nguồn của đời sống tâm linh, tức phần sâu xa nhất trong con người
và cộng đồng người, mất rừng thì con người và cộng đồng người mất đi cái
15
nền rộng lớn, bền chặt, sâu thẳm nhất của mình, trở nên bơ vơ, “tha hóa”, mất
gốc, mất cội nguồn [22, tr. 160-161].
Theo quan niệm của người Dao Đỏ, “Có rừng là có cuộc sống”, rừng
cung cấp gỗ lạt làm nhà, củi đun; rừng là nơi sinh ra nguồn nước sinh hoạt
và làm ruộng; rừng sản sinh ra các loại rau, củ, quả... đáp ứng nhu cầu thực
phẩm cho các bữa ăn hàng ngày; rừng là nơi nuôi dưỡng các loại cây thuốc
chữa bệnh cứu người; rừng tạo ra các bãi chăn thả vật nuôi. Với môi trường
rừng tạo ra tán che, thanh lọc không khí (mỗi lần đốt lửa lá cây rừng sẽ hút
sạch khói), tạo khí hậu trong lành mát mẻ ở mùa hè; rừng chắn gió bão, lũ
lụt, sạt lở, giảm thiểu thiên tai,....Rừng là biểu tượng cao cả, vĩ đại, tốt lành
mà người Dao Đỏ dùng để răn dạy con cháu thông qua các câu tục ngữ,
thành ngữ, chẳng hạn như:
Giảm tàu pẻ phản nhần khú khí,
Trỉnh tầu tải mụa khú rìa làng.
Tạm dịch:
Không cần cơm trắng ăn ngon
Chỉ cần cây to che bóng mát.
Ý của câu tục ngữ này là: chỉ cần bố mẹ có tấm lòng tốt, thương con
cháu, là chỗ dựa tinh thần, che chở cho con cháu, còn hơn được ăn ngon mà
thiếu đi tình thương yêu vỗ về của đấng sinh thành [26, tr. 121-122].
Trong khi đó, người Hà Nhì quan niệm rằng: rừng và cây rừng, con thú
trong rừng điều có linh hồn như con người.Theo ghi chép của Trần Hữu, khi
gieo hạt cho một vụ mùa mới, người Hà Nhì bao giờ cũng phải khấn hồn cây
và thần rừng A Pố Xả Kha. Khi vào rừng kiếm củi, hái rau, chặt cây, người
Hà Nhì cũng phải cúng thần rừng, cầu xin thần cho hái rau, chặt cây. Một số
16
người chết bất đắc kỳ tử ở trong rừng cũng hóa thành loài ma ác đe dọa con
người khi họ vào rừng và bị rừng trừng phạt như Xá Xí Khà Là Cộ (ma người
chết do hổ vồ), Xá Xí Khà Ngú Cộ (ma người chết do gấu vồ, Xá Xí Ô Ló Tụ
(ma người chết do rắn cắn)... Như vậy quan niệm về rừng, nhìn nhận về rừng
của người Hà Nhì vừa phản ánh mối quan hệ thân thiện hòa hợp với rừng vừa
linh thiêng hóa rừng. Với quan niệm như vậy, người Hà Nhì đặc biệt quan
tâm đến rừng, có thái độ kính trọng, sợ hãi hoặc chăm sóc rừng, cây rừng như
đối với người thân, bề trên của mình. Mặt khác người Hà Nhì còn tạo ra cơ
chế thiêng bảo vệ rừng. Rừng linh thiêng vì trong rừng có nhiều lực lượng
siêu nhiên ảnh hưởng đến đời sống con người, vì mỗi loại cây, mỗi vũng nước
đều có thần chủ. Con người xâm phạm đến rừng cây, tự nhiên sẽ bị trừng
phạt. Cơ chế thiêng tạo ra sức mạnh bảo vệ rừng, tạo ra ý thức tự giác, buộc
con người phải tôn trọng rừng, không được phá loại rừng [27, tr. 644-645].
1.1.3. Văn hóa rừng
Từ các khái niệm “văn hóa” và “rừng” đã trình bày ở phần trên, tác giả
đưa ra cách hiểu của mình về văn hóa rừng như sau: văn hóa rừng là một tập
hợp các ứng xử đặc trưng gắn với hệ sinh thái rừng của các cộng đồng sở tại,
được thể hiện trong quan niệm, các nghi lễ, các hình thức quản lý, khai thác
và bảo vệ rừng của họ, rồi dần dần trở thành phong tục tập quán, tín ngưỡng
tốt đẹp được chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác.
1.2. Giới thiệu về vùng Tây Bắc Lào
1.2.1. Vị trí địa lý, khí hậu
Theo địa lý Lào, Lào được chia thành 3 miền: miền Bắc, Trung, Nam
nhưng theo cục Khí tượng và Thủy văn Lào phân chia nước Lào thành 4 vùng
gồm có: vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Trung và Nam.
17
Vùng Tây Bắc Lào gồm có 5 tỉnh như: tỉnh Luangnamtha, Oudômxay,
Bokeo, Luangprabang, và Xayaboury, tổng diện tích là: 64.115 km2
, trong
đó địa hình núi chiếm hơn 90%, phía Bắc giáp với tỉnh Phongsaly và tỉnh
Vân Nam (Trung Quốc), phía Đông giáp tỉnh Điện Biên(Việt Nam), tỉnh
Xiêng Khoảng, tỉnh Hủa Phăn, phía Nam giáp tỉnh Viêng Chăn, phía Tây
Nam giáp tỉnh Chiang Rai, Phayao, Nan, Phrae (Thái Lan) còn phía Tây Bắc
giáp với tỉnh Xhan (Myanmar)[34, tr. 1513]. Đặc điểm địa lý của vùng này
là miền núi, núi cao. “Vùng Tây Bắc có thể nói ngoài cao nguyên Mường
Sing còn một cao nguyên nhỏ đá phiến và cát kết thuộc tỉnh Nặm Thà, đại bộ
phận núi non theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, với độ cao từ 1000 đến
1500m, có những đỉnh vượt quá 2000m. Đông bắc và nam Phongsaly bị
nhiều dãy núi che chắn. Dãy Sanchênpêu dài 60 km và rộng tới 40km. Còn
dãy Saichengkoung ở Tây Bắc Nậm Thà (cách đó 70km) là dãy núi hoa
cương cũng có chiều dài tới 60km, nhưng bề rộng khoảng 20km; đỉnh cao
nhất đạt tới2072m. Đó cũng là đỉnh cao nhất trong vùng. Theo hướng núi,
các dòng Nậm Thà, Nậm U, Nậm Seng, từ các thung lũng hẹp hai bên sườn
dốc, vất vả lắm mới vượt được các hõm để đổ về Mẹ Khoỏng. Nhiều dãy núi
khác không kém phần đồ sộ bao quanh Luangphabăng như những bức tường
thành, di tích của một địa thế tự nhiên để che chắn cố đô của đất nước Triệu
Voi. Dãy Phu Nậm Bang nằm ở phía tây dài tới 60km, có đỉnh cao tới
1933m. Dãy Phu Ba Beng dài 50km, rộng 80km lại án ngữ phía nam tạo thế
cho kinh đô cũ nằm sâu kín trong vùng núi hiểm trở. Hệ núi non đó kéo dài
tận bắc Viêng Chăn mới giảm thế hiểm trở, đổ xuống mạn bờ tây dòng Mẹ
Khoỏng, thế núi thấp dần sang phía Thái Lan”[20, tr. 10-11].
Tây Bắc Lào gồm có 2 mùa: mùa mưa và mùa khô. Đặc điểm của vùng
này vào mùa khô nhiệt độ sẽ thấp hơn nếu so với miền khác nhưng vẫn ấm
hơn ở Đông Bắc.
18
“Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 (Dương lịch) thời tiết lạnh
và khô, sáng sớm có sương mù, nắng nhiều,bởi chịu ảnh hưởng từ khối không
khí lạnh Siberia (Nga) và do ảnh hưởng của địa hình của vùng đã làm cho
nhiệt độ của vùng này thấp hơn so với miền Nam. Nhiệt độ trung bình trong
mùa khô là 15
C. Lượng mưa vào mùa này cũng ít nhưng nếu so với vùng
khác thì vùng này có nhiều hơn đặc biệt cuối tháng 2 đến đầu tháng 3 sẽ có
mưa phùn.
Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10 (Dương lịch), chịu ảnh
hưởng từ gió thổi từ biển Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương từ phía Tây-
Nam thổi lên,vào mùa này thời tiết luôn thay đổi, có dông, nhiều mây đôi khi
có bão, lượng nước mưa chiếm tới 90% của lượng nước mưa cả năm đặc biệt
tháng 7 và tháng 8 là tháng có mưa nhiều nhất trung bình là 20 - 25
ngày/tháng mùa này nắng không nhiều và độ ẩm cũng cao nhiệt độ trung bình
là 24 C”[41, tr. 16].
1.2.2. Con người, tín ngưỡng, tôn giáo và các lễ hội ở vùng Tây Bắc
Lào
Hiện nay, ở Tây Bắc Lào có khoảng hơn 1 triệu dân, phân bố ở các
tỉnh: Luangnamtha: 175.753 người, Oudomxay: 307.622 người, Bokeo:
179.243 người, Luangprabang: 431.889 người, Xayabouly: 381.376 người
(theo Tổng điều tra dân số nhà ở Lào lần thứ 4, 1-7/3/2015).
Theo thống kê năm 2015 Lào có tất cả 49 dân tộc thuộc 4 nhóm ngôn
ngữ khác nhau như: nhóm các tộc người nói ngôn ngữ Lào– Tai (Lào – Thay),
nhóm các tộc người nói ngôn ngữ Mon- Khơme, nhóm các tộc người nói
ngôn ngữ Hmông- Miến, nhóm các tộc người nói ngôn ngữ Hán-Tạng ngoài 4
nhóm này ra còn có các kiều dân như: người Việt Nam, Thái Lan, Ấn Độ,
Trung Quốc,...[41, tr.49] Và các tộc người tập trung ở vùng Tây Bắc chủ yếu
19
là các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Lào- Tai như: dân tộc Lào, Tày, Phuôn,
Lự, Nhuôn, Thay Nưa, Thái Đen, Thái Đỏ, Thái Trắng,..; dân tộc Khơ Mú
thuộc nhóm ngôn ngữ Mon- Khơme; dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông-
Miến như: Hmông,...; các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Hán -Tạng như:
Akha, Phounoi, Lahu, Sila, Hà Nhì, Lô Lô, Họ. Bởi vì các tộc người sống ở
vùng Tây Bắc khá đa dạng nên các tín ngưỡng, tôn giáo cũng khá phong phú
như các dân tộc sống ở vùng đồng bằng và ven bờ sông chủ yếu họ sẽ theo
Phật giáo tiểu thừa như: Thái Lan, Campuchia, Srilanka, Myanmar,... còn các
đồng bào dân tộc sống ở miền núi cao họ có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thần
linh (thần núi, thần rừng,...), tín ngưỡng phồn thực và các tín ngưỡng đó
người Lào gọi là Phí có nghĩa là ma (thần), và một số người cũng theo Kitô
giáo, Bàlamôn giáo,... Nhưng đặc điểm của người dân Lào nói chung người
Tây Bắc nói riêng dù là dân tộc nào theo tôn giáo nào thậm chí không theo
tôn giáo nào cả cũng có thể hỗn hợp với nhau thí dụ: người theo Phật có thể
thờ cúng thần linh bởi vì cuộc sống của họ chủ yếu gắn bó với thiên nhiên nên
làm cho họ tin vào cái mà họ không thể thấy bằng mắt nhưng họ vẫn tin trong
thứ đó chắc có linh hồn và người theo Phí có thể vào chùa thậm chí có thể đi
tu, dù họ theo Phí nhưng vẫn chịu ảnh hưởng từ Phật và đó là sự thống nhất
trong đa dạng của người dân Lào[41, tr. 50].
Phật giáo chiếm địa vị hết sức quan trọng trong đời sống của người Lào
nói chung và người Lào vùng Tây Bắc nói riêng. Theo các nhà nghiên cứu,
Phật giáo đã được du nhập vào Lào khoảng trước thế kỷ thứ X thời kỳ Lào là
các mương riêng lẻ. Là một tôn giáo với những nghi thức đơn giản, với chủ
thuyết từ bi bác ái Phật giáo được chinh phục người dân Lào. Vốn là một dân
tộc yêu chuộng hòa bình và đầy tình nhân ái, trong quá trình tồn tại và phát
triển dài lâu trên đất nước Lào, Phật giáo đã có những đóng góp quan trọng
đối với sự phát triển của lịch sử Lào. Phật giáo từng là chất keo gắn liền các
20
mương riêng lẻ tạo tiền đề cho sự ra đời của quốc gia thống nhất Lào. Thế kỷ
thứ XIV, quốc gia thống nhất Lào Lạn Xạng ra đời. Phật giáo được tôn lên địa
vị quốc giáo. Từ đấy Phật giáo đã góp phần ngăn chặn tình trạng cát cứ để giữ
sự thống nhất của vương quốc và góp phần vào các cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm giành độc lập cho đất nước Lào. Trải qua hàng trăm năm tồn tại
trên đất nước Lào, Phật giáo đã thấm vào tư tưởng, tình cảm và ý thức của
nhân dân Lào để tạo nên một văn hóa dân tộc Lào thống nhất vừa thấm đượm
tính nhân từ của đạo Phật, vừa mang sắc thái bình yên của người Lào. Sự phát
triển của Phật giáo luôn gắn liền với sự phát triển của lịch sử Lào. Điều đó
được thể hiện rõ ràng hơn trong một thế kỷ qua, thế kỷ nhân dân Lào đấu tranh
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để giành độc lập. Lực lượng Phật giáo đã
đi theo xu thế chung của thời đại góp phần cùng nhân dân Lào chiến thắng
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành độc lập cho đất nước Lào. Từ năm 1975,
sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, nhân dân Lào bước vào giai đoạn
lịch sử mới, thời kỳ bảo vệ và xây dựng đất nước mới, Phật giáo cũng có những
biến chuyển để phù hợp với giai đoạn lịch sử mới của đất nước”[32, tr. 136-
137].
Từ góc nhìn Phật giáo, người Lào chia con người thành hai loài “Khôn
đíp” và “Khôn xúc”. “Khôn đíp”(người sống)sống theo lối tự nhiên chưa
được giáo hóa. Vì vậy họ phải được vào chùa để học hành giáo lý, chữ
nghĩa... để trở thành “Khôn xúc”(người chín). Ở người Lào-Tày, con trai đến
độ tuổi bắt đầu lớn (13-14) được gia đình khuyến khích đi vào chùa, cắt tóc,
mặc áo cà sa (Pên buột) để theo các vị sư. Sau một thời gian dù ba tháng, một
năm, ba năm... anh ta được ra chùa (Xít) trở về với cuộc sống gia đình lập
nghiệp làm ăn và được coi là “ Khôn xúc”, được đặt tên có chữ: Thít, Xiêng.
Vì thế “ chùa” đối với người theo Phật ở Lào không phải chỉ là nơi thực hành
nghi lễ, nghe giảng kinh Phật mà còn là nhà trường dạy chữ, dạy kiến thức,
21
dạy nghề, chữa bệnh.., là nơi tụ họp của cộng đồng để tổ chức các hoạt động
văn hóa văn nghệ dân gian,...[10, tr. 196].
Thành phố Luông Pha Bang là một thành phố nhỏ thuộc tỉnh Luông
Pha Bang nằm ở miền Tây Bắc Lào là trung tâm văn hóa, giáo dục, thể thao,
chính trị của miền Bắc Lào, là một thành phố có lịch sử lâu dài, là kinh đô cổ
của vương quốc Lạn Xạng, Luông Pha Bang được UNESCO công nhận là di
sản văn hóa thế giới vào năm 1995. Hiện nay, Luông Pha Bang vẫn giữ được
các phong tục tập quán, các nghi lễ dân gian lối sống tươi đẹp nhẹ nhàng của
người Lào nhất là trung tâm Phật giáo đã thể hiện ở chỗ riêng thành phố
Luông Pha Bang nhỏ bé nhưng có tới 33 ngôi chùa (khu vực phố cổ)[45] các
ngôi chùa đó được xây dựng từ các thời vua khác nhau và được các người dân
phát huy gìn giữ cho đến hiện nay đó đã chứng minh rằng: người Lào nói
trung người Tây Bắc nói riêng họ rất gắn bó với đạo Phật.
Các lễ hội quanh năm phần lớn cũng liên quan đến Phật giáo và nông
nghiệp người Lào gọi lễ hội là “ Bun” có nghĩa là phúc các nghi lễ liên quan
đến Phật giáo như: Bun Pha Vết( kỷ niệm ngày Thích Ca thành Phật, đọc kinh
Pha Vết), Bun Xà Lạc( hiến tiền bạc đồ vật cho nhà chùa để cầu phúc nhưng
dưới hình thức nhờ chuyển cho tổ tiên), Bun Khẩu Văn Xả và Oc Văn Xả
(tuần chay kéo dài ba tháng dành cho công việc ăn chay niệm Phật của các
nhà sư, xét đề bạt, kỷ luật...)[10, tr. 217], Bun Visakhabusa(lễ Phật đản),...
Ngoài các lễ hội này ra còn có Bun Pi May( năm mới, Té nước) được tổ chức
vào tháng Tư Dương lịch (theo lịch Lào gọi là tháng Năm, Bun Khau Chi
(nướng xôi) tổ chức vào tháng Hai Dương lịch là tháng Ba theo lịch Lào, Bun
Xuông Hưa(đua thuyền) được tổ chức vào ngày lễ Oc Văn Xả có một số nơi
tổ chức vào ngày Bun Ho Khau Pa Đap Đin (lễ tưởng nhớ người mất đi rồi)
được tổ chức vào tháng Tám hoặc tháng Chín Dương lịch, lễ hội đón năm mới
của dân tộc Khơ Mú và Hmông, Bun Lay Heua Phay (thả thuyền lửa, thả hoa
22
đăng) được tổ chức vào ban đêm cùng ngày Oc Phan Xã nhưng một số nơi tổ
chức vào đêm hôm sau ngày Oc Phan Xả. Ngoài các lễ hội lớn nói trên còn có
các lễ hội địa phương được tổ chức theo làng như lễ hội cầu mưa (các dân tộc
làm nương rẫy), thờ thần làng, ...
1.2.3. Giới thiệu về làng Suandara
Ông Saly, trưởng làng cho biết làng Suandara thuộc huyện Xiêng
Ngơn, tỉnh Luông Pha Bang, làng nằm cách trung tâm huyện Xiêng Ngơn
khoảng 18km về phía Đông Bắc. Có biên giới phía Bắc giáp với làng Huai
Yen, phía Nam giáp với làng Huai Fai, phía Tây giáp với làng Long O, còn
phía Đông giáp với làng En. Nếu tính từ trung tâm thành phố Luông Pha
Bang, làng Suandara chỉ cách trung tâm khoảng 22 km làng nằm bên bờ sông
Khan là một con sông có vai trò quan trọng đối với người Tây Bắc. 80% dân
làng là dân tộc Lào thuộc nhóm ngôn ngữ Lào-Tai theo Phật giáo, còn 20% là
đồng bào dân tộc Hmông thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông-Miến theo ma, làng
có một ngôi chùa là trung tâm hội tụ tinh thần của dân làng. Dù đạo Phật có
ảnh hưởng rất lớn với cuộc sống của dân làng nhưng bởi một phần của cuộc
sống người ở đây là thiên nhiên nên chúng ta cũng có tín ngưỡng thờ cúng
thần (ma) và phần lớn của phong tục tập quán cũng không chỉ liên quan đến
đạo Phật mà đi đôi với thiên nhiên. Nghề chính của người dân ở đây là trồng
lúa nước, trồng những cây lương thực như: ngô, củ sắn, lạc, vừng, các loài
cây ăn quả,...
1.2.4. Giới thiệu về dân tộc Lào ở Tây Bắc Lào
Dân tộc Lào là dân tộc chiếm đa số dân ở Lào chiếm 53.2% của dân cả
nước (theo Tổng điều tra dân số nhà ở Lào lần thứ 4, 1-7/3/2015). Hiện nay,
dân tộc Lào chiếm 47% dân số ở Tây Bắc[34], là một dân tộc thuộc nhóm
ngôn ngữ Lào – Tai, theo đạo Phật Tiểu thừa, một số gia đình cũng có tín
23
ngưỡng thờ thần (thần đất, thần núi, thần sông,…), họ tập trung cư trú ở vùng
đồng bằng ven bờ sông, nghề chính của họ là buôn bán, trồng trọt, trồng lúa
nước do vậy lương thực chính của họ là gạo nếp.
Kể từ lịch sử của nhóm nói ngôn ngữ Lào – Tai hoặc Lào - Thay:
“Thực ra quá trình người Lào – Thay chuyển dịch vào Lào đã được P.
Boulanger đề cập đến trong công trình Histoire du Laos từ năm 1935 (97),
xong ông chưa định được niên đại cụ thể. Còn Đặng Nghiệm Vạn trong bài
Sơ lược về sự thiên di của các bộ lạc Thái vào Tây Bắc Việt Nam (85) và bài
quá trình hình thành các nhóm Tày – Thái ở Việt Nam (86) đã chỉ ra rằng,
người Lào Thay vào Lào trong thế kỷ thứ VIII và sự hình thành hệ thống
chính trị xã hội kiểu các mường cổ của người Lào – Thay ở Lào đã được
phản ánh trong truyền thuyết Khún Bulôm. Truyền thuyết kể rằng Khún Phạ
Bulôm đã chia đất đai của mình cho bảy người con coi giữ. Khún Lo, con trai
cả vào mường Xoa năm 747 (67) lập nên hệ thống tổ chức chính trị, xã hội ở
đây. Trong khối cư dân nói tiếng Lào – Thay ở Lào, ngoài người Lào còn có
người Phu Thay (Thay Đăm, Thay Đeng, Thay Khảo, Thay Nưa, Thay Mơi,
Phu Thay, người Lự, người Nhuôn, người Dắng (ở việt Nam gọi là người
Giắng), người Xẹc”[19, tr. 21-22].
Trước khi đạo Phật được du nhập vào Lào, lúc đó dân tộc Lào đang
theo đạo Bàlamôn (Lào gọi là Pham hay Phạn) và sau khi đạo Phật vào Lào,
nó đã chiếm địa vị chủ đạo trong đời sống tinh thần và văn hóa truyền thống
của người Lào. “Người Lào tiếp nhận đạo Phật một cách tự nhiên như một
hoạt động tổng thể của đời sống tinh thần và văn hóa theo cách họ “Thứ Phí”
trước khi có đạo Phật. Đức Phật đã mang đến cho họ những điều khuyên răn
làm cho các quan hệ giữa con người với con người trong cộng đồng trở nên
hiền hòa êm thấm, tránh được lòng tham thói xấu”[10, tr. 196]. Mặc dù
người Lào theo Phật, nhưng họ vẫn thờ thần (Phi) đó là tác động của đạo
24
Bàlamôn. “Đến thế kỷ XVI, vua Phothi Sararat đã ra sắc lệnh cấm thờ Phi để
thờ Phật lúc đó đạo Phạn đã mờ nhạt chỉ con được giữ lại một số nghi lễ
như; Ba Xi là tục buộc chỉ cổ tay để cầu phúc, khẩn, cầu may mắn,…”[10,
tr. 197]. Do vậy, lễ hội quanh năm của họ mới liên quan đến Phật giáo và có
một phần là liên quan đến đạo Bàlamôn.
1.3. Giới thiệu về vùng Tây Bắc Việt Nam
1.3.1. Vị trí địa lý, khí hậu
Nằm ở phía Tây- Bắc lãnh thổ Việt Nam, Tây Bắc có diện tích vào
khoảng 36.000 km2
, chiếm 1/4 diện tích miền Bắc. Phía Bắc giáp Trung Hoa,
với 700 km đường biên giới; phía Tây giáp Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào;
phía Nam giáp Thanh Hóa, Hà Tây; ranh giới phía Đông giữa Tây Bắc với Đông
Bắc, vùng trung du Bắc Bộ là sông Hồng và dãy Hoàng Liên Sơn[28, tr. 12].
Hiện nay, theo các nhà nghiên cứu văn hóa, địa văn hóa, dân tộc học,
...lãnh thổ Tây Bắc gồm các tỉnh: Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên,
Sơn La và Hòa Bình. Cũng cần chú ý, một số ngành khác có quan niệm về
lãnh thổ Tây Bắc khác với các hiểu trên. Ví dụ: theo Tổng cục Thống kê, Tây
Bắc bao gồm các tỉnh: Lai Châu, Điện Biên, Sơn La và Hòa Bình. Còn trong
sách 500 Câu Hỏi Đáp Sắc Màu Văn Hóa Việt Nam đã viết rằng : “Tiểu vùng
văn hóa Tây Bắc bao gồm các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Sơn La và một phần
các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Hòa Bình. Với một địa bàn khá rộng nên Tây Bắc
giáp Lào ở phía Tây, giáp Trung Quốc ở phía Tây Bắc, giáp vùng Đông Bắc
Bắc Bộ ở phía Đông và giáp tỉnh Thanh Hóa ở phía Tây Nam. Mở rộng ra,
tiểu vùng văn hóa Tây Bắc là một phần của vùng văn hóa Tây Bắc và miền
núi Bắc Trung Bộ, bao gồm các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai,
Yên Bái, Hòa Bình và miền núi các tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An[ 12, tr. 99].
Tây Bắc là vùng lãnh thổ bao gồm nhiều dãy núi và cao nguyên. Nếu tính từ
25
thung lũng sông Hồng thuộc địa phận phía Đông của Lào Cai, Yên Bái... cho
đến biên giới phía Tây giáp với Công hòa Dân chủ Nhân dân Lào(
CHDCDL), địa hình hết sức phức tạp. Phía Đông lãnh thổ Tây Bắc là dãy
Hoàng Liên Sơn, dài tới 180km từ biên giới Việt – Trung cho đến tận Vạn
Yên, có chiều rộng trung bình khoảng 30km. Đa số các đỉnh núi thuộc dãy núi
này đều có độ cao trung bình từ 1.500 đến trên 3000m, thấp nhất cũng là
1.069m (đèo Khau Cọ). Nếu không kể dòng sông Hồng Hà cuồn cuộn nước
phù sa, Hoàng Liên Sơn chính là ranh giới chia đôi phần lãnh thổ Bắc Việt
Nam thành hai vùng Đông Bắc và Tây Bắc. Thuộc phần đất giáp biên giới với
CHDCDL là dãy núi sông Mã. Tuy không cao bằng Hoàng Liên Sơn, nhưng
sông Mã được xếp vào loại núi có độ cao trung bình (có đỉnh cao tới 1.800m).
Sông Mã chạy dài tới 500km, tỏa rộng sang cả Samneau thuộc lãnh thổ
CHDCDL và miền núi Tây Thanh – Nghệ. Giữa hai dãy núi đồ sộ trên là
phần đất thuộc vùng núi thấp tương đối rộng lớn thuộc lưu vực sông Đà với
nhiều cao nguyên đá vôi (dài 400km, rộng 10 – 20 km, cao 600 – 1.000m)
chạy suốt từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Quan Sơn, Quan Hóa... (Thanh Hóa).
Đây là vùng lãnh thổ bị chia cắt rất dữ dội và chỉ cách nay khoảng hơn vài
chục năm vẫn còn tương đối hoang vu. Xen giữa những dãy núi lớn nhỏ là các
bồn địa, các cánh đồng Mường Than (Than Uyên, Lai Châu), Mường Lò
(Nghĩa Lộ), Mường Tấc (Phù Yên, Bắc Yên), Mường Muổi (Thuận Châu),
Mường Vạt (Yên Châu), Mường Xang (Mộc Châu) thuộc tỉnh Sơn La;
Mường Ẳng, Mường Then (Điện Biên), Mường Lay (Lai Châu), Mường Mùn
(Mai Châu), Mường Bi (Tân Lạc), Mường Vang (Lạc Sơn), Mường Thàng
(Kỳ Sơn) và Mường Động (Kim Bôi) thuộc tỉnh Hòa Bình... Ngoài các cánh
đồng bồn địa lớn, nằm xen cài giữa các vùng núi đồi Tây Bắc còn có hàng
trăm cánh đồng diện tích vào loại trung bình và nhỏ. Tất cả những cánh đồng
bồn địa đó chính là những vùng tụ cư, lập làng khai phá đất đai thành ruộng
26
nước và sinh sống bằng nghề trồng lúa nước của các dân tộc nói ngôn ngữ
Tày – Thái, Việt – Mường và Hoa – Hán[28, tr. 15-17].
Nếu so sánh với các vùng khác ở Việt Nam, Tây Bắc là xứ sở của các
hiện tượng tự nhiên tương đối cực đoan. Khí hậu vùng này ấm hơn ở Đông
Bắc, nhờ có Hoàng Liên Sơn chắn bớt gió lạnh thổi từ Đông – Bắc xuống vào
mùa đông. Tuy vậy mùa đông ở Tây Bắc cũng không kém khắc nghiệt, nhất là
các vùng có độ cao trên 1.000m. Nhìn chung Tây Bắc thuộc vùng khí hậu
nhiệt đới ẩm, gió mùa.
Mùa mưa ở Tây Bắc thường kéo dài từ tháng Tư, tháng Năm đến
tháng Mười Dương lịch. Về mùa mưa khí hậu nóng bức, mưa rất nhiều, độ
ẩm không khí cao. Đầu mùa mưa thường hay có mưa đá. Từ giữa tháng Tư,
các cơn mưa thường kéo dài và kèm theo dông lớn. Mưa nhiều nhất tập
trung vào tháng Sáu, tháng Bảy Âm lịch (tháng Tám Dương lịch).Trong
khoảng thời gian các tháng mùa mưa, Tây Bắc thường có tổng lượng mưa
trung bình vào khoảng 1.500 – 2.300mm. Nhiệt độ trung bình vào mùa mưa
ở Tây Bắc thường ở mức 25C đến 35C.
Mùa khô lạnh ở Tây Bắc thường kéo dài từ tháng Mười một đến tháng
Tư năm sau (Dương lịch). Đặc điểm nổi bật của khí hậu Tây Bắc mùa này là
khô và hanh kèm theo lạnh buốt. Có những tháng về mùa này ở Tây Bắc
lượng mưa chỉ đạt tới 5 – 20mm. Vào những đợt rét nhất, nhiều nơi có nhiệt
độ trung bình xuống tới 4C hoặc 5C. Kèm theo lạnh là sương mù dày đặc,
gió Bấc và sương muối. Vào thời điểm giao mùa, tức là vào khoảng từ tháng
Hai đến tháng Tư (Dương lịch), ở Tây Bắc trời chuyển dần từ lạnh sang
nóng. Vào thời gian này, chênh lệch nhiệt độ giữa ban ngày và đêm ở Tây
Bắc rất cao, nhiều khi buổi trưa nhiệt độ lên tới 38C, nhưng về đêm nhiệt
độ lại xuống chỉ còn 18C - 20C. Chính quãng thời gian này, Tây Bắc rất
27
hay có gió khô nóng từ Lào thổi sang, cư dân Tây Bắc gọi đó là Nôm
Lào[28, tr. 23].
1.3.2. Con người, tín ngưỡng, tôn giáo và các lễ hội ở vùng Tây Bắc Việt
Nam
Hiện nay, dân số ở Tây Bắc có khoảng hơn năm triệu dân, phân bố ở
các tỉnh: Lào Cai: 614.595 người; Yên Bái: 740.397 người; Điện Biên:
490.306 người; Lai Châu: 370.502 người; Sơn La: 1.076.055 người; Hòa
Bình: 785.217 người (theo tổng điều tra dân số nhà ở Việt Nam 1/4/2009)[28,
tr. 35]. Tây Bắc là vùng tập trung đông các dân tộc anh em thuộc ba ngữ hệ
lớn Đông Nam Á đó là ngữ hệ Thái - Ka Đai, ngữ hệ Nam Á và ngữ hệ Hán –
Tạng. Ngữ hệ Thái – Ka Đai bao gồm các dân tộc: Thái, Tày, Nùng, Giáy,
Lào, Lự, Bố Y, Sán Chay, La Ha. Ngữ hệ Nam Á bao gồm các tộc người
nhóm Môn – Khamer là Khơ Mú, Xinh Mun, Kháng, Mảng; các tộc người
nhóm Việt – Mường là Mường, Kinh (Việt), Thổ; các tộc người nhóm
H’mông – Dao là H’mông – Dao. Ngữ hệ Hán – Tạng bao gồm các tộc người
Hoa (Hán), Hà Nhì, Lô Lô, Phù Lá, La Hủ, Cống, Si La[12, tr. 104-105].
Trong số các dân tộc vùng này thì người Thái có số dân đông nhất,
trình độ phát triển về mọi mặt đều cao hơn và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các
dân tộc khác, nhất là các dân tộc nói tiếng Môn – Khơme. Thời xưa quý tộc
người Thái là tầng lớp thống trị đối với đồng tộc và các dân tộc khác trong
vùng [11, tr. 485].
Vạn vật hữu linh, là tín ngưỡng của các cư dân vùng thấp. Họ quan
niệm muôn vật đều có linh hồn (phi). Sống dựa hoàn toàn vào tự nhiên, họ tin
vào sức mạnh của các thế lực siêu nhiên. Vì thế cầu cúng xin sự phù hộ mưa
thuận gió hòa, được mùa, người an, vật thịnh,... là cách phổ biến trong ứng
xử với tự nhiên của họ. Đó cũng là cơ sở phát sinh và tồn tại của các nghi lễ
28
truyền thống của các cư dân Tây Bắc. Về vũ trụ quan các dân tộc Tây Bắc
đều cho rằng có:
Mường trời (Mường Then), nơi ở của thần linh (Then), thế lực cai quản
vũ trụ và tổ tiên (phi đẳm) của con người ở mặt đất. Trên Mường Then, theo
họ gồm có: Mường một (nơi ở của phi một, chăm lo sức khỏe), Mường phi
cướt (nơi cư ngụ của linh hồn trẻ con chết yểu do phi cướt cai quản), Mường
ha (nơi cư ngụ của các ma chết do bệnh dịch, chết trận, hổ vồ, rắn cắn, chết
đuối, ngã cây), Mường hịt, Mường hạy (nơi trú ngụ của ma những người
khốn khỏ), Mường khlốc, khlái (nơi ở của ma cô đơn), Mường đẳm đoi, (nơi ở
của ma tổ tiên thường dân), Mường liên pan luông (nơi cư ngụ của ma tổ tiên
dòng họ quý tộc), Mường Then (mường của các thần linh trong coi vũ trụ)
bao gồm: Then luông (ông chủ Mường Then), Then chăng, then bun (coi phúc
lộc), Then hịt, Then hạy (coi người nghèo khổ), Then ló (then đúc ra con
người), Then chất then chát (quản sự sống chết), Then khơ then khọc (trông
coi sự sống), Then Xội (luật tục, tội lỗi), Then Chương (quản anh hùng, cứu
nhân độ thế), Then vi/Then thỏng (trông coi một nửa Mường Then và một nửa
Liên pan luông/mường tổ tiên quý tộc), Then hung, Then khao (trông coi mưa
gió,...), Then xính (trông coi các dòng họ).
Mường pưa/Mường bằng: thế giới của người trần gian.
Tầng dưới cùng ở dưới mặt đất (mường pa tịn), thế giới của những
người bé nhỏ, ăn bằng nước; và ở dưới nước (mương bua khú), thế giới của
ma thuồng luồng (phi to nguok)[ 28, tr. 394-395].
Về tín ngưỡng của các tộc người ở Tây Bắc, cũng cần phải nói thêm
rằng: Hầu hết, các tộc người còn lưu giữ nhiều hình thức tín ngưỡng lâu đời.
Đó là tục thờ vật tổ (totem) của các dòng họ Khơ Mú, Thái, Xinh Mun,
Kháng La Ha, Dao; tục cúng ma bản, ma mường (xên bản, xên mường; Tục
29
thờ cúng tổ tiên (xên phi hươn); ma thuật chữa bệnh; ma thuật làm hại (bằng
phăn, lắng lượt,...); Tục thờ thần săn bắn và các nghi lễ nông nghiệp như thờ
thần chăn nuôi, cầu mưa (xên xó phón), cúng thần gió (phí lôm/mô hả), tục
mẹ lúa (me ngo), cúng thần nước (xên phi nặm/to nguok), cúng ma rừng, ma
núi (xên phi pá), cúng cơm mới (xên khảu mớ), cúng xuống đồng...[28, tr.
396].
Cúng bái, kêu cầu ở Tây Bắc thường gắn chặt với các hoạt động kiếm
sống, vì thế mỗi mùa mỗi tiết cư dân trong vùng thường tổ chức một số nghi
thức cầu cúng nhất định. Đầu năm các tộc người Tây Bắc đều ăn tết Nguyên
đán. Người Mường vẫn gọi tết này là tết Cả, người Thái, người Tày, người
Nùng và người Giáy đều ăn Kin Chiêng (ăn tết tháng Giêng), người H’mông
ăn tết H’mông vào cuối tháng Mười hai Dương lịch, nhưng thông thường họ
cũng ăn tết Nguyên đán. Lễ hội xuống đồng (khai hạ/khuổng mùa) của người
Mường tổ chức từ mồng Bảy đến mồng Mười tháng Giêng. Ở Mường Bi (Tân
Lạc, Hòa Bình) theo tục lệ Mường, họ tổ chức đi săn, tu sửa mương, cúng
thần tại đình. Lồng tồng của người Tày, Nùng tổ chức từ mồng Năm đến Rằm
tháng Giêng, trên ruộng, với mục đích cầu mùa, không khác gì mấy so với
lồng tồng.Đoòng Chứ Thu Lùng của người Nùng là lễ cúng thần rừng, thần
núi, tổ chức vào tháng Giêng, cũng là lễ cầu an, cầu mùa. Kin Lảu Ló của các
mo Thái, Doông Mợi của mo Mường, Then của các Then Tày, Then Nùng...
cũng đều tổ chức vào tháng Giêng, hay đầu xuân để tạ ơn Phi Hươn và Phi
Tay của Mo Một và cầu an cho mọi người. Vào đầu xuân, người Thái ở các
mường thường tổ chức Xên Bản, Xên Mường (cúng Bản, cúng Mường), tại
Đông Sựa (rừng Bản) hay Đông Tu Mương (rừng Mường) để cầu an, cầu
mùa[28, tr. 396-397]. Khi đã kết thúc mùa màng (cuối hè, đầu thu), người
Thái Trắng, Tày, Nùng, Giáy... ăn Tết Xíp Xí (mười Bốn, tháng Bảy), hoặc
30
tết trẻ con (chiêng ninh nọi)[28, tr. 398]. Thu lúa mùa xong, các dân tộc Tây
Bắc đều cúng cơm mới (Xên Khảu Mớ) để tạ ơn tổ tiên [28, tr. 399].
1.3.3. Giới thiệu về dân tộc Thái ở Tây Bắc Việt Nam
Tộc người Thái ở Việt Nam là dân tộc nằm trong cộng đồng ngôn ngữ
Đông Nam Á thuộc ngành Tày – Thái và hiện nay, là dân tộc chiếm đa số ở
vùng Tây Bắc Việt Nam, người Thái đang sinh sống tại đó gồm có hai nhóm
ngành như: Thái Đen và Thái Trắng và trong hai nhóm này cũng có sự phân
chia thành nhiều nhóm địa phương.
Ngành Thái đen (Táy Đăm) cư trú chủ yếu ở tỉnh Sơn La, huyện Than
Uyên (Lai Châu), huyện Văn Chấn (Yên Bái) và Tuần Giáo, Điện Biên (tỉnh
Điện Biên). Ở miền Tây Nghệ An có nhóm Táy Thanh (hay Man Thanh), từ
Mường Thanh (Điện Biên) qua Lào, vào Thanh Hóa, đến Nghệ An cách đây
hai, ba trăm năm. Nhóm này gần gũi với nhóm Thái ở huyện Yên Châu (Sơn
La) và chịu ảnh hưởng nhiều văn hóa Lào. Nhóm Táy Mười ban đầu là một
bộ phận cư dân Thái ở Mường Muổi (Sơn La) và chịu ảnh hưởng nhiều văn
hóa Lào, đi vào Thanh Hóa và Nghệ An từ thời vua Lê Thái Tổ (đầu thế kỷ
thứ XV) nay cư trú xen kẽ với người Táy Khăng từ Lào sang. Ngành Thái
trắng (Táy Khao hay Táy Đón) cư trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu và các huyện
Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù Yên (Sơn La).Ở Đà Bắc (Hòa Bình) có nhóm tự
nhận là Táy Đón được gọi là thổ. Ở vùng Văn Bàn, Dương Quỳ thuộc tỉnh
Lào Cai, có một số Thái Trắng sống lẫn với Thái Đen, nay đã chịu ảnh hưởng
của văn hóa Tày và tự nhận là Tày, mặc dù vẫn tự gọi mình là Táy Đón, Táy
Đăm. Từ hai ngành chia thành nhiều nhóm phức tạp cư trú ở Mộc Châu (Sơn
La), Mai Châu (Hòa Bình), miền núi Thanh Hóa và Nghệ An chịu ảnh hưởng
nhiều của văn hóa Lào và văn hóa Mường. Những ngành Thái ở Việt Nam
31
đều chung một gốc với các nhóm Thái ở Nam Trung Hoa, ở Lào, ở Thái Lan
và Miến Điện[25, tr. 19-20].
Đặc biệt đáng chú ý là Mường Then, Mường Theng hay Mường Thanh
tức huyện Điện Biên, nơi diễn ra trận đánh Điện Biên Phủ làm chấn động địa
cầu. Xưa Mường Then có lẽ rộng hơn bây giờ, bao gồm cả miền Mường Tè
(Lai Châu) sông Mã (Sơn La) và một phần tỉnh Phong Sa Ly thuộc Lào nữa.
Hầu hết các tộc người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, ở Lào và ở cả Thái Lan đều
nhận Mường Then là nơi quê tổ của mình. Sử Lào có sự tích Khun Bôrom
được nhà trời phái xuống, đầu tiên đến đất Mường Theng, từ đấy để lập nước
ở Luông Pha Bang và các nơi[25, tr. 24].
Trong tiếng Thái từ Bản Mường có nghĩa như sau: Bản là làng “người
Thái sống định cư thành từng bản. Mỗi bản là một địa vực cư trú riêng. Ranh
giới bản được xác định bằng các mốc tự nhiên như: đèo dốc, con đường, con
mương, gốc cây cổ thụ, chỗ ngoặt,...” [27, tr. 54]. Còn Mường là: “một danh
từ trong ngôn ngữ Thái (“Mường” trong bản mường”) là “đơn vị hành chính
cấp trên bản” (trong xã hội Thái trước đây). “Mường thường được hiểu theo
hai nghĩa: a) Là vùng đất rộng lớn cư trú một cộng đồng người như Mường
Thay/Thái, Mường Keo/Kinh, Mường Lào; hay là một nước như Mường Hán
(Trung Quốc), Mường Liên Xô, Mường Việt Nam...; b) Là khu vực đất đai do
một chúa đất (trước cách mạng tháng Tám 1945) cai quản. Khu vực đó xưa có
thể tương ứng với một vùng rộng lớn đứng đầu bởi một “chẩu phen đen”
(chúa đất); với một châu, một huyện như Mường Lay, Mường Mộc (Tây
Bắc), đứng đầu là một chúa đất lớn (“án nha”) hay với một xã như Mường Bú
(Sơn La) đứng đầu là một chúa đất nhỏ (“phìa”)[29, tr. 243].
Người Thái đã tạo dựng nên một nền văn hóa tộc người độc đáo từ rất
sớm. Nền văn hóa này được các nhà nghiên cứu gọi là văn hóa thung lũng,
32
cũng được coi là tiền thân của văn hóa đồng bằng. Những đặc điểm văn hóa
được thể hiện trong mọi mặt đời sống tộc người Thái ở Tây Bắc. Trong đó
lúa nước sớm trở thành cây lương thực chính của đồng bào Thái với các
giống lúa nếp dẻo, thơm, thậm chí còn có một loại lúa nếp được gọi là nếp
quên chồng (khạu lưm phua). Tập quán ăn cơm nếp với các dạng thức ăn
khô như nướng, đồ, vùi tro bếp... đã trở thành điểm đặc trưng trong văn hóa
ẩm thực của người Thái. Người Thái sớm định cư thành các bản mường
đông đúc, tụ cư theo quan hệ láng giềng, vận hành theo chế độ dân chủ cộng
xã mà tạo bản là người đứng đầu, được coi là ông bố chung (Po bản). Là cư
dân trồng lúa nước lâu đời nên các lễ hội của người Thái thường liên quan
đến nông nghiệp và cầu mùa [12, tr. 109].
Bởi dân tộc Thái có tín ngưỡng đa thần nên thầy cúng trong văn hóa
Thái có vị trí rất quan trọng được gọi là thầy mo. Trong đời sống tâm linh tín
ngưỡng, vai trò của thầy mo được thể hiện rất rõ trong các nghi lễ từ khi con
người sinh ra cho đến khi mất đi. Thầy mo được cho là người có khả năng
giao tiếp với ma, thần – những thế lực siêu nhiên, nên người Thái thường gắn
cuộc đời của họ với những câu chuyện kỳ lạ[27, tr. 208]
33
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Văn hoá rừng là một tập hợp các ứng xử đặc trưng gắn với hệ sinh thái
rừng của các cộng đồng sở tại, được thể hiện trong quan niệm, các nghi lễ, các
hình thức quản lý, khai thác và bảo vệ rừng của họ, rồi dần dần trở thành
phong tục tập quán, tín ngưỡng tốt đẹp được chuyển từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Trong luận văn này, tác giả sẽ dựa trên khái niệm văn hoá rừng để trình
bày và so sánh văn hoá rừng của các cộng đồng sở tại – mà chủ yếu là của
người Lào ở vùng Tây Bắc Lào và người Thái ở vùng Tây Bắc Việt Nam.
Vùng Tây Bắc Lào là một khu vực không rộng lắm, phần lớn địa hình
là núi cao và rừng..., là nơi hội tụ của khoảng 20 dân tộc, có tín ngưỡng,
phong tục tập quán, và các lễ hội khác nhau như một cây hoa đa màu. Trong
cộng đồng các tộc người sinh sống ở vùng Tây Bắc Lào, người Lào là một
trong nhóm người đông. Từ xưa đến nay Phật giáo có vai trò rất quan trọng và
ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của người Lào. Bên cạnh đó, người Lào
cũng thực hành tín ngưỡng đa thần.
Tây Bắc Việt Nam là khu vực có địa hình hiểm trở, đa phần lãnh thổ là
đồi núi xen lẫn các thung lũng, là nơi sinh sống của khoảng 20 dân tộc, trong
đó người Thái là dân tộc đông nhất ở Tây Bắc với hai nhóm: Thái Tắng và
Thái Đen. Trong hai nhóm này còn chia thành nhiều ngành khác nhau cư trú ở
vùng Tây Bắc. Họ là tộc người chuyên trồng lúa nước vì thế các lễ hội của họ
cũng liên quan đến nông nghiệp. Người Thái không theo một tôn giáo lớn nào
mà theo các tín ngưỡng đa thần.
34
Chƣơng 2
VĂN HÓA RỪNG NHÌN TỪ TÂY BẮC LÀO VÀ TÂY BẮC VIỆT
NAM
2.1. Văn hóa rừng của ngƣời Lào ở Tây Bắc Lào
2.1.1. Nhận thức của con người về thế giới rừng
Theo ông Khamman, phó trưởng làng Suandara cho rằng: “Rừng là thế
giới rộng lớn mà con người không thể hiểu được, là nơi con người phải tôn
trọng, lo sợ bởi có lực lượng siêu nhiên cai quản, nếu con người ứng xử với
rừng tốt rừng sẽ bù cái tốt lại cho con người. Do vậy những người sống cùng
với rừng, rừng không chỉ là vật chất mà là tinh thần có giá trị vô cùng cao”.
Ông Thongchanh, Kuan chặm của làng Suandara (người hướng dẫn
làm các tục lễ trong làng) cho biết:“Ngoài các vật chất mà rừng đã đáp ứng
nhu cầu của con người, rừng còn là điểm tựa của người dân về tinh thần bởi
các thần linh đều trú ngụ ở rừng và phù hộ cho những con người làm tốt,
nhưng đối với kẻ làm xấu các thần linh và các loại ma sẽ không phù hộ. Vì
thế con người mới thể hiện cách tôn trọng, sợ hãi thế giới này thông qua các
nghi lễ, có các nghi lễ và phong tục tập quán liên quan đến rừng và phải tổ
chức ở rừng mà không thể tổ chức ở nơi khác thay rừng được”.
Ông Saly, trưởng làng cho biết thêm: “Hiện nay dù cuộc sống vật chất
thay đổi rất nhiều so với ngày xưa con người có nhiều cách để khai thác tự
nhiên nói chung, rừng nói riêng nhưng trong đó con người cũng phải biết kính
trọng, bảo vệ tự nhiên sống cùng nhau hai bên đều có ích và chúng ta vẫn tin
rừng là nơi rất thiêng”.
2.1.2. Cách phân loại rừng của người Lào
35
Ở làng Suandara, rừng được chia thành 3 loại và mỗi loại rừng cũng có
chức năng khác nhau như: rừng thiêng, rừng cấm, rừng sản xuất.
Rừng thiêng gồm có:
Rừng ma (pa sạ, pa khăm):Theo quan niệm của Phật giáo, không có gì
tồn tại mãi mãi, không có gì hoàn toàn chắc chắn, chỉ có một sự thật chắc
chắn nhất đó là cái chết –điều không ai trên thế giới này tránh được. Người
Lào luôn tuân theo quan niệm của Phật giáo, có nhân có quả nếu khi còn sống
ai đã làm những thứ gì sau khi chết người đó cũng phải chịu những thứ mà
mình làm, cụ thể như: nếu khi còn sống đã làm những thứ tốt khi mất linh hồn
sẽ đi và được sắp xếp theo đường đó, ngược lại nếu khi còn sống chỉ làm
những thứ ác tất nhiên thế giới sau khi mất sẽ không lành. Và chúng ta sẽ
không thể biết được sau khi mất linh hồn của người chết sẽ đi đâu vì vậy (pa
sạ) là nơi cuối mà người nhà, họ hàng, bạn bè của người mất có thể đi tiễn họ.
Rừng ma của làng Suandara có diện tích tất cả là hai ha, rừng được đặt ở cuối
làng. Trong rừng có nhiều cây to cổ thụ nhiều năm, có tổ ong, và các loại
động thực vật khác. Nói chung, hệ sinh thái của rừng không thay đổi nhiều
lắm bởi không ai được khai thác mọi thứ trong rừng trừ những ngày hỏa táng,
ngày thiêu xác người chết – là thời điểm mà dân trong làng có thể chặt cây,
lấy củi để thiêu và cùng ngày đó dân làng có thể lấy mật ong, hái rau, hoặc
săn bắt. Nhưng nếu sau ngày thiêu rồi mà ai đó vẫn cứng đầu lấy của trong
rừng thì anh ta sẽ gặp phải những rủi ro: bị ốm đau, đôi khi có thể bị chết.
Rừng ma (pa sạ) ngoài có vai trò thiêu những xác người chết nó còn là nơi đất
thiêng mọi người phải tôn trọng, khi qua lại rừng phải đi nhẹ nói khẽ, không
được nói tục, chửi nhau. Ai làm trái những qui định này sẽ gặp ma - đó là lời
khuyên của các ông bà từ thế hệ trước và người già hiện nay vẫn tiếp tục
khuyên con cháu như vậy.
36
Rừng thần làng (pa hó, đồng hó): Là nơi trú ngụ của thần làng, cũng
là rừng thiêng. Trong rừng có một cây to, to nhất trong rừng này, dân trong
làng tin rằng cây đó là nhà của thần làng trong khu vực rừng này. Người
làng không được phép chặt cây nhưng có thể lấy củi từ cây tự chết theo tự
nhiên, có thể hái rau, nhặt nấm theo mùa, ... Mỗi năm, dân làng tổ chức nghi
lễ cúng thần làng hai lần ở khu vực này, nếu năm nào bị mất mùa, vật nuôi
của dân bị bệnh dịch lây lan hoặc chết nhiều, họ cũng tổ chức lễ cúng thần
làng ở khu vực rừng này. Khi có ai ra hoặc vào làng, có bé mới sinh, đám
cưới, xây nhà mới, ... các già làng và ông Kuan Chặm phải đi khấn thần làng
thông báo cho họ biết. Rừng đồng hó đóng vai trò rất quan trọng, là điểm tựa
về tinh thần của dân làng Suandara.
Rừng cấm (pa sa nguôn, pa huông hạm): Loại rừng này không liên
quan đến các tổ chức nghi lễ của làng. Khu vực rừng cấm được dân làng
quyết định chọn khu vực rừng đầu suối, có nhiều cây cổ thụ -là nguồn cung
cấp nước uống, nước dùng, gỗ, lâm sản. Rừng này không được khai thác hoặc
sản xuất theo cá nhân bởi nó là tài sản chung của làng. Mọi thứ trong rừng sẽ
được khai thác khi làng cần dùng vào việc chung. Nếu ai vi phạm sẽ bị phạt
bằng tiền, ít nhiều tùy theo trường hợp và bị thu lại những thứ đã lấy, nhưng
hiện nay các hình thức phạt như ngày xưa không còn tồn tại nữa nếu ai vi
phạm cũng phải tuân theo pháp luật. Ngày xưa, rừng này dân làng có thể khai
thác gỗ, lâm thổ sản, săn bắt, hái nhặt rau theo mùa được bình thường, nhưng
khi nào có nhu cầu chặt cây để xây nhà các thành viên trong làng phải họp
nhau và xin ý kiến của già làng và trưởng làng, nếu mọi người đồng ý họ sẽ
cùng nhau vào rừng để giúp nhau chọn cây rồi chặt. Trong trường hợp ai tìm
thấy tổ ong nhưng chưa lấy được nó phải làm dấu hiệu như: đan mảnh phên
bằng tre hoặc bằng cỏ và đặt nó ở dưới gốc cây đó để báo cho người khác đi
vào rừng biết, tổ ong đó có người thấy rồi. Nếu có người nào đó vào rừng và
37
gặp những dấu hiệu đó mà vẫn cứng đầu lấy của người ta người đó sẽ bị phạt;
hình thức phạt của ngày xưa, chủ yếu là không phạt bằng tiền nhưng người
nào bị phạt phải ra chùa uống nước để hứa lần sau sẽ không làm thế nữa, và
người bị phạt sẽ cảm thấy rất xấu hổ và người Lào xưa tin rằng: những người
bị phạt hay bị người khác chửi, người đó sẽ làm ăn không ra mọi thứ trong
đời sẽ thành đen, do vây, người xưa họ luôn tin rằng: ở hiền sẽ gặp được lành.
Hình thức phạt bằng tiền cũng có nhưng không phổ biến lắm. Ông
Xiengkham đã kể rằng: “Ngày xưa, mỗi năm cứ đến ngày Khẩu Văn Xả (tuần
chay kéo dài ba tháng dành cho công việc ăn chay niệm Phật của các nhà sư,
xét để bạt, kỷ luật…)[10, tr. 217] bắt đầu từ tháng Bảy – Chín (Dương lịch) –
là tháng Tám – Tháng Mười Lào, có một số năm là từ tháng Chín – Tháng
Mười Một Lào, trong ba tháng đó các thành viên trong làng không ai vào rừng
này với mục đích săn bắn các thú trong rừng bởi thời gian này người Lào sẽ
kiêng: không sát sinh và cố gắng không làm những thứ ác,…”
Rừng sản xuất (pa phạ lịt): Theo Cục Lâm nghiệp của nước Cộng hòa
Dân chủ Nhân Dân Lào (2006), rừng sản xuất “là rừng và đất rừng, được phân
chia để đáp ứng nhu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội quốc gia và cuộc
sống của người dân về gỗ và sản phẩm rừng bằng cách thức thông thường
vĩnh viễn, mà không có tác động nghiêm trọng tới môi trường [42, tr. 4]. Khu
vực rừng sản xuất cấp làng hoặc nhóm làng: về việc quản lý rừng sản xuất lâu
dài (2002) là khu vực rừng hoặc khu vực đất rừng được quy định trong khu
vực quản lý rừng sản xuất cấp huyện, theo biên giới của một hoặc nhiều làng
để thực hiện việc quản lý và sử dụng bền vững [42, tr. 5].
Bộ Nông và Lâm nghiệp của Lào (2006) đã quy định rằng: rừng và lâm
sản mà nhà nước đã trao cho làng tự quản lý, nhưng vẫn là quyền sở hữu của
quốc dân, nhà nước nhất định không cho phép cho cá nhân hoặc một tổ chức
nào đó khai thác gỗ bằng cách thức kinh tế nhưng cho phép cho gia đình
38
người dân trong làng khai thác để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và có thể sử
dụng trong gia đình nhưng phải được phép từ trưởng làng hoặc văn phòng
nông và lâm nghiệp của huyện. Còn gỗ mà cá nhân hoặc một tổ chức nào đó
đã tự trồng và khôi phục bằng vốn và sức của mình bằng cách nhà nước đã
công nhận là quyền sở hữu của họ, họ có quyền quản lý sử dụng, nhận được
thành quả, chuyển nhượng, trao quyền và thừa kế [ 42, tr. 8].
Pa phạ lịt của làng Suandara được nhà nước phân chia cho làng tự quản
lý nhưng khi đóng thuế hoặc trong trường hợp có người dân bị phạt, phải
đóng cho văn phòng nông và lâm nghiệp của huyện. Diện tích rừng sản xuất
tùy theo mỗi gia đình, rừng sản xuất chủ yếu là tài sản được chuyển nhượng
từ ông bà bố mẹ của họ và được chuyển nhượng từ thế hệ này sang thế hệ
khác trừ trường hợp họ bán cho người khác, mỗi năm họ phải đóng thuế cho
nhà nước theo diện tích đất của mình. Ông Saly - trưởng làng Suandara cho
biết rằng: “Nghề chính của dân ở đây là trồng trọt và chăn nuôi, do vậy, khu
vực rừng sản xuất của làng cũng có nhiều, có một số gia đình trồng các loài
cây công nghiệp - cụ thể như: cây cao su, cây tếch, cây đót,... các cây lương
thực như: vừng, hạt bo bo, lạc,... còn các đồng bào dân tộc H’mông họ cũng
trồng ngô, làm nương rẫy trồng lúa,...
Ông Thongchanh – già làng cho rằng: “Luật lệ để bảo vệ rừng ngày xưa
không có biên bản chính thức, nhưng theo hình thức chuyển miệng của ông bà
xưa đã dặn dạy làm cho mọi người phải tuân theo, như trong khu vực rừng
thiêng không ai dám làm linh tinh, dù bị phạt hay không mọi thành viên trong
làng cũng không dám khai thác gỗ hay săn bắt các thú trong rừng mỗi năm cứ
đến mùa ăn chay (Bun Khẩu Phăn Xả) mọi người sẽ không vào rừng khai thác
gỗ, bởi nếu khai thác trong mùa này gỗ sẽ bị mọt, mối ăn gỗ hết do mùa này
là mùa mưa trời ẩm, một điều nữa mùa này, người Lào không sát sinh”
(Phỏng vấn sâu ngày 19 tháng 3 năm 2019).
39
2.1.3. Chức năng sinh kế của rừng
Trong xã hội truyền thống của người Lào cũng như hiện nay, rừng đóng
vai trò như một nguồn sinh kế rất quan trọng.
Theo ông Thongchanh, “Sau khi dựng bản lập mường, theo truyền
thống của người Lào là ở nhà sàn. Rừng là nơi cung cấp gỗ và các vật liệu
khác cho chúng ta để xây được nhà che chở nắng mưa. Không chỉ thế nó còn
là kho dược liệu. Người xưa, mỗi năm, các thầy thuốc sẽ vào rừng để tìm
thuốc rồi mang về phơi khô hoặc bất kỳ lúc nào cần dùng đặc biệt khi trong
làng có phụ nữ sắp sinh, người nhà phải đi nhờ thầy thuốc vào rừng tìm các
loại cây thuốc để đến khi nào sinh họ sẽ đun cho mẹ bé uống để phục hồi sức
khỏe cho người mẹ. Rừng còn là kho cung cấp đồ ăn cho chúng ta cụ thể như:
các loại rau, nấm, măng, các thú rừng, …”(Phỏng vấn sâu ngày 19 tháng 3
năm 2019).
Ông Khamman - phó trưởng làng, cho biết: “Từ khi tôi nhớ được, lúc
đó, đường đi lại không thuận tiện như hiện nay, muốn giao lưu giao tiếp với
làng bên cạnh kể cả vận chuyển mọi thứ phải nhờ đường thủy. Làng của
chúng ta có một điều rất hay là được dựng ở bên cạnh sông Khan, nó đã tạo
điều kiện thuận lợi cho dân làng nhưng muốn giao thông trên sống cái phương
tiện quan trọng nhất là thuyền. Hồi đó, dường như gia đình nào cũng có
thuyền. Để đóng được một con thuyền, nhất định phải có gỗ để đóng, tất
nhiên gỗ đó phải vào rừng mà tìm rồi chặt về đóng thuyền. Rừng còn là nơi
làm ăn sản xuất các lương thực thực phẩm như: lúa, ngô, hạt bo bo, vừng, lạc,
… Khi nào đến mùa sản xuất, dân ở đây sẽ tập trung làm việc ở trên nương
cho đến ngày rằm của mỗi tháng hoặc trong làng có việc như: có người mất,
ăn cưới, … mới được nghỉ và trong ngày nghỉ đó họ phải lên rừng tìm củi để
phục vụ cho việc nấu nướng trong gia đình. Hồi xưa, trong mùa nông nhàn,
40
các nam luôn rủ nhau vào rừng tìm lâm thổ sản như: mây, mật ong, một số
loại nhựa cây, … Nói chung, cuộc sống ngày xưa, của dân đây chủ yếu là tựa
vào rừng có thể nói nhờ có rừng chúng ta mới sống được” (Phỏng vấn sâu
ngày 19 tháng 3 Năm 2019).
Ông Thongchanh nói thêm: “Hồi đất nước có chiến tranh, rừng đóng
vai tròng như nơi che chở bom cho chúng ta cho đến ngày nay rừng còn tiếp
tục che bão cho chúng ta cũng như các lương thực mà ta trồng ở trên rẫy”
(Phỏng vấn sâu ngày 19 Tháng 3 Năm 2019).
Sau nay sẽ kể đến vai trò trong đời sống tinh thần, ông Thongchanh cho
biết thêm: “Ngoài rừng đã đáp ứng cho ta nhưng nhu cầu vật chất rừng còn là
điểm tin tựa của dân làng. Theo nhận thức của chúng tôi, rừng là nơi trú ngụ
của lực lượng siêu nhiên cái mà chúng ta không thể nhìn thấy bằng con mắt vì
thế một số phong tục tập quán của làng mới liên quan đến rừng cũng như
thiên nhiên, rừng là nơi tổ chức một số nghi lễ liên quan đến tín ngưỡng của
người Lào” (Phỏng vấn sâu ngày 19 tháng 3 Năm 2019).
2.1.4. Các nghi lễ và thực hành văn hóa gắn với rừng
Do điều kiện tự nhiên tác động vào cuộc sống của con người, nó đã tạo
nên thói quen và dần dần trở thành văn hóa, phong tục tập quán của những
người sống ở vùng đó. Đối với người sống ở vùng đồng bằng với nền văn hóa
lúa nước, cuộc sống phần lớn sẽ liên quan đến nông nghiệp chắc chắn các
phong tục tập quán của họ sẽ không thể không liên quan đến nông nghiệp,
cũng không khác gì những người sống ở vùng ven bờ biển hoặc bờ sông các
nghi lễ quanh năm của họ luôn gắn liền với sông biển hay sông nước.
Đối với người sống ở vùng núi rừng, thế giới siêu nhiên là thế giới mọi
người phải tôn trọng, bởi họ tin rằng mọi thứ đều có hồn, có chủ do vậy hằng
năm họ phải tổ chức các nghi lễ liên quan đến tự nhiên, nói cụ thể là rừng.
41
Các nghi lễ liên quan đến rừng của làng Suandara sẽ được tổ chức hằng năm
hoặc trong trường hợp có nhiều sự kiện đột ngột xảy ra, có người vi phạm luật
lệ của làng. Thời gian tổ chức các nghi lễ, lễ hội dân gian ở Lào phần lớn sẽ
tính theo lịch Lào.
Lịch Lào: Phật lịch Lào dựa trên chuyển dịch của mặt trời và mặt
trăng. Theo đó, Tết năm mới được tính bắt đầu vào tháng Mười hai, nhưng
người Lào chọn lễ mừng Năm mới vào tháng Tư, là tháng lành hơn cả. Lịch
Lào là sự kết hợp của lịch Thái – Khmer cổ và lịch Hoa – Việt mà trong đó
tên mỗi năm được đặt theo tên của một con vật. Vì năm Phật lịch Lào tính
theo âm lịch, nên việc xác định thời điểm cho ngày Tết thay đổi theo từng năm
[ 33, tr. 142-143].
Các nghi lễ dưới đây được tổ chức theo lịch Lào và mỗi tháng trong
năm người Lào sẽ gọi các tháng đó là Đươn Lào (tháng Lào), lịch Lào tính bắt
đầu từ tháng Mười hai (Dương lịch) nên nó nhanh hơn Dương lịch 1 tháng.
Thí du: tháng Một (Dương lịch) là tháng Hai Lào.
2.1.4.1. Lễ cúng thần làng (khăm hó)
“Khăm hó” nếu dịch từ tiếng Lào sang là “kiêng nhà” - từ “ nhà” ở đây
là nhà của thần làng. Lễ Khăm hó hoặc cúng thần làng được tổ chức thường
xuyên mỗi năm hai lần. Lần đầu của năm tổ chức vào hai ngày trước ngày
rằm tháng Bảy Lào (tháng Sáu Dương lịch) và kéo dài trong vòng 3 ngày; lần
thứ hai tổ chức trước ngày rằm tháng Mười hai hai ngày (tháng Mười một
Dương lịch) và diễn ra chỉ 1 ngày. Mục đích chính của nghi lễ này là cúng
thần làng, cầu mong những thứ tốt đẹp cho các người dân trong làng, cho mùa
màng bội thu, vật nuôi không bị dịch bệnh, ...
Những người già trong làng kể rằng: Ngày xưa, một đêm trước ngày
Khăm hó, khoảng 7 giờ tối sẽ nghe thấy tiếng ngựa chạy quanh làng có lúc
42
nhanh lúc chậm khoảng 2-3 vòng, dân làng tin rằng đó là thần làng đang cưỡi
ngựa đi quan sát làng. Ông Xiêngkhăm, già làng cho biết thêm: “Khi ông còn
là thanh niên ông còn nhớ và sẽ không bao giờ quên, hôm đó là một ngày
trước ngày Khăm hó gia đình nào cũng phải chuẩn bị cho lễ ngày mai nếu ai
đang xây nhà hoặc bất cứ làm việc gì cũng phải dừng lại. Và trong ngày đó,
có một gia đình bên cạnh nhà ông Xiêngkhăm đang lập rào bằng tre quanh
nhà nhưng chưa xong và họ để tre ở chỗ đường đi cuối làng. Đến khoảng 7
giờ tối cùng ngày, thần làng cưỡi ngựa đi qua chỗ đó và thấy họ đặt tre không
đúng chỗ làm cho mọi người đi lại không tiện nên thần tức giận và làm đổ tất
cả hàng rào của nhà đó. Sau khi tiếng ngựa đi qua mọi người ra ngoài xem ai
cũng giật mình khi thấy rào bị đổ như có người nào đó cố tình làm đổ nó. Ông
còn kể rằng: Có một năm các làng trong khu vực xung quanh bị bệnh dịch lây
lan rất nặng đến mức chỉ cần thấy người này chết thì người bên cạnh cũng ngã
xuống và chết theo. Lúc đó, dân làng Suandara đã đóng cửa làng, người trong
không được ra, người ngoài không được vào và tổ chức lễ cúng thần làng dù
chưa đến ngày nhưng các già làng cũng phải chọn ngày đẹp. Nhờ thế, dân
trong làng không ai bị bệnh lây và không bị chết. Sau khi sự kiện này đã qua
đi, các làng bên cạnh cũng hỏi sao dân làng này không bị chết như làng họ.
Dù không có bằng chứng rõ ràng nhưng mọi người đều tin rằng đó là do sự
bảo hộ của thần làng. Cuộc phỏng vấn còn cho tác giả biết thêm rằng, đã
nhiều lần người dân muốn bỏ đi các nghi lễ này nhưng không thể làm được
bởi nếu không cúng thần cũng như không tôn trọng thiên nhiên, thì thiên
nhiên sẽ bù lại cho chúng ta những hậu quả tai hại mà không ai mong muốn.
Lễ cúng thần làng lần đầu của năm được tổ chức trong vòng 3 ngày bởi
trong tháng đó dân làng đã trồng trọt và làm nương rẫy xong rồi, là thời gian
nông nhàn chỉ đợi trồng lúa nước thôi. Một điều nữa là vào tháng đó, ở Lào
43
chuẩn bị bước sang mùa mưa, đi lại cũng khó khăn nên thời gian kiêng làng
cũng hơi dài.
Cách thức cúng thần làng của làng suandara: Trước ngày rằm tháng
Bảy Lào hai ngày cho đến ngày rằm gồm có ba ngày là ngày đẹp nhất mà họ
chọn làm lễ Khăm hó. Đến ngày lễ, nam giới chuẩn bị con gà, rượu cần, và
cùng nhau đi vào rừng thần làng trước mọi người để xây nhà cho thần làng
(gồm có: chuồng ngựa, chuồng vịt, gà, nhà chính). Mỗi năm sẽ xây hai lần
hoặc lần nào sẽ cúng mới xây, việc chuẩn bị củi mọi thứ cho việc nấu gà cũng
là việc của nam còn nữ đưa mâm ngọt của gia đình mình lên nhà Kuan Chặm
(người hướng dẫn làm lễ của làng) mỗi gia đình 1 mâm, trong mâm gồm có
bánh ngọt, hoa quả, xôi, khoai,...mấy món cũng được nhưng không được cho
món mặn vào. Sau khi đưa các mâm lên nhà Kuan Chặm rồi, ông Kuan chặm
sẽ làm Khăn hạ (lễ vật là khay gồm bông, nhang, đèn mỗi loại năm cặp)[34,
tr. 184] rồi dẫn mọi người nhấc mâm của gia đình mình đi rừng Đồng hó
(rừng thần làng), sau khi mọi người trong làng (không tính các gia đình đồng
bào dân tộc H’mông) kể cả các trẻ con đã đến rừng Đồng hó rồi, ông Kuan
chặm sẽ bắt đầu nhấc một mâm ngọt, lên chỗ nhà thần làng và khấn rằng:
Hay Chạu Hó Mà Khốp Mà Kín Năm Cắn
Kín Lẹo Hay Hặc Sốm Hặc Sá Lục Lán Hai Du Đí Mì Heng
Việc Ăn Đạy Nay Bạn Co Hai Hắc Sôm Hắc Sa Mốt Đáy.
Lời dịch:
Xin mời thần đến ăn cùng nhau
Ăn rồi xin thần phù hộ cho con cháu có sức khỏe dồi dào
Có việc gì trong làng cũng xin thần phù hộ cho.
44
Sau khi ông Kuan chặm khấn xong ông sẽ xuống và nhấc mâm ngọt đi
đặt ở chỗ chuồng ngựa và chuồng con thú của thần làng mỗi chuồng một mâm
sau đó các con trai sẽ bắt đầu nấu gà (luộc gà) tại chỗ rừng đó, sau khi gà
chín, ông Kuan chặm nhấc gà và một chum rượu cần lên đặt ở nhà thần làng
và khấn thêm rằng:
Bát Nị Khua Súc Luộc Đi Lẹo Nọ
Pha Căn Mà Khốp Mà Kín Đơ
Kín Mắn Im Thoong Nứa Kín Mắn Lứa Thoong Tạy
Kín Leo Hạy Hắc Sốm Hặc Sá Lục Nay Bạn Lán Nay Suốn
Thúc Khôn Hay Du Đi Mi Heng Đơ.
Lời dịch:
Giờ đây nấu nướng luộc chín rồi
Cùng nhau đến ăn nhé
Ăn cho no bụng Bắc ăn cho thừa bụng Nam
Ăn rồi xin thần bảo hộ con trong làng cháu trong vườn
Phù hộ cho mọi người có sức khỏe dồi dào nhé.
Sau khi khấn xong, ông sẽ xuống và lấy gà đi đặt ở chỗ chuồng ngựa,
chuồng con thú của thần làng mỗi chuồng một con, khoảng vài phút sau ông
Kuan chặm quay lại nhà thần làng và lên nói:
Ờ! Hót Nị Co Sôm Mà Phà Khuôn Lẹo Nọ
Si Đại Lậc Đại Là La Nọ.
Lời dịch:
Ờ!đến đây là vừa giờ đúng giờ rồi
Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam.pdf
Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam.pdf
Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam.pdf
Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam.pdf
Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam.pdf
Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam.pdf
Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam.pdf

Más contenido relacionado

Similar a Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam.pdf

Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
https://www.facebook.com/garmentspace
 

Similar a Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam.pdf (20)

Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam TânLễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân
 
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca TàyẢnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
 
Đề tài sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốc, 2018
Đề tài  sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốc,  2018Đề tài  sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốc,  2018
Đề tài sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốc, 2018
 
Sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốc
Sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn QuốcSổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốc
Sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốc
 
Luận văn thạc sĩ: Truyện cổ dân gian Châu Ro, HAY, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Truyện cổ dân gian Châu Ro, HAY, 9đLuận văn thạc sĩ: Truyện cổ dân gian Châu Ro, HAY, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Truyện cổ dân gian Châu Ro, HAY, 9đ
 
Sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốc
Sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn QuốcSổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốc
Sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốc
 
Di tích chùa châu lâm phường thụy khuê quận tây hồ thành phố hà nội 8543743
Di tích chùa châu lâm phường thụy khuê quận tây hồ thành phố hà nội 8543743Di tích chùa châu lâm phường thụy khuê quận tây hồ thành phố hà nội 8543743
Di tích chùa châu lâm phường thụy khuê quận tây hồ thành phố hà nội 8543743
 
Luận văn: Nghiên cứu tác phẩm chữ Nôm Dao Hạ bản triều khoa
Luận văn: Nghiên cứu tác phẩm chữ Nôm Dao Hạ bản triều khoaLuận văn: Nghiên cứu tác phẩm chữ Nôm Dao Hạ bản triều khoa
Luận văn: Nghiên cứu tác phẩm chữ Nôm Dao Hạ bản triều khoa
 
NGHIÊN CỨU SO SÁNH DỊNG HỌ CỦA NHĨM HMƠNG TRẮNG VÀ HMƠNG HOA Ở XÃ BẠCH NGỌC.pdf
NGHIÊN CỨU SO SÁNH DỊNG HỌ CỦA NHĨM HMƠNG TRẮNG VÀ HMƠNG HOA Ở XÃ BẠCH NGỌC.pdfNGHIÊN CỨU SO SÁNH DỊNG HỌ CỦA NHĨM HMƠNG TRẮNG VÀ HMƠNG HOA Ở XÃ BẠCH NGỌC.pdf
NGHIÊN CỨU SO SÁNH DỊNG HỌ CỦA NHĨM HMƠNG TRẮNG VÀ HMƠNG HOA Ở XÃ BẠCH NGỌC.pdf
 
Luận án: So sánh dòng họ của nhóm Hmông Trắng và Hmông Hoa - Gửi miễn phí qua...
Luận án: So sánh dòng họ của nhóm Hmông Trắng và Hmông Hoa - Gửi miễn phí qua...Luận án: So sánh dòng họ của nhóm Hmông Trắng và Hmông Hoa - Gửi miễn phí qua...
Luận án: So sánh dòng họ của nhóm Hmông Trắng và Hmông Hoa - Gửi miễn phí qua...
 
Quản Lý Nhà Nƣớc Về Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Trên Địa Bàn Tỉnh Lào Cai.doc
Quản Lý Nhà Nƣớc Về Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Trên Địa Bàn Tỉnh Lào Cai.docQuản Lý Nhà Nƣớc Về Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Trên Địa Bàn Tỉnh Lào Cai.doc
Quản Lý Nhà Nƣớc Về Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Trên Địa Bàn Tỉnh Lào Cai.doc
 
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dânLuận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
 
Luận văn: Quản lý di tích đình - đền Hào Nam tại Hà Nội, HAY, 9đ
Luận văn: Quản lý di tích đình - đền Hào Nam tại Hà Nội, HAY, 9đLuận văn: Quản lý di tích đình - đền Hào Nam tại Hà Nội, HAY, 9đ
Luận văn: Quản lý di tích đình - đền Hào Nam tại Hà Nội, HAY, 9đ
 
Luận văn: Một số biện pháp rút ngắn khoảng cách lịch sử - văn hoá ở học sinh ...
Luận văn: Một số biện pháp rút ngắn khoảng cách lịch sử - văn hoá ở học sinh ...Luận văn: Một số biện pháp rút ngắn khoảng cách lịch sử - văn hoá ở học sinh ...
Luận văn: Một số biện pháp rút ngắn khoảng cách lịch sử - văn hoá ở học sinh ...
 
Đề tài: Quản lý văn hóa xã Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Nội, HOT
Đề tài: Quản lý văn hóa xã Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Nội, HOTĐề tài: Quản lý văn hóa xã Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Nội, HOT
Đề tài: Quản lý văn hóa xã Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Nội, HOT
 
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
 
Quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Lào Cai.doc
Quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Lào Cai.docQuản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Lào Cai.doc
Quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Lào Cai.doc
 
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và TháiLuận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
 
Trò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồng
Trò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồngTrò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồng
Trò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồng
 
Đề tài: Phát huy giá trị văn hóa nhà dài của người Êđê, HAY, 9đ
Đề tài: Phát huy giá trị văn hóa nhà dài của người Êđê, HAY, 9đĐề tài: Phát huy giá trị văn hóa nhà dài của người Êđê, HAY, 9đ
Đề tài: Phát huy giá trị văn hóa nhà dài của người Êđê, HAY, 9đ
 

Más de HanaTiti

Más de HanaTiti (20)

TRUYỀN THÔNG TRONG CÁC SỰ KIỆN NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM NĂM 2012.pdf
TRUYỀN THÔNG TRONG CÁC SỰ KIỆN NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM NĂM 2012.pdfTRUYỀN THÔNG TRONG CÁC SỰ KIỆN NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM NĂM 2012.pdf
TRUYỀN THÔNG TRONG CÁC SỰ KIỆN NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM NĂM 2012.pdf
 
TRỊ LIỆU TÂM LÝ CHO MỘT TRƢỜNG HỢP TRẺ VỊ THÀNH NIÊN CÓ TRIỆU CHỨNG TRẦM CẢM.pdf
TRỊ LIỆU TÂM LÝ CHO MỘT TRƢỜNG HỢP TRẺ VỊ THÀNH NIÊN CÓ TRIỆU CHỨNG TRẦM CẢM.pdfTRỊ LIỆU TÂM LÝ CHO MỘT TRƢỜNG HỢP TRẺ VỊ THÀNH NIÊN CÓ TRIỆU CHỨNG TRẦM CẢM.pdf
TRỊ LIỆU TÂM LÝ CHO MỘT TRƢỜNG HỢP TRẺ VỊ THÀNH NIÊN CÓ TRIỆU CHỨNG TRẦM CẢM.pdf
 
IMPACTS OF FINANCIAL DEPTH AND DOMESTIC CREDIT ON ECONOMIC GROWTH - THE CASES...
IMPACTS OF FINANCIAL DEPTH AND DOMESTIC CREDIT ON ECONOMIC GROWTH - THE CASES...IMPACTS OF FINANCIAL DEPTH AND DOMESTIC CREDIT ON ECONOMIC GROWTH - THE CASES...
IMPACTS OF FINANCIAL DEPTH AND DOMESTIC CREDIT ON ECONOMIC GROWTH - THE CASES...
 
THE LINKAGE BETWEEN CORRUPTION AND CARBON DIOXIDE EMISSION - EVIDENCE FROM AS...
THE LINKAGE BETWEEN CORRUPTION AND CARBON DIOXIDE EMISSION - EVIDENCE FROM AS...THE LINKAGE BETWEEN CORRUPTION AND CARBON DIOXIDE EMISSION - EVIDENCE FROM AS...
THE LINKAGE BETWEEN CORRUPTION AND CARBON DIOXIDE EMISSION - EVIDENCE FROM AS...
 
Phát triển dịch vụ Ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhậ...
Phát triển dịch vụ Ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhậ...Phát triển dịch vụ Ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhậ...
Phát triển dịch vụ Ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhậ...
 
Nhân vật phụ nữ trong truyện ngắn Cao Duy Sơn.pdf
Nhân vật phụ nữ trong truyện ngắn Cao Duy Sơn.pdfNhân vật phụ nữ trong truyện ngắn Cao Duy Sơn.pdf
Nhân vật phụ nữ trong truyện ngắn Cao Duy Sơn.pdf
 
Pháp luật về giao dịch bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về giao dịch bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.pdfPháp luật về giao dịch bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về giao dịch bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.pdf
 
Tổ chức dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 theo hướng phát triển năng lực vận dụ...
Tổ chức dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 theo hướng phát triển năng lực vận dụ...Tổ chức dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 theo hướng phát triển năng lực vận dụ...
Tổ chức dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 theo hướng phát triển năng lực vận dụ...
 
The impact of education on unemployment incidence - micro evidence from Vietn...
The impact of education on unemployment incidence - micro evidence from Vietn...The impact of education on unemployment incidence - micro evidence from Vietn...
The impact of education on unemployment incidence - micro evidence from Vietn...
 
Deteminants of brand loyalty in the Vietnamese neer industry.pdf
Deteminants of brand loyalty in the Vietnamese neer industry.pdfDeteminants of brand loyalty in the Vietnamese neer industry.pdf
Deteminants of brand loyalty in the Vietnamese neer industry.pdf
 
Phát triển hoạt động môi giới chứng khoán của CTCP Alpha.pdf
Phát triển hoạt động môi giới chứng khoán của CTCP Alpha.pdfPhát triển hoạt động môi giới chứng khoán của CTCP Alpha.pdf
Phát triển hoạt động môi giới chứng khoán của CTCP Alpha.pdf
 
The current situation of English language teaching in the light of CLT to the...
The current situation of English language teaching in the light of CLT to the...The current situation of English language teaching in the light of CLT to the...
The current situation of English language teaching in the light of CLT to the...
 
Quản lý chi ngân sách nhà nước tại Kho bạc nhà nước Ba Vì.pdf
Quản lý chi ngân sách nhà nước tại Kho bạc nhà nước Ba Vì.pdfQuản lý chi ngân sách nhà nước tại Kho bạc nhà nước Ba Vì.pdf
Quản lý chi ngân sách nhà nước tại Kho bạc nhà nước Ba Vì.pdf
 
Sự tiếp nhận đối với Hàng không giá rẻ của khách hàng Việt Nam.pdf
Sự tiếp nhận đối với Hàng không giá rẻ của khách hàng Việt Nam.pdfSự tiếp nhận đối với Hàng không giá rẻ của khách hàng Việt Nam.pdf
Sự tiếp nhận đối với Hàng không giá rẻ của khách hàng Việt Nam.pdf
 
An Investigation into the Effect of Matching Exercises on the 10th form Stude...
An Investigation into the Effect of Matching Exercises on the 10th form Stude...An Investigation into the Effect of Matching Exercises on the 10th form Stude...
An Investigation into the Effect of Matching Exercises on the 10th form Stude...
 
Đánh giá chất lượng truyền tin multicast trên tầng ứng dụng.pdf
Đánh giá chất lượng truyền tin multicast trên tầng ứng dụng.pdfĐánh giá chất lượng truyền tin multicast trên tầng ứng dụng.pdf
Đánh giá chất lượng truyền tin multicast trên tầng ứng dụng.pdf
 
Quản lý các trường THCS trên địa bàn huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ theo hướng...
Quản lý các trường THCS trên địa bàn huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ theo hướng...Quản lý các trường THCS trên địa bàn huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ theo hướng...
Quản lý các trường THCS trên địa bàn huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ theo hướng...
 
Nghiên cứu và đề xuất mô hình nuôi tôm bền vững vùng ven biển huyện Thái Thụy...
Nghiên cứu và đề xuất mô hình nuôi tôm bền vững vùng ven biển huyện Thái Thụy...Nghiên cứu và đề xuất mô hình nuôi tôm bền vững vùng ven biển huyện Thái Thụy...
Nghiên cứu và đề xuất mô hình nuôi tôm bền vững vùng ven biển huyện Thái Thụy...
 
PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH.pdf
PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH.pdfPHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH.pdf
PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH.pdf
 
ENERGY CONSUMPTION AND REAL GDP IN ASEAN.pdf
ENERGY CONSUMPTION AND REAL GDP IN ASEAN.pdfENERGY CONSUMPTION AND REAL GDP IN ASEAN.pdf
ENERGY CONSUMPTION AND REAL GDP IN ASEAN.pdf
 

Último

SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 

Último (20)

SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 

Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam.pdf

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------- SENGSOULATH YOUBI VĂN HÓA RỪNG Ở TÂY BẮC LÀO VÀ TÂY BẮC VIỆT NAM Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Việt Nam học Hà Nội - 2019
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------- SENGSOULATH YOUBI VĂN HÓA RỪNG Ở TÂY BẮC LÀO VÀ TÂY BẮC VIỆT NAM Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Việt Nam học Mã số: 60 22 01 13 Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Hoài Giang Hà Nội - 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan nội dung của luận văn “Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, không sao chép bất cứ các công trình nào khác, các tài liệu tham khảo và trích dẫn đều được liệt kê và ghi rõ nguồn gốc. Hà Nội, tháng 10 năm 2019 Học viên SENGSOULATH Youbi
  • 4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành được luận văn với đề tài “Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam ”, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô ở khoa Việt Nam học và Tiếng Việt, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô trong khoa Việt Nam học và Tiếng Việt đã giảng dạy tôi những kiến thức quý giá trong quá trình học tập, đặc biệt tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến TS. Đặng Hoài Giang, người trực tiếp hướng dẫn luận văn, đã tận tình hướng dẫn tôi tìm ra hướng nghiên cứu, cách tìm tài liệu, và đã dành rất nhiều thời gian chỉnh sửa bản thảo luận văn này. Tôi xin cảm ơn Ông Saly, Trưởng làng Suandara và người dân trong làng đã tạo điều kiện cho tôi đi thực địa để thu thập tài liệu. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cha mẹ và những người thân trong gia đình đã hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian qua và đặc biệt trong thời gian tôi theo học khóa thạc sĩ tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Do kiến thức và kinh nghiệm của bản thân người viết còn hạn chế, những thiếu sót trong luận văn là không thể tránh khỏi. Vì vậy tôi kính mong sẽ nhận được sự góp ý và chỉ bảo của quý thầy cô để luận văn này được hoàn chỉnh hơn nữa. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 10 năm 2019 Học viên SENGSOULATH Youbi
  • 5. 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4 1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 4 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề...................................................................... 4 3. Mục tiêu nghiên cứu................................................................................ 8 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.......................................................... 8 4.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................ 8 4.2. Phạm vi nghiên cứu............................................................................ 9 5. Phƣơng pháp nghiên cứu và các nguồn tài liệu ................................... 9 5.1. Phương pháp nghiên cứu.................................................................... 9 5.2. Các nguồn tài liệu............................................................................. 10 6. Đóng góp của luận văn.......................................................................... 10 7. Cấu trúc của luận văn........................................................................... 10 Chƣơng 1........................................................................................................ 12 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI................................... 12 1.1. Khái niệm văn hóa rừng.................................................................... 12 1.1.1. Một số khái niệm về văn hóa ........................................................ 12 1.1.2. Một số khái niệm về rừng ............................................................. 13 1.1.3. Văn hóa rừng................................................................................. 16 1.2. Giới thiệu về vùng Tây Bắc Lào ....................................................... 16 1.2.1. Vị trí địa lý, khí hậu ...................................................................... 16 1.2.2. Con người, tín ngưỡng, tôn giáo và các lễ hội ở vùng Tây Bắc Lào ................................................................................................................. 18 1.2.3. Giới thiệu về làng Suandara.......................................................... 22 1.2.4. Giới thiệu về dân tộc Lào ở Tây Bắc Lào..................................... 22 1.3. Giới thiệu về vùng Tây Bắc Việt Nam.............................................. 24 1.3.1. Vị trí địa lý, khí hậu ...................................................................... 24 1.3.2. Con người, tín ngưỡng, tôn giáo và các lễ hội ở vùng Tây Bắc Việt Nam ......................................................................................................... 27 1.3.3. Giới thiệu về dân tộc Thái ở Tây Bắc Việt Nam .......................... 30 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ........................................................................... 33
  • 6. 2 Chƣơng 2........................................................................................................ 34 VĂN HÓA RỪNG: NHÌN TỪ TÂY BẮC LÀO VÀ TÂY BẮC VIỆT NAM ............................................................................................................... 34 2.1. Văn hóa rừng của ngƣời Lào ở Tây Bắc Lào.................................. 34 2.1.1. Nhận thức của con người về thế giới rừng.................................... 34 2.1.2. Cách phân loại rừng của người Lào.............................................. 34 2.1.3. Chức năng sinh kế của rừng.......................................................... 39 2.1.4. Các nghi lễ và thực hành văn hóa gắn với rừng............................ 40 2.1.4.1. Lễ cúng thần làng (khăm hó) ................................................. 41 2.1.4.2. Lễ báo ma trong rừng ma (Phị thí khọp phi pa sạ) ................ 46 2.2. Văn hóa rừng của ngƣời Việt ở vùng Tây Bắc Việt Nam .............. 48 2.2.1. Nhận thức của con người về thế giới rừng.................................... 48 2.2.2. Cách phân loại rừng của người Thái............................................. 50 2.2.3. Chức năng sinh kế của rừng.......................................................... 52 2.2.4. Các nghi lễ và thực hành văn hóa gắn với rừng............................ 53 2.2.4.1. Lễ Xên Bản ............................................................................ 54 2.2.4.2. Lễ Xên mường ....................................................................... 55 2.2.4.3. Lễ cúng rừng ma của người Thái Mường Mô ....................... 61 2.2.4.4. Nghi thức cầu ma rừng phù hộ............................................... 63 2.2.4.5. Lễ cúng chuộc gỗ rừng........................................................... 63 TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ........................................................................... 65 Chƣơng 3........................................................................................................ 66 BIẾN ĐỔI VĂN HÓA RỪNG VÀ MỘT VÀI SO SÁNH BƢỚC ĐẦU ................................................................................................................ 66 3.1. Những biến đổi của văn hóa rừng trong thời gian hiện nay.......... 66 3.1.1. Biến đổi văn hóa rừng của người Lào........................................... 66 3.1.2. Biến đổi văn hóa rừng của người Thái.......................................... 68 3.2. Những nét tƣơng đồng....................................................................... 70 3.3. Những nét khác biệt........................................................................... 72 3.4. Các nguyên nhân dẫn đến sự tƣơng đồng và khác biệt.................. 73 TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 ........................................................................... 77
  • 7. 3 KẾT LUẬN.................................................................................................... 79 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 81 ............................................................................................................. 92
  • 8. 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ xưa đến nay, Lào vẫn được biết đến như là một đất nước của rừng.Cuộc sống của người dân Lào từ xưa luôn gắn bó với rừng và thế giới tự nhiên.Rừng góp phần hình thành thế giới quan, nhân sinh quan của người Lào.Nhiều phong tục tập quán cũng gắn với không gian rừng.Lối ứng xử coi trọng tự nhiên, coi trọng tinh thần hài hòa, bất bạo động của người Lào cũng là sản phẩm của quá trình thích nghi với thế giới tự nhiên, với rừng, cộng thêm tác động của Phật giáo Nam tông. Ngày nay mặc dù điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở Lào đã thay đổi nhiều, nguồn tài nguyên rừng của Lào đã bị suy giảm nhiều, nhưng “ văn hóa rừng” của người Lào vẫn còn tồn tại – tất nhiên là có nhiều thay đổi so với truyền thống. Mặc dù vậy, cho đến nay, gần như chưa có nghiên cứu nào tập trung phân tích các biểu hiện và vai trò của rừng trong văn hóa Lào.Nói cách khác, chưa có ai thật sự đi giải mã “văn hóa rừng” của người Lào. Theo hiểu biết của tôi, cũng chưa có ai nghiên cứu văn hóa rừng của người Lào trong sự đối sánh với văn hóa rừng của người Việt Nam để thấy được những tương đồng và dị biệt giữa hai tộc người trong quan hệ ứng xử với rừng. Là một học viên cao học chuyên ngành Việt Nam học, được sống trong môi trường văn hóa của hai nước Lào và Việt, tôi muốn thực hiện đề tài “Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam” để đóng góp một điều gì đó cho lĩnh vực nghiên cứu còn nhiều khoảng trống này. Tôi chọn khảo sát vùng Tây Bắc Lào – chính xác là tỉnh Luangprabang bởi tỉnh này là một trong những tỉnh giáp với Tây Bắc Việt Nam, cũng là quê hương của tôi. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
  • 9. 5 Đề tài này có mối liên hệ mật thiết với các công trình liên quan đến văn hóa rừng của người Thái (Tây Bắc) và các tộc người khác ở Việt Nam (nhóm 1); và các công trình nghiên cứu về văn hóa rừng của người Lào nói chung (nhóm 2). Trong nhóm 1, có các công trình đáng chú ý sau đây: Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam (NXB KHXH, 1978) của Cầm Trọng: Đây là một trong những chuyên khảo đầu tiên trình bày một cách có hệ thống về lịch sử, ngôn ngữ, chế độ ruộng đất, cấu trúc xã hội và đời sống tín ngưỡng của người Thái ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Những miêu tả về đời sống tín ngưỡng của tác giả đã giúp chúng ta hình dung phần nào về văn hoá rừng của người Thái. Một thời gian sau đó, Cầm Trọng cùng với Phan Hữu Dật tiếp tục xuất bản một chuyên khảo khác về văn hoá Thái – nhưng không còn bó hẹp trong người Thái ở Tây Bắc mà người Thái trên toàn Việt Nam: Văn hóa Thái Việt Nam(NXB Văn hóa dân tộc, năm 1995). Tri thức bản địa của người Thái ở miền núi Thanh Hóa (Luận án TS Lịch sử - chuyên ngành Dân tộc học, 2009) của Vũ Trường Giang: Tác giả đã nghiên cứu sâu về những tri thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên; tri thức bản địa về y học dân gian và chăm sóc sức khỏe; tri thức bản địa trong tổ chức và quản lý xã hội ở xã Yên Khương (huyện Lang Chánh) và Xuân Lệ (huyện Thường Xuân). Trong năm này, tác giả Nguyễn Thị Hồng Viên cũng xuất bản một công trình có chủ đề tương tự: Kiến thức bản địa của người Thái trong canh tác nương rẫy ở vùng ven thành phố Sơn La (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009). Công trình của Nguyễn Thị Hồng Viên cho thấy người Thái ở ven thành phố Sơn La đã tạo lập được hệ sinh thái nhân văn của mình khá hoàn hảo, hệ canh tác nương rẫy đóng vai
  • 10. 6 trò quan trọng trong việc quản lý bảo vệ đất, cũng như trong đời sống hàng ngày của họ. Gần đây, nhóm tác giả Đặng Thị Oanh, Đặng Thị Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thủy đã công bố công trình Ứng xử với rừng trong văn hóa truyền thống của người Thái ở Điện Biên(Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2015). Nhóm tác giả đã tập trung nghiên cứu về kinh nghiệm quản lý và khai thác lợi ích từ rừng để phục vụ cuộc sống hàng ngày, cũng như đời sống tinh thần và tín ngưỡng gắn với rừng của người Thái ở tỉnh Điện Biên. Về chủ đề văn hoá rừng của các tộc người khác ở Việt Nam, trước hết, phải kể đến công trình Chúng tôi ăn rừng của nhà dân tộc học người Pháp George Condominas. Đây là một bút ký dân tộc học mô tả toàn bộ đời sống của làng Sar Luk thuộc bộ lạc M’Nông Gar trong chu kỳ một năm nông nghiệp – từ lúc hạ cây, đốt rẫy cho đến khi thu hoạch: tìm đất làm rẫy, thử đất, đám cưới, đám tang, các lễ hội… [G. Condominas (2008), Chúng tôi ăn rừng (bản tiếng Việt), NXB Thế giới, Hà Nội]. Bên cạnh đó, có thể nhắc đến hàng loạt các công trình khác, như: Ứng xử của người Dao đỏ ở Sapa trong việc cư trú, khai thác và bảo vệ rừng, nguồn nước của tác giả Phạm Công Hoan (NXB Khoa học Xã hội, 2015): Cuốn sách đã khái quát chung về tên gọi, lịch sử tộc người, địa vực cư trú, đặc điểm kinh tế - xã hội của người Dao Đỏ ở Sa Pa, tỉnh Lào Cai và phân tích cách ứng xử của người Dao Đỏ ở Sapa trong khai thác và bảo vệ rừng, nguồn nước. Rừng thiêng ở Mường Khủn Tinh của Trần Văn Hạc và Sầm Văn Bình (NXB Khoa học Xã hội, 2015): Các tác giả đã tập trung viết về rừng thiêng và
  • 11. 7 những quy ước cũng như những điều cấm kỵ liên quan đến rừng của người Thái ở Mường Khủn Tinh, huyện Qùy Hợp, miền Tây Bắc Nghệ An. Ứng xử với môi trường tự nhiên của người Dao vùng Tây Bắc (NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội năm 2018) của tác giả Trần Hữu Sơn - đã tổng quan về người Dao và ứng xử với môi trường tự nhiên của người Dao ở vùng Tây Bắc. Trong cuốn sách này, ứng xử với môi trường tự nhiên của người Dao vùng Tây Bắc được phản ánh qua các hoạt động sinh kế truyền thống, cách ăn mặc, lập làng, dựng nhà ở, giữ rừng thiêng, giữ nguồn nước, tín ngưỡng tôn giáo và những biến đổi trong ứng xử với môi trường tự nhiên của họ.Ở nhóm 2, các công trình nghiên cứu về văn hóa Lào cũng có nhiều nhưng phần lớn tập trung nghiên cứu về các lễ hội nói chung, còn nghiên cứu về văn hóa liên quan đến rừng dường như còn ít. Có thể điểm qua một số công trình tiêu biểu như sau: Lào đất nước và con người (NXB Giáo Dục, 1987) của Nguyễn Trọng Điều:Tác giả tập trung miêu tả những nét đặc trưng về thiên nhiên đa dạng của nước Lào, về con người với nền văn hóa nhiều màu sắc và về tiềm năng kinh tế cũng như sự phát triển của kinh tế của nước Lào. Đất nước Lào lịch sử và văn hoá (NXB Chính trị Quốc Gia Hà Nội, 1996) do GS.Lương Ninh chủ biên, tái bản tại. Tác giả tập trung trình bày quá trình lịch sử đấu tranh giành độc lập, tự do của nhân dân các bộ tộc Lào từ thời tiền sử đến khi nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ra đời, đồng thời qua đó giới thiệu một số nét khái quát nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc cùng những thành tựu văn hóa nổi bật của Lào. Ngôn ngữ và văn hoá Lào trong bối cảnh Đông Nam Á (NXB CTQG, 1998) của Phạm Đức Dương trình bày các đặc điểm của ngôn ngữ và văn hoá Lào xét trong bối cảnh Đông Nam Á.
  • 12. 8 Đối thoại với các nền văn hoá Lào do Trịnh Huy Hóa biên dịch (NXB Trẻ 2002). Nội dung của sách tập trung tìm hiểu về lịch sử và văn hoá của các dân tộc ở Lào như các phương diện:nguồn gốc dân tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, lễ hội, phong tục. Ngoài các công trình nghiên cứu trên, còn có nhiều bài viết về văn hóa Lào như: Lễ hội Xuông Hưa (đua thuyền) và lễ hội Lay Hưa Phay (thả bè nến) trên sông của người Lào của PGS.TS Nguyễn Lê Thị - tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số 11(92),2007; Chức năng và vai trò lễ hội Thạt Luổng trong đời sống văn hóa của nhân dân Lào của Bounnam Phongbouapheuane – Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số 6(183), 2015. Như vậy, có thể nói, các nghiên cứu liên quan đến văn hóa rừng của người Thái nói riêng và của các tộc người ở Việt Nam nói chung có khá nhiều nhưng số lượng và chất lượng của các nghiên cứu về văn hóa rừng ở Lào còn rất hạn chế. Đặc biệt, hầu như chưa có bất kỳ nghiên cứu so sánh nào giữa văn hóa rừng của các tộc người ở Lào và ở Việt Nam. 3. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu chính của luận văn là chỉ ra sự giống và khác nhau giữa “ văn hóa rừng”của người Lào với “văn hóa rừng” của người Việt Nam (qua so sánh giữa vùng Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam). Để thực hiện mục tiêu này chúng tôi phải tập trung nghiên cứu cách ứng xử của người Lào và người Việt Nam với rừng, cách khai thác rừng cho đến phong tục tập quán và các nghi lễ, tín ngưỡng liên quan đến rừng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu
  • 13. 9 Đối tượng nghiên cứu là văn hóa rừng của người Lào (dân tộc Lào) ở vùng Tây Bắc Lào và văn hóa rừng của người Việt (dân tộc Thái) ở vùng Tây Bắc Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian, chúng tôi tập trung nghiên cứu ở vùng Tây Bắc Lào và vùng Tây Bắc Việt Nam.Tây Bắc Lào (làng Suanđara, huyện Xiêng Ngơn, tỉnh Luangprabang) tôi chọn vùng này để nghiên cứu bởi vì Luangprabang là một trong những tỉnh giáp với Tây Bắc Việt Nam. Ngoài ra, do thời gian hạn chế nên tôi đã chọn một làng để tập trung nghiên cứu.Về thời gian, đề tài sẽ khảo sát vấn đề nghiên cứu kể từ giai đoạn trước thế kỷ 20 đến nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu và các nguồn tài liệu 5.1. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện luận văn này tôi sẽ sử dụng phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp nghiên cứu thực địa và phương pháp so sánh/đối chiếu. - Phương pháp phân tích tài liệu: Được sử dụng để tham khảo các nguồn tài liệu thành văn liên quan đến đề tài luận văn, đặc biệt là nghiên cứu của các tác giả đi trước. - Phương pháp nghiên cứu thực địa: Tôi đã dành khoảng một tháng để đi thực địa ở làng Suanđara – huyện Xiêng Ngơn – tỉnh Luangprabang. Trong thời gian thực địa, tôi đã sử dụng các phương pháp phỏng vấn sâu, quan sát tham dự và thảo luận nhóm nhằm thu thập các thông tin nói về văn hóa rừng của người Lào. Trong các phương pháp này, phỏng vấn sâu là phương pháp quan trọng nhất. - So sánh, đối chiếu: Đề tài Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam nên tác giả đã sử dụng phương pháp này để chỉ ra những tương
  • 14. 10 đồng và khác biệt trong cách ứng xử với rừng của các cộng đồng được chọn nghiên cứu ở hai quốc gia. 5.2. Các nguồn tài liệu 1. Tìm hiểu về văn hóa rừng ở miền Tây Bắc của Lào qua các nguồn tài liệu sách, trang web, và tài liệu chính là đi thực địa ở làng Suanđara huyện - Xiêng Ngơn - tỉnh Luangprabang. 2. Tìm hiểu về văn hóa rừng ở miền Tây Bắc của Việt Nam qua các nguồn tài liệu sách, tạp chí, trang web. 6. Đóng góp của luận văn - Giới thiệu và làm rõ khái niệm văn hóa rừng. - Chỉ ra được những chiều cạnh cấu thành văn hoá rừng của người Lào ở Tây Bắc Lào và người Thái ở Tây Bắc Việt Nam. - Chỉ ra những tương đồng và dị biệt giữa văn hóa rừng ở vùng Tây Bắc Lào và văn hóa rừng ở Tây Bắc Việt Nam. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn bao gồm có 3 chương: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài 1.1. Khái niệm “văn hóa rừng” 1.2. Giới thiệu về vùng Tây Bắc Lào 1.3. Giới thiệu về vùng Tây Bắc Việt Nam Chƣơng 2: Văn hóa rừng nhìn từ Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam
  • 15. 11 2.1. Văn hóa rừng của người Lào ở Tây Bắc Lào 2.2. Văn hóa rừng của người Việt ở Tây Bắc Việt Nam Chƣơng 3: Biến đổi về văn hóa và một vài so sánh bƣớc đầu 3.1. Những biến đổi của văn hóa rừng trong thời gian hiện nay 3.2. Những nét tương đồng 3.3. Những nét khác biệt 3.4. Các nguyên nhân dẫn đến sự tương đồng và khác biệt.
  • 16. 12 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Khái niệm văn hóa rừng 1.1.1. Một số khái niệm về văn hóa Các nhà nghiên cứu đã đưa ra hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa (culture). Người đầu tiên đưa ra định nghĩa về văn hóa là Taylor – một nhà nhân loại học người Anh. Ông viết: “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng của tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách là thành viên của xã hội”[14, tr.13]. Dựa trên quan điểm duy vật lịch sử, C.Mác coi văn hóa là toàn bộ những thành quả được tạo ra nhờ hoạt động lao động sáng tạo của con người – hoạt động sản xuất vật chất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực của con người.C. Mác đã đồng nhất văn hóa với phương thức hoạt động sống riêng có của con người. Đó là phương thức mà con người sử dụng lao động sáng tạo của mình để biến đổi và cải tạo giới tự nhiên, “vận dụng bản chất cố hữu của mình” để cải tạo hiện thực khách quan, “nhào nặn”, “xây dựng” thực tại khách quan cho chính mình “theo các quy luật của cái đẹp” [2, tr. 137]. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản
  • 17. 13 sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [13, tr 408]. Năm 1986, Tổ chức văn hóa thế giới (UNESCO), đã cho rằng: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc, quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người những suy xét về bản thân. Chính văn hóa đã làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thiện được đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩ mới mẻ và tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân”[36, tr. 17]. Hiện nay, đa số học giả cho rằng, văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử [36, tr. 5-6]. 1.1.2. Một số khái niệm về rừng Năm 1930, Morozov đã định nghĩa khái niệm về rừng như sau: Rừng là một tổng thể cây gỗ, có mối liên hệ với nhau, nó chiếm một phạm vi không gian nhất định và trong khí quyển, rừng chiếm phần lớn về mặt trái đất và là một bộ phận của cảnh quan địa lý. Đến năm 1952, M.E. Tcachenco đã phát biểu rằng: Rừng là một bộ phận cảnh quan địa lý, trong đó bao gồm một tổng thể cây gỗ, cây bụi, cây cỏ, động vật và vi sinh vật. Trong quá trình phát triển của mình chúng có mối quan hệ sinh học và ảnh hưởng lẫn nhau với hoàn cảnh bên ngoài. Cho đến năm 1974, I.S. Mê Lê Khôp quan niệm rằng: Rừng là sự
  • 18. 14 hình thành phức tạp của tự nhiên, là thành phần cơ bản của sinh quyển địa cầu [24, tr. 5]. Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào năm 2007, đã định nghĩa rừng: “Rừng là tài nguyên thiên nhiên quý giá, có hệ thống sinh thái riêng gồm có các loài sinh vật, nguồn nước và đất rừng trong đó có các loài cây cối tự mọc lên theo tự nhiên hoặc có người trồng trong khu vực rừng phòng hộ, rừng cấm và rừng sản xuất [43]. Theo Luật Lâm Nghiệp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2017, “Rừng là một hệ sinh thái bao gồm các loài thực vật rừng, động vật rừng, nấm, vi sinh vật, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó thành phần chính là một hoặc một số loài cây thân gỗ, tre, nứa, cây họ cau có chiều cao được xác định theo hệ thực vật trên núi đất, núi đá, đất ngập nước, đất cát hoặc hệ thực vật đặc trưng khác; diện tích liên vùng từ 0,3 ha trở lên; độ tàn che từ 0,1 trở lên [30]. Như vậy, các định nghĩa trên chủ yếu hiểu rừng như là một hệ sinh thái tự nhiên, nhưng đối với các tộc người có cuộc sống gần gũi với rừng, môi trường sống của họ toàn gắn liền với rừng núi thì rừng không chỉ là tự nhiên thuần túy. Theo nhà văn hóa Nguyên Ngọc, đối với các tộc người ở Tây Nguyên, họ coi từng cây rừng đúng như một sinh vật sống chẳng hề thua kém con người, cũng có linh hồn ngang bằng con người, cũng đầy cảm xúc, vui mừng, hạnh phúc, đau đớn hệt con người. Khi buộc phải chặt hạ một cây gỗ cho nhu cầu thiết yếu của mình, bao giờ người Tây Nguyên cũng ân cần làm lễ xin lỗi cây, tạ ơn rừng. Người Tây Nguyên sống “theo đạo đức của rừng”, quan niệm con người cần phải hiến mình như rừng. Như vậy ở Tây Nguyên, rừng là cội nguồn của đời sống tâm linh, tức phần sâu xa nhất trong con người và cộng đồng người, mất rừng thì con người và cộng đồng người mất đi cái
  • 19. 15 nền rộng lớn, bền chặt, sâu thẳm nhất của mình, trở nên bơ vơ, “tha hóa”, mất gốc, mất cội nguồn [22, tr. 160-161]. Theo quan niệm của người Dao Đỏ, “Có rừng là có cuộc sống”, rừng cung cấp gỗ lạt làm nhà, củi đun; rừng là nơi sinh ra nguồn nước sinh hoạt và làm ruộng; rừng sản sinh ra các loại rau, củ, quả... đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho các bữa ăn hàng ngày; rừng là nơi nuôi dưỡng các loại cây thuốc chữa bệnh cứu người; rừng tạo ra các bãi chăn thả vật nuôi. Với môi trường rừng tạo ra tán che, thanh lọc không khí (mỗi lần đốt lửa lá cây rừng sẽ hút sạch khói), tạo khí hậu trong lành mát mẻ ở mùa hè; rừng chắn gió bão, lũ lụt, sạt lở, giảm thiểu thiên tai,....Rừng là biểu tượng cao cả, vĩ đại, tốt lành mà người Dao Đỏ dùng để răn dạy con cháu thông qua các câu tục ngữ, thành ngữ, chẳng hạn như: Giảm tàu pẻ phản nhần khú khí, Trỉnh tầu tải mụa khú rìa làng. Tạm dịch: Không cần cơm trắng ăn ngon Chỉ cần cây to che bóng mát. Ý của câu tục ngữ này là: chỉ cần bố mẹ có tấm lòng tốt, thương con cháu, là chỗ dựa tinh thần, che chở cho con cháu, còn hơn được ăn ngon mà thiếu đi tình thương yêu vỗ về của đấng sinh thành [26, tr. 121-122]. Trong khi đó, người Hà Nhì quan niệm rằng: rừng và cây rừng, con thú trong rừng điều có linh hồn như con người.Theo ghi chép của Trần Hữu, khi gieo hạt cho một vụ mùa mới, người Hà Nhì bao giờ cũng phải khấn hồn cây và thần rừng A Pố Xả Kha. Khi vào rừng kiếm củi, hái rau, chặt cây, người Hà Nhì cũng phải cúng thần rừng, cầu xin thần cho hái rau, chặt cây. Một số
  • 20. 16 người chết bất đắc kỳ tử ở trong rừng cũng hóa thành loài ma ác đe dọa con người khi họ vào rừng và bị rừng trừng phạt như Xá Xí Khà Là Cộ (ma người chết do hổ vồ), Xá Xí Khà Ngú Cộ (ma người chết do gấu vồ, Xá Xí Ô Ló Tụ (ma người chết do rắn cắn)... Như vậy quan niệm về rừng, nhìn nhận về rừng của người Hà Nhì vừa phản ánh mối quan hệ thân thiện hòa hợp với rừng vừa linh thiêng hóa rừng. Với quan niệm như vậy, người Hà Nhì đặc biệt quan tâm đến rừng, có thái độ kính trọng, sợ hãi hoặc chăm sóc rừng, cây rừng như đối với người thân, bề trên của mình. Mặt khác người Hà Nhì còn tạo ra cơ chế thiêng bảo vệ rừng. Rừng linh thiêng vì trong rừng có nhiều lực lượng siêu nhiên ảnh hưởng đến đời sống con người, vì mỗi loại cây, mỗi vũng nước đều có thần chủ. Con người xâm phạm đến rừng cây, tự nhiên sẽ bị trừng phạt. Cơ chế thiêng tạo ra sức mạnh bảo vệ rừng, tạo ra ý thức tự giác, buộc con người phải tôn trọng rừng, không được phá loại rừng [27, tr. 644-645]. 1.1.3. Văn hóa rừng Từ các khái niệm “văn hóa” và “rừng” đã trình bày ở phần trên, tác giả đưa ra cách hiểu của mình về văn hóa rừng như sau: văn hóa rừng là một tập hợp các ứng xử đặc trưng gắn với hệ sinh thái rừng của các cộng đồng sở tại, được thể hiện trong quan niệm, các nghi lễ, các hình thức quản lý, khai thác và bảo vệ rừng của họ, rồi dần dần trở thành phong tục tập quán, tín ngưỡng tốt đẹp được chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác. 1.2. Giới thiệu về vùng Tây Bắc Lào 1.2.1. Vị trí địa lý, khí hậu Theo địa lý Lào, Lào được chia thành 3 miền: miền Bắc, Trung, Nam nhưng theo cục Khí tượng và Thủy văn Lào phân chia nước Lào thành 4 vùng gồm có: vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Trung và Nam.
  • 21. 17 Vùng Tây Bắc Lào gồm có 5 tỉnh như: tỉnh Luangnamtha, Oudômxay, Bokeo, Luangprabang, và Xayaboury, tổng diện tích là: 64.115 km2 , trong đó địa hình núi chiếm hơn 90%, phía Bắc giáp với tỉnh Phongsaly và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), phía Đông giáp tỉnh Điện Biên(Việt Nam), tỉnh Xiêng Khoảng, tỉnh Hủa Phăn, phía Nam giáp tỉnh Viêng Chăn, phía Tây Nam giáp tỉnh Chiang Rai, Phayao, Nan, Phrae (Thái Lan) còn phía Tây Bắc giáp với tỉnh Xhan (Myanmar)[34, tr. 1513]. Đặc điểm địa lý của vùng này là miền núi, núi cao. “Vùng Tây Bắc có thể nói ngoài cao nguyên Mường Sing còn một cao nguyên nhỏ đá phiến và cát kết thuộc tỉnh Nặm Thà, đại bộ phận núi non theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, với độ cao từ 1000 đến 1500m, có những đỉnh vượt quá 2000m. Đông bắc và nam Phongsaly bị nhiều dãy núi che chắn. Dãy Sanchênpêu dài 60 km và rộng tới 40km. Còn dãy Saichengkoung ở Tây Bắc Nậm Thà (cách đó 70km) là dãy núi hoa cương cũng có chiều dài tới 60km, nhưng bề rộng khoảng 20km; đỉnh cao nhất đạt tới2072m. Đó cũng là đỉnh cao nhất trong vùng. Theo hướng núi, các dòng Nậm Thà, Nậm U, Nậm Seng, từ các thung lũng hẹp hai bên sườn dốc, vất vả lắm mới vượt được các hõm để đổ về Mẹ Khoỏng. Nhiều dãy núi khác không kém phần đồ sộ bao quanh Luangphabăng như những bức tường thành, di tích của một địa thế tự nhiên để che chắn cố đô của đất nước Triệu Voi. Dãy Phu Nậm Bang nằm ở phía tây dài tới 60km, có đỉnh cao tới 1933m. Dãy Phu Ba Beng dài 50km, rộng 80km lại án ngữ phía nam tạo thế cho kinh đô cũ nằm sâu kín trong vùng núi hiểm trở. Hệ núi non đó kéo dài tận bắc Viêng Chăn mới giảm thế hiểm trở, đổ xuống mạn bờ tây dòng Mẹ Khoỏng, thế núi thấp dần sang phía Thái Lan”[20, tr. 10-11]. Tây Bắc Lào gồm có 2 mùa: mùa mưa và mùa khô. Đặc điểm của vùng này vào mùa khô nhiệt độ sẽ thấp hơn nếu so với miền khác nhưng vẫn ấm hơn ở Đông Bắc.
  • 22. 18 “Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 (Dương lịch) thời tiết lạnh và khô, sáng sớm có sương mù, nắng nhiều,bởi chịu ảnh hưởng từ khối không khí lạnh Siberia (Nga) và do ảnh hưởng của địa hình của vùng đã làm cho nhiệt độ của vùng này thấp hơn so với miền Nam. Nhiệt độ trung bình trong mùa khô là 15 C. Lượng mưa vào mùa này cũng ít nhưng nếu so với vùng khác thì vùng này có nhiều hơn đặc biệt cuối tháng 2 đến đầu tháng 3 sẽ có mưa phùn. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10 (Dương lịch), chịu ảnh hưởng từ gió thổi từ biển Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương từ phía Tây- Nam thổi lên,vào mùa này thời tiết luôn thay đổi, có dông, nhiều mây đôi khi có bão, lượng nước mưa chiếm tới 90% của lượng nước mưa cả năm đặc biệt tháng 7 và tháng 8 là tháng có mưa nhiều nhất trung bình là 20 - 25 ngày/tháng mùa này nắng không nhiều và độ ẩm cũng cao nhiệt độ trung bình là 24 C”[41, tr. 16]. 1.2.2. Con người, tín ngưỡng, tôn giáo và các lễ hội ở vùng Tây Bắc Lào Hiện nay, ở Tây Bắc Lào có khoảng hơn 1 triệu dân, phân bố ở các tỉnh: Luangnamtha: 175.753 người, Oudomxay: 307.622 người, Bokeo: 179.243 người, Luangprabang: 431.889 người, Xayabouly: 381.376 người (theo Tổng điều tra dân số nhà ở Lào lần thứ 4, 1-7/3/2015). Theo thống kê năm 2015 Lào có tất cả 49 dân tộc thuộc 4 nhóm ngôn ngữ khác nhau như: nhóm các tộc người nói ngôn ngữ Lào– Tai (Lào – Thay), nhóm các tộc người nói ngôn ngữ Mon- Khơme, nhóm các tộc người nói ngôn ngữ Hmông- Miến, nhóm các tộc người nói ngôn ngữ Hán-Tạng ngoài 4 nhóm này ra còn có các kiều dân như: người Việt Nam, Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc,...[41, tr.49] Và các tộc người tập trung ở vùng Tây Bắc chủ yếu
  • 23. 19 là các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Lào- Tai như: dân tộc Lào, Tày, Phuôn, Lự, Nhuôn, Thay Nưa, Thái Đen, Thái Đỏ, Thái Trắng,..; dân tộc Khơ Mú thuộc nhóm ngôn ngữ Mon- Khơme; dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông- Miến như: Hmông,...; các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Hán -Tạng như: Akha, Phounoi, Lahu, Sila, Hà Nhì, Lô Lô, Họ. Bởi vì các tộc người sống ở vùng Tây Bắc khá đa dạng nên các tín ngưỡng, tôn giáo cũng khá phong phú như các dân tộc sống ở vùng đồng bằng và ven bờ sông chủ yếu họ sẽ theo Phật giáo tiểu thừa như: Thái Lan, Campuchia, Srilanka, Myanmar,... còn các đồng bào dân tộc sống ở miền núi cao họ có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thần linh (thần núi, thần rừng,...), tín ngưỡng phồn thực và các tín ngưỡng đó người Lào gọi là Phí có nghĩa là ma (thần), và một số người cũng theo Kitô giáo, Bàlamôn giáo,... Nhưng đặc điểm của người dân Lào nói chung người Tây Bắc nói riêng dù là dân tộc nào theo tôn giáo nào thậm chí không theo tôn giáo nào cả cũng có thể hỗn hợp với nhau thí dụ: người theo Phật có thể thờ cúng thần linh bởi vì cuộc sống của họ chủ yếu gắn bó với thiên nhiên nên làm cho họ tin vào cái mà họ không thể thấy bằng mắt nhưng họ vẫn tin trong thứ đó chắc có linh hồn và người theo Phí có thể vào chùa thậm chí có thể đi tu, dù họ theo Phí nhưng vẫn chịu ảnh hưởng từ Phật và đó là sự thống nhất trong đa dạng của người dân Lào[41, tr. 50]. Phật giáo chiếm địa vị hết sức quan trọng trong đời sống của người Lào nói chung và người Lào vùng Tây Bắc nói riêng. Theo các nhà nghiên cứu, Phật giáo đã được du nhập vào Lào khoảng trước thế kỷ thứ X thời kỳ Lào là các mương riêng lẻ. Là một tôn giáo với những nghi thức đơn giản, với chủ thuyết từ bi bác ái Phật giáo được chinh phục người dân Lào. Vốn là một dân tộc yêu chuộng hòa bình và đầy tình nhân ái, trong quá trình tồn tại và phát triển dài lâu trên đất nước Lào, Phật giáo đã có những đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của lịch sử Lào. Phật giáo từng là chất keo gắn liền các
  • 24. 20 mương riêng lẻ tạo tiền đề cho sự ra đời của quốc gia thống nhất Lào. Thế kỷ thứ XIV, quốc gia thống nhất Lào Lạn Xạng ra đời. Phật giáo được tôn lên địa vị quốc giáo. Từ đấy Phật giáo đã góp phần ngăn chặn tình trạng cát cứ để giữ sự thống nhất của vương quốc và góp phần vào các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm giành độc lập cho đất nước Lào. Trải qua hàng trăm năm tồn tại trên đất nước Lào, Phật giáo đã thấm vào tư tưởng, tình cảm và ý thức của nhân dân Lào để tạo nên một văn hóa dân tộc Lào thống nhất vừa thấm đượm tính nhân từ của đạo Phật, vừa mang sắc thái bình yên của người Lào. Sự phát triển của Phật giáo luôn gắn liền với sự phát triển của lịch sử Lào. Điều đó được thể hiện rõ ràng hơn trong một thế kỷ qua, thế kỷ nhân dân Lào đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để giành độc lập. Lực lượng Phật giáo đã đi theo xu thế chung của thời đại góp phần cùng nhân dân Lào chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành độc lập cho đất nước Lào. Từ năm 1975, sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, nhân dân Lào bước vào giai đoạn lịch sử mới, thời kỳ bảo vệ và xây dựng đất nước mới, Phật giáo cũng có những biến chuyển để phù hợp với giai đoạn lịch sử mới của đất nước”[32, tr. 136- 137]. Từ góc nhìn Phật giáo, người Lào chia con người thành hai loài “Khôn đíp” và “Khôn xúc”. “Khôn đíp”(người sống)sống theo lối tự nhiên chưa được giáo hóa. Vì vậy họ phải được vào chùa để học hành giáo lý, chữ nghĩa... để trở thành “Khôn xúc”(người chín). Ở người Lào-Tày, con trai đến độ tuổi bắt đầu lớn (13-14) được gia đình khuyến khích đi vào chùa, cắt tóc, mặc áo cà sa (Pên buột) để theo các vị sư. Sau một thời gian dù ba tháng, một năm, ba năm... anh ta được ra chùa (Xít) trở về với cuộc sống gia đình lập nghiệp làm ăn và được coi là “ Khôn xúc”, được đặt tên có chữ: Thít, Xiêng. Vì thế “ chùa” đối với người theo Phật ở Lào không phải chỉ là nơi thực hành nghi lễ, nghe giảng kinh Phật mà còn là nhà trường dạy chữ, dạy kiến thức,
  • 25. 21 dạy nghề, chữa bệnh.., là nơi tụ họp của cộng đồng để tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ dân gian,...[10, tr. 196]. Thành phố Luông Pha Bang là một thành phố nhỏ thuộc tỉnh Luông Pha Bang nằm ở miền Tây Bắc Lào là trung tâm văn hóa, giáo dục, thể thao, chính trị của miền Bắc Lào, là một thành phố có lịch sử lâu dài, là kinh đô cổ của vương quốc Lạn Xạng, Luông Pha Bang được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới vào năm 1995. Hiện nay, Luông Pha Bang vẫn giữ được các phong tục tập quán, các nghi lễ dân gian lối sống tươi đẹp nhẹ nhàng của người Lào nhất là trung tâm Phật giáo đã thể hiện ở chỗ riêng thành phố Luông Pha Bang nhỏ bé nhưng có tới 33 ngôi chùa (khu vực phố cổ)[45] các ngôi chùa đó được xây dựng từ các thời vua khác nhau và được các người dân phát huy gìn giữ cho đến hiện nay đó đã chứng minh rằng: người Lào nói trung người Tây Bắc nói riêng họ rất gắn bó với đạo Phật. Các lễ hội quanh năm phần lớn cũng liên quan đến Phật giáo và nông nghiệp người Lào gọi lễ hội là “ Bun” có nghĩa là phúc các nghi lễ liên quan đến Phật giáo như: Bun Pha Vết( kỷ niệm ngày Thích Ca thành Phật, đọc kinh Pha Vết), Bun Xà Lạc( hiến tiền bạc đồ vật cho nhà chùa để cầu phúc nhưng dưới hình thức nhờ chuyển cho tổ tiên), Bun Khẩu Văn Xả và Oc Văn Xả (tuần chay kéo dài ba tháng dành cho công việc ăn chay niệm Phật của các nhà sư, xét đề bạt, kỷ luật...)[10, tr. 217], Bun Visakhabusa(lễ Phật đản),... Ngoài các lễ hội này ra còn có Bun Pi May( năm mới, Té nước) được tổ chức vào tháng Tư Dương lịch (theo lịch Lào gọi là tháng Năm, Bun Khau Chi (nướng xôi) tổ chức vào tháng Hai Dương lịch là tháng Ba theo lịch Lào, Bun Xuông Hưa(đua thuyền) được tổ chức vào ngày lễ Oc Văn Xả có một số nơi tổ chức vào ngày Bun Ho Khau Pa Đap Đin (lễ tưởng nhớ người mất đi rồi) được tổ chức vào tháng Tám hoặc tháng Chín Dương lịch, lễ hội đón năm mới của dân tộc Khơ Mú và Hmông, Bun Lay Heua Phay (thả thuyền lửa, thả hoa
  • 26. 22 đăng) được tổ chức vào ban đêm cùng ngày Oc Phan Xã nhưng một số nơi tổ chức vào đêm hôm sau ngày Oc Phan Xả. Ngoài các lễ hội lớn nói trên còn có các lễ hội địa phương được tổ chức theo làng như lễ hội cầu mưa (các dân tộc làm nương rẫy), thờ thần làng, ... 1.2.3. Giới thiệu về làng Suandara Ông Saly, trưởng làng cho biết làng Suandara thuộc huyện Xiêng Ngơn, tỉnh Luông Pha Bang, làng nằm cách trung tâm huyện Xiêng Ngơn khoảng 18km về phía Đông Bắc. Có biên giới phía Bắc giáp với làng Huai Yen, phía Nam giáp với làng Huai Fai, phía Tây giáp với làng Long O, còn phía Đông giáp với làng En. Nếu tính từ trung tâm thành phố Luông Pha Bang, làng Suandara chỉ cách trung tâm khoảng 22 km làng nằm bên bờ sông Khan là một con sông có vai trò quan trọng đối với người Tây Bắc. 80% dân làng là dân tộc Lào thuộc nhóm ngôn ngữ Lào-Tai theo Phật giáo, còn 20% là đồng bào dân tộc Hmông thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông-Miến theo ma, làng có một ngôi chùa là trung tâm hội tụ tinh thần của dân làng. Dù đạo Phật có ảnh hưởng rất lớn với cuộc sống của dân làng nhưng bởi một phần của cuộc sống người ở đây là thiên nhiên nên chúng ta cũng có tín ngưỡng thờ cúng thần (ma) và phần lớn của phong tục tập quán cũng không chỉ liên quan đến đạo Phật mà đi đôi với thiên nhiên. Nghề chính của người dân ở đây là trồng lúa nước, trồng những cây lương thực như: ngô, củ sắn, lạc, vừng, các loài cây ăn quả,... 1.2.4. Giới thiệu về dân tộc Lào ở Tây Bắc Lào Dân tộc Lào là dân tộc chiếm đa số dân ở Lào chiếm 53.2% của dân cả nước (theo Tổng điều tra dân số nhà ở Lào lần thứ 4, 1-7/3/2015). Hiện nay, dân tộc Lào chiếm 47% dân số ở Tây Bắc[34], là một dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Lào – Tai, theo đạo Phật Tiểu thừa, một số gia đình cũng có tín
  • 27. 23 ngưỡng thờ thần (thần đất, thần núi, thần sông,…), họ tập trung cư trú ở vùng đồng bằng ven bờ sông, nghề chính của họ là buôn bán, trồng trọt, trồng lúa nước do vậy lương thực chính của họ là gạo nếp. Kể từ lịch sử của nhóm nói ngôn ngữ Lào – Tai hoặc Lào - Thay: “Thực ra quá trình người Lào – Thay chuyển dịch vào Lào đã được P. Boulanger đề cập đến trong công trình Histoire du Laos từ năm 1935 (97), xong ông chưa định được niên đại cụ thể. Còn Đặng Nghiệm Vạn trong bài Sơ lược về sự thiên di của các bộ lạc Thái vào Tây Bắc Việt Nam (85) và bài quá trình hình thành các nhóm Tày – Thái ở Việt Nam (86) đã chỉ ra rằng, người Lào Thay vào Lào trong thế kỷ thứ VIII và sự hình thành hệ thống chính trị xã hội kiểu các mường cổ của người Lào – Thay ở Lào đã được phản ánh trong truyền thuyết Khún Bulôm. Truyền thuyết kể rằng Khún Phạ Bulôm đã chia đất đai của mình cho bảy người con coi giữ. Khún Lo, con trai cả vào mường Xoa năm 747 (67) lập nên hệ thống tổ chức chính trị, xã hội ở đây. Trong khối cư dân nói tiếng Lào – Thay ở Lào, ngoài người Lào còn có người Phu Thay (Thay Đăm, Thay Đeng, Thay Khảo, Thay Nưa, Thay Mơi, Phu Thay, người Lự, người Nhuôn, người Dắng (ở việt Nam gọi là người Giắng), người Xẹc”[19, tr. 21-22]. Trước khi đạo Phật được du nhập vào Lào, lúc đó dân tộc Lào đang theo đạo Bàlamôn (Lào gọi là Pham hay Phạn) và sau khi đạo Phật vào Lào, nó đã chiếm địa vị chủ đạo trong đời sống tinh thần và văn hóa truyền thống của người Lào. “Người Lào tiếp nhận đạo Phật một cách tự nhiên như một hoạt động tổng thể của đời sống tinh thần và văn hóa theo cách họ “Thứ Phí” trước khi có đạo Phật. Đức Phật đã mang đến cho họ những điều khuyên răn làm cho các quan hệ giữa con người với con người trong cộng đồng trở nên hiền hòa êm thấm, tránh được lòng tham thói xấu”[10, tr. 196]. Mặc dù người Lào theo Phật, nhưng họ vẫn thờ thần (Phi) đó là tác động của đạo
  • 28. 24 Bàlamôn. “Đến thế kỷ XVI, vua Phothi Sararat đã ra sắc lệnh cấm thờ Phi để thờ Phật lúc đó đạo Phạn đã mờ nhạt chỉ con được giữ lại một số nghi lễ như; Ba Xi là tục buộc chỉ cổ tay để cầu phúc, khẩn, cầu may mắn,…”[10, tr. 197]. Do vậy, lễ hội quanh năm của họ mới liên quan đến Phật giáo và có một phần là liên quan đến đạo Bàlamôn. 1.3. Giới thiệu về vùng Tây Bắc Việt Nam 1.3.1. Vị trí địa lý, khí hậu Nằm ở phía Tây- Bắc lãnh thổ Việt Nam, Tây Bắc có diện tích vào khoảng 36.000 km2 , chiếm 1/4 diện tích miền Bắc. Phía Bắc giáp Trung Hoa, với 700 km đường biên giới; phía Tây giáp Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; phía Nam giáp Thanh Hóa, Hà Tây; ranh giới phía Đông giữa Tây Bắc với Đông Bắc, vùng trung du Bắc Bộ là sông Hồng và dãy Hoàng Liên Sơn[28, tr. 12]. Hiện nay, theo các nhà nghiên cứu văn hóa, địa văn hóa, dân tộc học, ...lãnh thổ Tây Bắc gồm các tỉnh: Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La và Hòa Bình. Cũng cần chú ý, một số ngành khác có quan niệm về lãnh thổ Tây Bắc khác với các hiểu trên. Ví dụ: theo Tổng cục Thống kê, Tây Bắc bao gồm các tỉnh: Lai Châu, Điện Biên, Sơn La và Hòa Bình. Còn trong sách 500 Câu Hỏi Đáp Sắc Màu Văn Hóa Việt Nam đã viết rằng : “Tiểu vùng văn hóa Tây Bắc bao gồm các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Sơn La và một phần các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Hòa Bình. Với một địa bàn khá rộng nên Tây Bắc giáp Lào ở phía Tây, giáp Trung Quốc ở phía Tây Bắc, giáp vùng Đông Bắc Bắc Bộ ở phía Đông và giáp tỉnh Thanh Hóa ở phía Tây Nam. Mở rộng ra, tiểu vùng văn hóa Tây Bắc là một phần của vùng văn hóa Tây Bắc và miền núi Bắc Trung Bộ, bao gồm các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Hòa Bình và miền núi các tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An[ 12, tr. 99]. Tây Bắc là vùng lãnh thổ bao gồm nhiều dãy núi và cao nguyên. Nếu tính từ
  • 29. 25 thung lũng sông Hồng thuộc địa phận phía Đông của Lào Cai, Yên Bái... cho đến biên giới phía Tây giáp với Công hòa Dân chủ Nhân dân Lào( CHDCDL), địa hình hết sức phức tạp. Phía Đông lãnh thổ Tây Bắc là dãy Hoàng Liên Sơn, dài tới 180km từ biên giới Việt – Trung cho đến tận Vạn Yên, có chiều rộng trung bình khoảng 30km. Đa số các đỉnh núi thuộc dãy núi này đều có độ cao trung bình từ 1.500 đến trên 3000m, thấp nhất cũng là 1.069m (đèo Khau Cọ). Nếu không kể dòng sông Hồng Hà cuồn cuộn nước phù sa, Hoàng Liên Sơn chính là ranh giới chia đôi phần lãnh thổ Bắc Việt Nam thành hai vùng Đông Bắc và Tây Bắc. Thuộc phần đất giáp biên giới với CHDCDL là dãy núi sông Mã. Tuy không cao bằng Hoàng Liên Sơn, nhưng sông Mã được xếp vào loại núi có độ cao trung bình (có đỉnh cao tới 1.800m). Sông Mã chạy dài tới 500km, tỏa rộng sang cả Samneau thuộc lãnh thổ CHDCDL và miền núi Tây Thanh – Nghệ. Giữa hai dãy núi đồ sộ trên là phần đất thuộc vùng núi thấp tương đối rộng lớn thuộc lưu vực sông Đà với nhiều cao nguyên đá vôi (dài 400km, rộng 10 – 20 km, cao 600 – 1.000m) chạy suốt từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Quan Sơn, Quan Hóa... (Thanh Hóa). Đây là vùng lãnh thổ bị chia cắt rất dữ dội và chỉ cách nay khoảng hơn vài chục năm vẫn còn tương đối hoang vu. Xen giữa những dãy núi lớn nhỏ là các bồn địa, các cánh đồng Mường Than (Than Uyên, Lai Châu), Mường Lò (Nghĩa Lộ), Mường Tấc (Phù Yên, Bắc Yên), Mường Muổi (Thuận Châu), Mường Vạt (Yên Châu), Mường Xang (Mộc Châu) thuộc tỉnh Sơn La; Mường Ẳng, Mường Then (Điện Biên), Mường Lay (Lai Châu), Mường Mùn (Mai Châu), Mường Bi (Tân Lạc), Mường Vang (Lạc Sơn), Mường Thàng (Kỳ Sơn) và Mường Động (Kim Bôi) thuộc tỉnh Hòa Bình... Ngoài các cánh đồng bồn địa lớn, nằm xen cài giữa các vùng núi đồi Tây Bắc còn có hàng trăm cánh đồng diện tích vào loại trung bình và nhỏ. Tất cả những cánh đồng bồn địa đó chính là những vùng tụ cư, lập làng khai phá đất đai thành ruộng
  • 30. 26 nước và sinh sống bằng nghề trồng lúa nước của các dân tộc nói ngôn ngữ Tày – Thái, Việt – Mường và Hoa – Hán[28, tr. 15-17]. Nếu so sánh với các vùng khác ở Việt Nam, Tây Bắc là xứ sở của các hiện tượng tự nhiên tương đối cực đoan. Khí hậu vùng này ấm hơn ở Đông Bắc, nhờ có Hoàng Liên Sơn chắn bớt gió lạnh thổi từ Đông – Bắc xuống vào mùa đông. Tuy vậy mùa đông ở Tây Bắc cũng không kém khắc nghiệt, nhất là các vùng có độ cao trên 1.000m. Nhìn chung Tây Bắc thuộc vùng khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa. Mùa mưa ở Tây Bắc thường kéo dài từ tháng Tư, tháng Năm đến tháng Mười Dương lịch. Về mùa mưa khí hậu nóng bức, mưa rất nhiều, độ ẩm không khí cao. Đầu mùa mưa thường hay có mưa đá. Từ giữa tháng Tư, các cơn mưa thường kéo dài và kèm theo dông lớn. Mưa nhiều nhất tập trung vào tháng Sáu, tháng Bảy Âm lịch (tháng Tám Dương lịch).Trong khoảng thời gian các tháng mùa mưa, Tây Bắc thường có tổng lượng mưa trung bình vào khoảng 1.500 – 2.300mm. Nhiệt độ trung bình vào mùa mưa ở Tây Bắc thường ở mức 25C đến 35C. Mùa khô lạnh ở Tây Bắc thường kéo dài từ tháng Mười một đến tháng Tư năm sau (Dương lịch). Đặc điểm nổi bật của khí hậu Tây Bắc mùa này là khô và hanh kèm theo lạnh buốt. Có những tháng về mùa này ở Tây Bắc lượng mưa chỉ đạt tới 5 – 20mm. Vào những đợt rét nhất, nhiều nơi có nhiệt độ trung bình xuống tới 4C hoặc 5C. Kèm theo lạnh là sương mù dày đặc, gió Bấc và sương muối. Vào thời điểm giao mùa, tức là vào khoảng từ tháng Hai đến tháng Tư (Dương lịch), ở Tây Bắc trời chuyển dần từ lạnh sang nóng. Vào thời gian này, chênh lệch nhiệt độ giữa ban ngày và đêm ở Tây Bắc rất cao, nhiều khi buổi trưa nhiệt độ lên tới 38C, nhưng về đêm nhiệt độ lại xuống chỉ còn 18C - 20C. Chính quãng thời gian này, Tây Bắc rất
  • 31. 27 hay có gió khô nóng từ Lào thổi sang, cư dân Tây Bắc gọi đó là Nôm Lào[28, tr. 23]. 1.3.2. Con người, tín ngưỡng, tôn giáo và các lễ hội ở vùng Tây Bắc Việt Nam Hiện nay, dân số ở Tây Bắc có khoảng hơn năm triệu dân, phân bố ở các tỉnh: Lào Cai: 614.595 người; Yên Bái: 740.397 người; Điện Biên: 490.306 người; Lai Châu: 370.502 người; Sơn La: 1.076.055 người; Hòa Bình: 785.217 người (theo tổng điều tra dân số nhà ở Việt Nam 1/4/2009)[28, tr. 35]. Tây Bắc là vùng tập trung đông các dân tộc anh em thuộc ba ngữ hệ lớn Đông Nam Á đó là ngữ hệ Thái - Ka Đai, ngữ hệ Nam Á và ngữ hệ Hán – Tạng. Ngữ hệ Thái – Ka Đai bao gồm các dân tộc: Thái, Tày, Nùng, Giáy, Lào, Lự, Bố Y, Sán Chay, La Ha. Ngữ hệ Nam Á bao gồm các tộc người nhóm Môn – Khamer là Khơ Mú, Xinh Mun, Kháng, Mảng; các tộc người nhóm Việt – Mường là Mường, Kinh (Việt), Thổ; các tộc người nhóm H’mông – Dao là H’mông – Dao. Ngữ hệ Hán – Tạng bao gồm các tộc người Hoa (Hán), Hà Nhì, Lô Lô, Phù Lá, La Hủ, Cống, Si La[12, tr. 104-105]. Trong số các dân tộc vùng này thì người Thái có số dân đông nhất, trình độ phát triển về mọi mặt đều cao hơn và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các dân tộc khác, nhất là các dân tộc nói tiếng Môn – Khơme. Thời xưa quý tộc người Thái là tầng lớp thống trị đối với đồng tộc và các dân tộc khác trong vùng [11, tr. 485]. Vạn vật hữu linh, là tín ngưỡng của các cư dân vùng thấp. Họ quan niệm muôn vật đều có linh hồn (phi). Sống dựa hoàn toàn vào tự nhiên, họ tin vào sức mạnh của các thế lực siêu nhiên. Vì thế cầu cúng xin sự phù hộ mưa thuận gió hòa, được mùa, người an, vật thịnh,... là cách phổ biến trong ứng xử với tự nhiên của họ. Đó cũng là cơ sở phát sinh và tồn tại của các nghi lễ
  • 32. 28 truyền thống của các cư dân Tây Bắc. Về vũ trụ quan các dân tộc Tây Bắc đều cho rằng có: Mường trời (Mường Then), nơi ở của thần linh (Then), thế lực cai quản vũ trụ và tổ tiên (phi đẳm) của con người ở mặt đất. Trên Mường Then, theo họ gồm có: Mường một (nơi ở của phi một, chăm lo sức khỏe), Mường phi cướt (nơi cư ngụ của linh hồn trẻ con chết yểu do phi cướt cai quản), Mường ha (nơi cư ngụ của các ma chết do bệnh dịch, chết trận, hổ vồ, rắn cắn, chết đuối, ngã cây), Mường hịt, Mường hạy (nơi trú ngụ của ma những người khốn khỏ), Mường khlốc, khlái (nơi ở của ma cô đơn), Mường đẳm đoi, (nơi ở của ma tổ tiên thường dân), Mường liên pan luông (nơi cư ngụ của ma tổ tiên dòng họ quý tộc), Mường Then (mường của các thần linh trong coi vũ trụ) bao gồm: Then luông (ông chủ Mường Then), Then chăng, then bun (coi phúc lộc), Then hịt, Then hạy (coi người nghèo khổ), Then ló (then đúc ra con người), Then chất then chát (quản sự sống chết), Then khơ then khọc (trông coi sự sống), Then Xội (luật tục, tội lỗi), Then Chương (quản anh hùng, cứu nhân độ thế), Then vi/Then thỏng (trông coi một nửa Mường Then và một nửa Liên pan luông/mường tổ tiên quý tộc), Then hung, Then khao (trông coi mưa gió,...), Then xính (trông coi các dòng họ). Mường pưa/Mường bằng: thế giới của người trần gian. Tầng dưới cùng ở dưới mặt đất (mường pa tịn), thế giới của những người bé nhỏ, ăn bằng nước; và ở dưới nước (mương bua khú), thế giới của ma thuồng luồng (phi to nguok)[ 28, tr. 394-395]. Về tín ngưỡng của các tộc người ở Tây Bắc, cũng cần phải nói thêm rằng: Hầu hết, các tộc người còn lưu giữ nhiều hình thức tín ngưỡng lâu đời. Đó là tục thờ vật tổ (totem) của các dòng họ Khơ Mú, Thái, Xinh Mun, Kháng La Ha, Dao; tục cúng ma bản, ma mường (xên bản, xên mường; Tục
  • 33. 29 thờ cúng tổ tiên (xên phi hươn); ma thuật chữa bệnh; ma thuật làm hại (bằng phăn, lắng lượt,...); Tục thờ thần săn bắn và các nghi lễ nông nghiệp như thờ thần chăn nuôi, cầu mưa (xên xó phón), cúng thần gió (phí lôm/mô hả), tục mẹ lúa (me ngo), cúng thần nước (xên phi nặm/to nguok), cúng ma rừng, ma núi (xên phi pá), cúng cơm mới (xên khảu mớ), cúng xuống đồng...[28, tr. 396]. Cúng bái, kêu cầu ở Tây Bắc thường gắn chặt với các hoạt động kiếm sống, vì thế mỗi mùa mỗi tiết cư dân trong vùng thường tổ chức một số nghi thức cầu cúng nhất định. Đầu năm các tộc người Tây Bắc đều ăn tết Nguyên đán. Người Mường vẫn gọi tết này là tết Cả, người Thái, người Tày, người Nùng và người Giáy đều ăn Kin Chiêng (ăn tết tháng Giêng), người H’mông ăn tết H’mông vào cuối tháng Mười hai Dương lịch, nhưng thông thường họ cũng ăn tết Nguyên đán. Lễ hội xuống đồng (khai hạ/khuổng mùa) của người Mường tổ chức từ mồng Bảy đến mồng Mười tháng Giêng. Ở Mường Bi (Tân Lạc, Hòa Bình) theo tục lệ Mường, họ tổ chức đi săn, tu sửa mương, cúng thần tại đình. Lồng tồng của người Tày, Nùng tổ chức từ mồng Năm đến Rằm tháng Giêng, trên ruộng, với mục đích cầu mùa, không khác gì mấy so với lồng tồng.Đoòng Chứ Thu Lùng của người Nùng là lễ cúng thần rừng, thần núi, tổ chức vào tháng Giêng, cũng là lễ cầu an, cầu mùa. Kin Lảu Ló của các mo Thái, Doông Mợi của mo Mường, Then của các Then Tày, Then Nùng... cũng đều tổ chức vào tháng Giêng, hay đầu xuân để tạ ơn Phi Hươn và Phi Tay của Mo Một và cầu an cho mọi người. Vào đầu xuân, người Thái ở các mường thường tổ chức Xên Bản, Xên Mường (cúng Bản, cúng Mường), tại Đông Sựa (rừng Bản) hay Đông Tu Mương (rừng Mường) để cầu an, cầu mùa[28, tr. 396-397]. Khi đã kết thúc mùa màng (cuối hè, đầu thu), người Thái Trắng, Tày, Nùng, Giáy... ăn Tết Xíp Xí (mười Bốn, tháng Bảy), hoặc
  • 34. 30 tết trẻ con (chiêng ninh nọi)[28, tr. 398]. Thu lúa mùa xong, các dân tộc Tây Bắc đều cúng cơm mới (Xên Khảu Mớ) để tạ ơn tổ tiên [28, tr. 399]. 1.3.3. Giới thiệu về dân tộc Thái ở Tây Bắc Việt Nam Tộc người Thái ở Việt Nam là dân tộc nằm trong cộng đồng ngôn ngữ Đông Nam Á thuộc ngành Tày – Thái và hiện nay, là dân tộc chiếm đa số ở vùng Tây Bắc Việt Nam, người Thái đang sinh sống tại đó gồm có hai nhóm ngành như: Thái Đen và Thái Trắng và trong hai nhóm này cũng có sự phân chia thành nhiều nhóm địa phương. Ngành Thái đen (Táy Đăm) cư trú chủ yếu ở tỉnh Sơn La, huyện Than Uyên (Lai Châu), huyện Văn Chấn (Yên Bái) và Tuần Giáo, Điện Biên (tỉnh Điện Biên). Ở miền Tây Nghệ An có nhóm Táy Thanh (hay Man Thanh), từ Mường Thanh (Điện Biên) qua Lào, vào Thanh Hóa, đến Nghệ An cách đây hai, ba trăm năm. Nhóm này gần gũi với nhóm Thái ở huyện Yên Châu (Sơn La) và chịu ảnh hưởng nhiều văn hóa Lào. Nhóm Táy Mười ban đầu là một bộ phận cư dân Thái ở Mường Muổi (Sơn La) và chịu ảnh hưởng nhiều văn hóa Lào, đi vào Thanh Hóa và Nghệ An từ thời vua Lê Thái Tổ (đầu thế kỷ thứ XV) nay cư trú xen kẽ với người Táy Khăng từ Lào sang. Ngành Thái trắng (Táy Khao hay Táy Đón) cư trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu và các huyện Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù Yên (Sơn La).Ở Đà Bắc (Hòa Bình) có nhóm tự nhận là Táy Đón được gọi là thổ. Ở vùng Văn Bàn, Dương Quỳ thuộc tỉnh Lào Cai, có một số Thái Trắng sống lẫn với Thái Đen, nay đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Tày và tự nhận là Tày, mặc dù vẫn tự gọi mình là Táy Đón, Táy Đăm. Từ hai ngành chia thành nhiều nhóm phức tạp cư trú ở Mộc Châu (Sơn La), Mai Châu (Hòa Bình), miền núi Thanh Hóa và Nghệ An chịu ảnh hưởng nhiều của văn hóa Lào và văn hóa Mường. Những ngành Thái ở Việt Nam
  • 35. 31 đều chung một gốc với các nhóm Thái ở Nam Trung Hoa, ở Lào, ở Thái Lan và Miến Điện[25, tr. 19-20]. Đặc biệt đáng chú ý là Mường Then, Mường Theng hay Mường Thanh tức huyện Điện Biên, nơi diễn ra trận đánh Điện Biên Phủ làm chấn động địa cầu. Xưa Mường Then có lẽ rộng hơn bây giờ, bao gồm cả miền Mường Tè (Lai Châu) sông Mã (Sơn La) và một phần tỉnh Phong Sa Ly thuộc Lào nữa. Hầu hết các tộc người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, ở Lào và ở cả Thái Lan đều nhận Mường Then là nơi quê tổ của mình. Sử Lào có sự tích Khun Bôrom được nhà trời phái xuống, đầu tiên đến đất Mường Theng, từ đấy để lập nước ở Luông Pha Bang và các nơi[25, tr. 24]. Trong tiếng Thái từ Bản Mường có nghĩa như sau: Bản là làng “người Thái sống định cư thành từng bản. Mỗi bản là một địa vực cư trú riêng. Ranh giới bản được xác định bằng các mốc tự nhiên như: đèo dốc, con đường, con mương, gốc cây cổ thụ, chỗ ngoặt,...” [27, tr. 54]. Còn Mường là: “một danh từ trong ngôn ngữ Thái (“Mường” trong bản mường”) là “đơn vị hành chính cấp trên bản” (trong xã hội Thái trước đây). “Mường thường được hiểu theo hai nghĩa: a) Là vùng đất rộng lớn cư trú một cộng đồng người như Mường Thay/Thái, Mường Keo/Kinh, Mường Lào; hay là một nước như Mường Hán (Trung Quốc), Mường Liên Xô, Mường Việt Nam...; b) Là khu vực đất đai do một chúa đất (trước cách mạng tháng Tám 1945) cai quản. Khu vực đó xưa có thể tương ứng với một vùng rộng lớn đứng đầu bởi một “chẩu phen đen” (chúa đất); với một châu, một huyện như Mường Lay, Mường Mộc (Tây Bắc), đứng đầu là một chúa đất lớn (“án nha”) hay với một xã như Mường Bú (Sơn La) đứng đầu là một chúa đất nhỏ (“phìa”)[29, tr. 243]. Người Thái đã tạo dựng nên một nền văn hóa tộc người độc đáo từ rất sớm. Nền văn hóa này được các nhà nghiên cứu gọi là văn hóa thung lũng,
  • 36. 32 cũng được coi là tiền thân của văn hóa đồng bằng. Những đặc điểm văn hóa được thể hiện trong mọi mặt đời sống tộc người Thái ở Tây Bắc. Trong đó lúa nước sớm trở thành cây lương thực chính của đồng bào Thái với các giống lúa nếp dẻo, thơm, thậm chí còn có một loại lúa nếp được gọi là nếp quên chồng (khạu lưm phua). Tập quán ăn cơm nếp với các dạng thức ăn khô như nướng, đồ, vùi tro bếp... đã trở thành điểm đặc trưng trong văn hóa ẩm thực của người Thái. Người Thái sớm định cư thành các bản mường đông đúc, tụ cư theo quan hệ láng giềng, vận hành theo chế độ dân chủ cộng xã mà tạo bản là người đứng đầu, được coi là ông bố chung (Po bản). Là cư dân trồng lúa nước lâu đời nên các lễ hội của người Thái thường liên quan đến nông nghiệp và cầu mùa [12, tr. 109]. Bởi dân tộc Thái có tín ngưỡng đa thần nên thầy cúng trong văn hóa Thái có vị trí rất quan trọng được gọi là thầy mo. Trong đời sống tâm linh tín ngưỡng, vai trò của thầy mo được thể hiện rất rõ trong các nghi lễ từ khi con người sinh ra cho đến khi mất đi. Thầy mo được cho là người có khả năng giao tiếp với ma, thần – những thế lực siêu nhiên, nên người Thái thường gắn cuộc đời của họ với những câu chuyện kỳ lạ[27, tr. 208]
  • 37. 33 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 Văn hoá rừng là một tập hợp các ứng xử đặc trưng gắn với hệ sinh thái rừng của các cộng đồng sở tại, được thể hiện trong quan niệm, các nghi lễ, các hình thức quản lý, khai thác và bảo vệ rừng của họ, rồi dần dần trở thành phong tục tập quán, tín ngưỡng tốt đẹp được chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong luận văn này, tác giả sẽ dựa trên khái niệm văn hoá rừng để trình bày và so sánh văn hoá rừng của các cộng đồng sở tại – mà chủ yếu là của người Lào ở vùng Tây Bắc Lào và người Thái ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Vùng Tây Bắc Lào là một khu vực không rộng lắm, phần lớn địa hình là núi cao và rừng..., là nơi hội tụ của khoảng 20 dân tộc, có tín ngưỡng, phong tục tập quán, và các lễ hội khác nhau như một cây hoa đa màu. Trong cộng đồng các tộc người sinh sống ở vùng Tây Bắc Lào, người Lào là một trong nhóm người đông. Từ xưa đến nay Phật giáo có vai trò rất quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của người Lào. Bên cạnh đó, người Lào cũng thực hành tín ngưỡng đa thần. Tây Bắc Việt Nam là khu vực có địa hình hiểm trở, đa phần lãnh thổ là đồi núi xen lẫn các thung lũng, là nơi sinh sống của khoảng 20 dân tộc, trong đó người Thái là dân tộc đông nhất ở Tây Bắc với hai nhóm: Thái Tắng và Thái Đen. Trong hai nhóm này còn chia thành nhiều ngành khác nhau cư trú ở vùng Tây Bắc. Họ là tộc người chuyên trồng lúa nước vì thế các lễ hội của họ cũng liên quan đến nông nghiệp. Người Thái không theo một tôn giáo lớn nào mà theo các tín ngưỡng đa thần.
  • 38. 34 Chƣơng 2 VĂN HÓA RỪNG NHÌN TỪ TÂY BẮC LÀO VÀ TÂY BẮC VIỆT NAM 2.1. Văn hóa rừng của ngƣời Lào ở Tây Bắc Lào 2.1.1. Nhận thức của con người về thế giới rừng Theo ông Khamman, phó trưởng làng Suandara cho rằng: “Rừng là thế giới rộng lớn mà con người không thể hiểu được, là nơi con người phải tôn trọng, lo sợ bởi có lực lượng siêu nhiên cai quản, nếu con người ứng xử với rừng tốt rừng sẽ bù cái tốt lại cho con người. Do vậy những người sống cùng với rừng, rừng không chỉ là vật chất mà là tinh thần có giá trị vô cùng cao”. Ông Thongchanh, Kuan chặm của làng Suandara (người hướng dẫn làm các tục lễ trong làng) cho biết:“Ngoài các vật chất mà rừng đã đáp ứng nhu cầu của con người, rừng còn là điểm tựa của người dân về tinh thần bởi các thần linh đều trú ngụ ở rừng và phù hộ cho những con người làm tốt, nhưng đối với kẻ làm xấu các thần linh và các loại ma sẽ không phù hộ. Vì thế con người mới thể hiện cách tôn trọng, sợ hãi thế giới này thông qua các nghi lễ, có các nghi lễ và phong tục tập quán liên quan đến rừng và phải tổ chức ở rừng mà không thể tổ chức ở nơi khác thay rừng được”. Ông Saly, trưởng làng cho biết thêm: “Hiện nay dù cuộc sống vật chất thay đổi rất nhiều so với ngày xưa con người có nhiều cách để khai thác tự nhiên nói chung, rừng nói riêng nhưng trong đó con người cũng phải biết kính trọng, bảo vệ tự nhiên sống cùng nhau hai bên đều có ích và chúng ta vẫn tin rừng là nơi rất thiêng”. 2.1.2. Cách phân loại rừng của người Lào
  • 39. 35 Ở làng Suandara, rừng được chia thành 3 loại và mỗi loại rừng cũng có chức năng khác nhau như: rừng thiêng, rừng cấm, rừng sản xuất. Rừng thiêng gồm có: Rừng ma (pa sạ, pa khăm):Theo quan niệm của Phật giáo, không có gì tồn tại mãi mãi, không có gì hoàn toàn chắc chắn, chỉ có một sự thật chắc chắn nhất đó là cái chết –điều không ai trên thế giới này tránh được. Người Lào luôn tuân theo quan niệm của Phật giáo, có nhân có quả nếu khi còn sống ai đã làm những thứ gì sau khi chết người đó cũng phải chịu những thứ mà mình làm, cụ thể như: nếu khi còn sống đã làm những thứ tốt khi mất linh hồn sẽ đi và được sắp xếp theo đường đó, ngược lại nếu khi còn sống chỉ làm những thứ ác tất nhiên thế giới sau khi mất sẽ không lành. Và chúng ta sẽ không thể biết được sau khi mất linh hồn của người chết sẽ đi đâu vì vậy (pa sạ) là nơi cuối mà người nhà, họ hàng, bạn bè của người mất có thể đi tiễn họ. Rừng ma của làng Suandara có diện tích tất cả là hai ha, rừng được đặt ở cuối làng. Trong rừng có nhiều cây to cổ thụ nhiều năm, có tổ ong, và các loại động thực vật khác. Nói chung, hệ sinh thái của rừng không thay đổi nhiều lắm bởi không ai được khai thác mọi thứ trong rừng trừ những ngày hỏa táng, ngày thiêu xác người chết – là thời điểm mà dân trong làng có thể chặt cây, lấy củi để thiêu và cùng ngày đó dân làng có thể lấy mật ong, hái rau, hoặc săn bắt. Nhưng nếu sau ngày thiêu rồi mà ai đó vẫn cứng đầu lấy của trong rừng thì anh ta sẽ gặp phải những rủi ro: bị ốm đau, đôi khi có thể bị chết. Rừng ma (pa sạ) ngoài có vai trò thiêu những xác người chết nó còn là nơi đất thiêng mọi người phải tôn trọng, khi qua lại rừng phải đi nhẹ nói khẽ, không được nói tục, chửi nhau. Ai làm trái những qui định này sẽ gặp ma - đó là lời khuyên của các ông bà từ thế hệ trước và người già hiện nay vẫn tiếp tục khuyên con cháu như vậy.
  • 40. 36 Rừng thần làng (pa hó, đồng hó): Là nơi trú ngụ của thần làng, cũng là rừng thiêng. Trong rừng có một cây to, to nhất trong rừng này, dân trong làng tin rằng cây đó là nhà của thần làng trong khu vực rừng này. Người làng không được phép chặt cây nhưng có thể lấy củi từ cây tự chết theo tự nhiên, có thể hái rau, nhặt nấm theo mùa, ... Mỗi năm, dân làng tổ chức nghi lễ cúng thần làng hai lần ở khu vực này, nếu năm nào bị mất mùa, vật nuôi của dân bị bệnh dịch lây lan hoặc chết nhiều, họ cũng tổ chức lễ cúng thần làng ở khu vực rừng này. Khi có ai ra hoặc vào làng, có bé mới sinh, đám cưới, xây nhà mới, ... các già làng và ông Kuan Chặm phải đi khấn thần làng thông báo cho họ biết. Rừng đồng hó đóng vai trò rất quan trọng, là điểm tựa về tinh thần của dân làng Suandara. Rừng cấm (pa sa nguôn, pa huông hạm): Loại rừng này không liên quan đến các tổ chức nghi lễ của làng. Khu vực rừng cấm được dân làng quyết định chọn khu vực rừng đầu suối, có nhiều cây cổ thụ -là nguồn cung cấp nước uống, nước dùng, gỗ, lâm sản. Rừng này không được khai thác hoặc sản xuất theo cá nhân bởi nó là tài sản chung của làng. Mọi thứ trong rừng sẽ được khai thác khi làng cần dùng vào việc chung. Nếu ai vi phạm sẽ bị phạt bằng tiền, ít nhiều tùy theo trường hợp và bị thu lại những thứ đã lấy, nhưng hiện nay các hình thức phạt như ngày xưa không còn tồn tại nữa nếu ai vi phạm cũng phải tuân theo pháp luật. Ngày xưa, rừng này dân làng có thể khai thác gỗ, lâm thổ sản, săn bắt, hái nhặt rau theo mùa được bình thường, nhưng khi nào có nhu cầu chặt cây để xây nhà các thành viên trong làng phải họp nhau và xin ý kiến của già làng và trưởng làng, nếu mọi người đồng ý họ sẽ cùng nhau vào rừng để giúp nhau chọn cây rồi chặt. Trong trường hợp ai tìm thấy tổ ong nhưng chưa lấy được nó phải làm dấu hiệu như: đan mảnh phên bằng tre hoặc bằng cỏ và đặt nó ở dưới gốc cây đó để báo cho người khác đi vào rừng biết, tổ ong đó có người thấy rồi. Nếu có người nào đó vào rừng và
  • 41. 37 gặp những dấu hiệu đó mà vẫn cứng đầu lấy của người ta người đó sẽ bị phạt; hình thức phạt của ngày xưa, chủ yếu là không phạt bằng tiền nhưng người nào bị phạt phải ra chùa uống nước để hứa lần sau sẽ không làm thế nữa, và người bị phạt sẽ cảm thấy rất xấu hổ và người Lào xưa tin rằng: những người bị phạt hay bị người khác chửi, người đó sẽ làm ăn không ra mọi thứ trong đời sẽ thành đen, do vây, người xưa họ luôn tin rằng: ở hiền sẽ gặp được lành. Hình thức phạt bằng tiền cũng có nhưng không phổ biến lắm. Ông Xiengkham đã kể rằng: “Ngày xưa, mỗi năm cứ đến ngày Khẩu Văn Xả (tuần chay kéo dài ba tháng dành cho công việc ăn chay niệm Phật của các nhà sư, xét để bạt, kỷ luật…)[10, tr. 217] bắt đầu từ tháng Bảy – Chín (Dương lịch) – là tháng Tám – Tháng Mười Lào, có một số năm là từ tháng Chín – Tháng Mười Một Lào, trong ba tháng đó các thành viên trong làng không ai vào rừng này với mục đích săn bắn các thú trong rừng bởi thời gian này người Lào sẽ kiêng: không sát sinh và cố gắng không làm những thứ ác,…” Rừng sản xuất (pa phạ lịt): Theo Cục Lâm nghiệp của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân Dân Lào (2006), rừng sản xuất “là rừng và đất rừng, được phân chia để đáp ứng nhu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội quốc gia và cuộc sống của người dân về gỗ và sản phẩm rừng bằng cách thức thông thường vĩnh viễn, mà không có tác động nghiêm trọng tới môi trường [42, tr. 4]. Khu vực rừng sản xuất cấp làng hoặc nhóm làng: về việc quản lý rừng sản xuất lâu dài (2002) là khu vực rừng hoặc khu vực đất rừng được quy định trong khu vực quản lý rừng sản xuất cấp huyện, theo biên giới của một hoặc nhiều làng để thực hiện việc quản lý và sử dụng bền vững [42, tr. 5]. Bộ Nông và Lâm nghiệp của Lào (2006) đã quy định rằng: rừng và lâm sản mà nhà nước đã trao cho làng tự quản lý, nhưng vẫn là quyền sở hữu của quốc dân, nhà nước nhất định không cho phép cho cá nhân hoặc một tổ chức nào đó khai thác gỗ bằng cách thức kinh tế nhưng cho phép cho gia đình
  • 42. 38 người dân trong làng khai thác để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và có thể sử dụng trong gia đình nhưng phải được phép từ trưởng làng hoặc văn phòng nông và lâm nghiệp của huyện. Còn gỗ mà cá nhân hoặc một tổ chức nào đó đã tự trồng và khôi phục bằng vốn và sức của mình bằng cách nhà nước đã công nhận là quyền sở hữu của họ, họ có quyền quản lý sử dụng, nhận được thành quả, chuyển nhượng, trao quyền và thừa kế [ 42, tr. 8]. Pa phạ lịt của làng Suandara được nhà nước phân chia cho làng tự quản lý nhưng khi đóng thuế hoặc trong trường hợp có người dân bị phạt, phải đóng cho văn phòng nông và lâm nghiệp của huyện. Diện tích rừng sản xuất tùy theo mỗi gia đình, rừng sản xuất chủ yếu là tài sản được chuyển nhượng từ ông bà bố mẹ của họ và được chuyển nhượng từ thế hệ này sang thế hệ khác trừ trường hợp họ bán cho người khác, mỗi năm họ phải đóng thuế cho nhà nước theo diện tích đất của mình. Ông Saly - trưởng làng Suandara cho biết rằng: “Nghề chính của dân ở đây là trồng trọt và chăn nuôi, do vậy, khu vực rừng sản xuất của làng cũng có nhiều, có một số gia đình trồng các loài cây công nghiệp - cụ thể như: cây cao su, cây tếch, cây đót,... các cây lương thực như: vừng, hạt bo bo, lạc,... còn các đồng bào dân tộc H’mông họ cũng trồng ngô, làm nương rẫy trồng lúa,... Ông Thongchanh – già làng cho rằng: “Luật lệ để bảo vệ rừng ngày xưa không có biên bản chính thức, nhưng theo hình thức chuyển miệng của ông bà xưa đã dặn dạy làm cho mọi người phải tuân theo, như trong khu vực rừng thiêng không ai dám làm linh tinh, dù bị phạt hay không mọi thành viên trong làng cũng không dám khai thác gỗ hay săn bắt các thú trong rừng mỗi năm cứ đến mùa ăn chay (Bun Khẩu Phăn Xả) mọi người sẽ không vào rừng khai thác gỗ, bởi nếu khai thác trong mùa này gỗ sẽ bị mọt, mối ăn gỗ hết do mùa này là mùa mưa trời ẩm, một điều nữa mùa này, người Lào không sát sinh” (Phỏng vấn sâu ngày 19 tháng 3 năm 2019).
  • 43. 39 2.1.3. Chức năng sinh kế của rừng Trong xã hội truyền thống của người Lào cũng như hiện nay, rừng đóng vai trò như một nguồn sinh kế rất quan trọng. Theo ông Thongchanh, “Sau khi dựng bản lập mường, theo truyền thống của người Lào là ở nhà sàn. Rừng là nơi cung cấp gỗ và các vật liệu khác cho chúng ta để xây được nhà che chở nắng mưa. Không chỉ thế nó còn là kho dược liệu. Người xưa, mỗi năm, các thầy thuốc sẽ vào rừng để tìm thuốc rồi mang về phơi khô hoặc bất kỳ lúc nào cần dùng đặc biệt khi trong làng có phụ nữ sắp sinh, người nhà phải đi nhờ thầy thuốc vào rừng tìm các loại cây thuốc để đến khi nào sinh họ sẽ đun cho mẹ bé uống để phục hồi sức khỏe cho người mẹ. Rừng còn là kho cung cấp đồ ăn cho chúng ta cụ thể như: các loại rau, nấm, măng, các thú rừng, …”(Phỏng vấn sâu ngày 19 tháng 3 năm 2019). Ông Khamman - phó trưởng làng, cho biết: “Từ khi tôi nhớ được, lúc đó, đường đi lại không thuận tiện như hiện nay, muốn giao lưu giao tiếp với làng bên cạnh kể cả vận chuyển mọi thứ phải nhờ đường thủy. Làng của chúng ta có một điều rất hay là được dựng ở bên cạnh sông Khan, nó đã tạo điều kiện thuận lợi cho dân làng nhưng muốn giao thông trên sống cái phương tiện quan trọng nhất là thuyền. Hồi đó, dường như gia đình nào cũng có thuyền. Để đóng được một con thuyền, nhất định phải có gỗ để đóng, tất nhiên gỗ đó phải vào rừng mà tìm rồi chặt về đóng thuyền. Rừng còn là nơi làm ăn sản xuất các lương thực thực phẩm như: lúa, ngô, hạt bo bo, vừng, lạc, … Khi nào đến mùa sản xuất, dân ở đây sẽ tập trung làm việc ở trên nương cho đến ngày rằm của mỗi tháng hoặc trong làng có việc như: có người mất, ăn cưới, … mới được nghỉ và trong ngày nghỉ đó họ phải lên rừng tìm củi để phục vụ cho việc nấu nướng trong gia đình. Hồi xưa, trong mùa nông nhàn,
  • 44. 40 các nam luôn rủ nhau vào rừng tìm lâm thổ sản như: mây, mật ong, một số loại nhựa cây, … Nói chung, cuộc sống ngày xưa, của dân đây chủ yếu là tựa vào rừng có thể nói nhờ có rừng chúng ta mới sống được” (Phỏng vấn sâu ngày 19 tháng 3 Năm 2019). Ông Thongchanh nói thêm: “Hồi đất nước có chiến tranh, rừng đóng vai tròng như nơi che chở bom cho chúng ta cho đến ngày nay rừng còn tiếp tục che bão cho chúng ta cũng như các lương thực mà ta trồng ở trên rẫy” (Phỏng vấn sâu ngày 19 Tháng 3 Năm 2019). Sau nay sẽ kể đến vai trò trong đời sống tinh thần, ông Thongchanh cho biết thêm: “Ngoài rừng đã đáp ứng cho ta nhưng nhu cầu vật chất rừng còn là điểm tin tựa của dân làng. Theo nhận thức của chúng tôi, rừng là nơi trú ngụ của lực lượng siêu nhiên cái mà chúng ta không thể nhìn thấy bằng con mắt vì thế một số phong tục tập quán của làng mới liên quan đến rừng cũng như thiên nhiên, rừng là nơi tổ chức một số nghi lễ liên quan đến tín ngưỡng của người Lào” (Phỏng vấn sâu ngày 19 tháng 3 Năm 2019). 2.1.4. Các nghi lễ và thực hành văn hóa gắn với rừng Do điều kiện tự nhiên tác động vào cuộc sống của con người, nó đã tạo nên thói quen và dần dần trở thành văn hóa, phong tục tập quán của những người sống ở vùng đó. Đối với người sống ở vùng đồng bằng với nền văn hóa lúa nước, cuộc sống phần lớn sẽ liên quan đến nông nghiệp chắc chắn các phong tục tập quán của họ sẽ không thể không liên quan đến nông nghiệp, cũng không khác gì những người sống ở vùng ven bờ biển hoặc bờ sông các nghi lễ quanh năm của họ luôn gắn liền với sông biển hay sông nước. Đối với người sống ở vùng núi rừng, thế giới siêu nhiên là thế giới mọi người phải tôn trọng, bởi họ tin rằng mọi thứ đều có hồn, có chủ do vậy hằng năm họ phải tổ chức các nghi lễ liên quan đến tự nhiên, nói cụ thể là rừng.
  • 45. 41 Các nghi lễ liên quan đến rừng của làng Suandara sẽ được tổ chức hằng năm hoặc trong trường hợp có nhiều sự kiện đột ngột xảy ra, có người vi phạm luật lệ của làng. Thời gian tổ chức các nghi lễ, lễ hội dân gian ở Lào phần lớn sẽ tính theo lịch Lào. Lịch Lào: Phật lịch Lào dựa trên chuyển dịch của mặt trời và mặt trăng. Theo đó, Tết năm mới được tính bắt đầu vào tháng Mười hai, nhưng người Lào chọn lễ mừng Năm mới vào tháng Tư, là tháng lành hơn cả. Lịch Lào là sự kết hợp của lịch Thái – Khmer cổ và lịch Hoa – Việt mà trong đó tên mỗi năm được đặt theo tên của một con vật. Vì năm Phật lịch Lào tính theo âm lịch, nên việc xác định thời điểm cho ngày Tết thay đổi theo từng năm [ 33, tr. 142-143]. Các nghi lễ dưới đây được tổ chức theo lịch Lào và mỗi tháng trong năm người Lào sẽ gọi các tháng đó là Đươn Lào (tháng Lào), lịch Lào tính bắt đầu từ tháng Mười hai (Dương lịch) nên nó nhanh hơn Dương lịch 1 tháng. Thí du: tháng Một (Dương lịch) là tháng Hai Lào. 2.1.4.1. Lễ cúng thần làng (khăm hó) “Khăm hó” nếu dịch từ tiếng Lào sang là “kiêng nhà” - từ “ nhà” ở đây là nhà của thần làng. Lễ Khăm hó hoặc cúng thần làng được tổ chức thường xuyên mỗi năm hai lần. Lần đầu của năm tổ chức vào hai ngày trước ngày rằm tháng Bảy Lào (tháng Sáu Dương lịch) và kéo dài trong vòng 3 ngày; lần thứ hai tổ chức trước ngày rằm tháng Mười hai hai ngày (tháng Mười một Dương lịch) và diễn ra chỉ 1 ngày. Mục đích chính của nghi lễ này là cúng thần làng, cầu mong những thứ tốt đẹp cho các người dân trong làng, cho mùa màng bội thu, vật nuôi không bị dịch bệnh, ... Những người già trong làng kể rằng: Ngày xưa, một đêm trước ngày Khăm hó, khoảng 7 giờ tối sẽ nghe thấy tiếng ngựa chạy quanh làng có lúc
  • 46. 42 nhanh lúc chậm khoảng 2-3 vòng, dân làng tin rằng đó là thần làng đang cưỡi ngựa đi quan sát làng. Ông Xiêngkhăm, già làng cho biết thêm: “Khi ông còn là thanh niên ông còn nhớ và sẽ không bao giờ quên, hôm đó là một ngày trước ngày Khăm hó gia đình nào cũng phải chuẩn bị cho lễ ngày mai nếu ai đang xây nhà hoặc bất cứ làm việc gì cũng phải dừng lại. Và trong ngày đó, có một gia đình bên cạnh nhà ông Xiêngkhăm đang lập rào bằng tre quanh nhà nhưng chưa xong và họ để tre ở chỗ đường đi cuối làng. Đến khoảng 7 giờ tối cùng ngày, thần làng cưỡi ngựa đi qua chỗ đó và thấy họ đặt tre không đúng chỗ làm cho mọi người đi lại không tiện nên thần tức giận và làm đổ tất cả hàng rào của nhà đó. Sau khi tiếng ngựa đi qua mọi người ra ngoài xem ai cũng giật mình khi thấy rào bị đổ như có người nào đó cố tình làm đổ nó. Ông còn kể rằng: Có một năm các làng trong khu vực xung quanh bị bệnh dịch lây lan rất nặng đến mức chỉ cần thấy người này chết thì người bên cạnh cũng ngã xuống và chết theo. Lúc đó, dân làng Suandara đã đóng cửa làng, người trong không được ra, người ngoài không được vào và tổ chức lễ cúng thần làng dù chưa đến ngày nhưng các già làng cũng phải chọn ngày đẹp. Nhờ thế, dân trong làng không ai bị bệnh lây và không bị chết. Sau khi sự kiện này đã qua đi, các làng bên cạnh cũng hỏi sao dân làng này không bị chết như làng họ. Dù không có bằng chứng rõ ràng nhưng mọi người đều tin rằng đó là do sự bảo hộ của thần làng. Cuộc phỏng vấn còn cho tác giả biết thêm rằng, đã nhiều lần người dân muốn bỏ đi các nghi lễ này nhưng không thể làm được bởi nếu không cúng thần cũng như không tôn trọng thiên nhiên, thì thiên nhiên sẽ bù lại cho chúng ta những hậu quả tai hại mà không ai mong muốn. Lễ cúng thần làng lần đầu của năm được tổ chức trong vòng 3 ngày bởi trong tháng đó dân làng đã trồng trọt và làm nương rẫy xong rồi, là thời gian nông nhàn chỉ đợi trồng lúa nước thôi. Một điều nữa là vào tháng đó, ở Lào
  • 47. 43 chuẩn bị bước sang mùa mưa, đi lại cũng khó khăn nên thời gian kiêng làng cũng hơi dài. Cách thức cúng thần làng của làng suandara: Trước ngày rằm tháng Bảy Lào hai ngày cho đến ngày rằm gồm có ba ngày là ngày đẹp nhất mà họ chọn làm lễ Khăm hó. Đến ngày lễ, nam giới chuẩn bị con gà, rượu cần, và cùng nhau đi vào rừng thần làng trước mọi người để xây nhà cho thần làng (gồm có: chuồng ngựa, chuồng vịt, gà, nhà chính). Mỗi năm sẽ xây hai lần hoặc lần nào sẽ cúng mới xây, việc chuẩn bị củi mọi thứ cho việc nấu gà cũng là việc của nam còn nữ đưa mâm ngọt của gia đình mình lên nhà Kuan Chặm (người hướng dẫn làm lễ của làng) mỗi gia đình 1 mâm, trong mâm gồm có bánh ngọt, hoa quả, xôi, khoai,...mấy món cũng được nhưng không được cho món mặn vào. Sau khi đưa các mâm lên nhà Kuan Chặm rồi, ông Kuan chặm sẽ làm Khăn hạ (lễ vật là khay gồm bông, nhang, đèn mỗi loại năm cặp)[34, tr. 184] rồi dẫn mọi người nhấc mâm của gia đình mình đi rừng Đồng hó (rừng thần làng), sau khi mọi người trong làng (không tính các gia đình đồng bào dân tộc H’mông) kể cả các trẻ con đã đến rừng Đồng hó rồi, ông Kuan chặm sẽ bắt đầu nhấc một mâm ngọt, lên chỗ nhà thần làng và khấn rằng: Hay Chạu Hó Mà Khốp Mà Kín Năm Cắn Kín Lẹo Hay Hặc Sốm Hặc Sá Lục Lán Hai Du Đí Mì Heng Việc Ăn Đạy Nay Bạn Co Hai Hắc Sôm Hắc Sa Mốt Đáy. Lời dịch: Xin mời thần đến ăn cùng nhau Ăn rồi xin thần phù hộ cho con cháu có sức khỏe dồi dào Có việc gì trong làng cũng xin thần phù hộ cho.
  • 48. 44 Sau khi ông Kuan chặm khấn xong ông sẽ xuống và nhấc mâm ngọt đi đặt ở chỗ chuồng ngựa và chuồng con thú của thần làng mỗi chuồng một mâm sau đó các con trai sẽ bắt đầu nấu gà (luộc gà) tại chỗ rừng đó, sau khi gà chín, ông Kuan chặm nhấc gà và một chum rượu cần lên đặt ở nhà thần làng và khấn thêm rằng: Bát Nị Khua Súc Luộc Đi Lẹo Nọ Pha Căn Mà Khốp Mà Kín Đơ Kín Mắn Im Thoong Nứa Kín Mắn Lứa Thoong Tạy Kín Leo Hạy Hắc Sốm Hặc Sá Lục Nay Bạn Lán Nay Suốn Thúc Khôn Hay Du Đi Mi Heng Đơ. Lời dịch: Giờ đây nấu nướng luộc chín rồi Cùng nhau đến ăn nhé Ăn cho no bụng Bắc ăn cho thừa bụng Nam Ăn rồi xin thần bảo hộ con trong làng cháu trong vườn Phù hộ cho mọi người có sức khỏe dồi dào nhé. Sau khi khấn xong, ông sẽ xuống và lấy gà đi đặt ở chỗ chuồng ngựa, chuồng con thú của thần làng mỗi chuồng một con, khoảng vài phút sau ông Kuan chặm quay lại nhà thần làng và lên nói: Ờ! Hót Nị Co Sôm Mà Phà Khuôn Lẹo Nọ Si Đại Lậc Đại Là La Nọ. Lời dịch: Ờ!đến đây là vừa giờ đúng giờ rồi