SlideShare una empresa de Scribd logo
1 de 10
Descargar para leer sin conexión
Công ty Cổ Phần Phân tích định lượng Việt Nam Tel: +84 422 390 699; 09456 49731
QA Vietnam.,JSC Email: qa.vietnam@gmail.com
Hội thảo quốc tế VNS 2014, “Thế nào là đại học tốt?", Hà Nội, 2014
LỰA CHỌN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA TRONG CÁC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ: NHU CẦU THAY ĐỒI TƯ DUY
Đào Trung Kiên1,2
, Nguyễn Văn Duy2,3
1.kiendtcoco@gmail.com; 2 .nghiencuudinhluong.com; 3.duynguyen.qa@gmail.com
TÓM TẮT
Tóm tắt: Một thước đo đánh giá quan trọng về chất lượng đại học là hoạt động nghiên cứu
khoa học. Nghiên cứu khoa học ngoài việc xây dựng uy tín cho nhà khoa học với đồng nghiệp
trong chuyên ngành còn giúp nâng cao vị thế của đơn vị chủ quản, vị thế khoa học của quốc gia
và đóng góp tri thức khoa học của nhân loại. Thực tế cho thấy hoạt động nghiên cứu khoa học
tại các trường Đại học Việt Nam hiện nay bị đánh giá thấp so với các Đại học trong khu vực và
thế giới, trong đó có các trường Kinh tế. Một trong những lý do quan trọng ảnh hưởng đến sự
hiện diện khoa học kinh tế Việt Nam còn thấp là do các nhà nghiên cứu theo đuổi các đề tài
thiếu tính học thuật hoặc có sự nhầm lẫn giữa hoạt động nghiệp vụ và hoạt động nghiên cứu
khoa học. Do đó nhu cầu cần thiết phải thay đổi tư duy trong việc lựa chọn các đề tài nghiên cứu
khoa học phù hợp, mang tính học thuật theo những chuẩn mực khoa học quốc tế.
Từ khóa: Nghiên cứu khoa học, Lựa chọn đề tài; Đại học Kinh tế, Đổi mới tư duy
1. Đặt vấn đề
Nghiên cứu khoa học chiếm một vị trí rất quan trọng trong các trường Đại học. Các hệ
thống xếp hạng đại học trên thế giới đều xem xét chỉ tiêu nghiên cứu khoa học như một trong
những tiêu chí hàng đầu để xếp hạng các trường. Hệ thống xếp hạng đại học của Trường Đại học
Giao thông Thượng Hải (ARWU) đánh giá dựa trên thành tích khoa học chiếm trọng số 40%,
chất lượng giáo dục và chất lượng giảng viên là 50% mà trong đó được đo lường bằng các giải
thưởng khoa học (giải Nobel, Fiels) và giảng viên được trích dẫn trong các công trình khoa học
[1]. Để được các giải thưởng khoa học và trích dẫn thì giảng viên của các trường phải tham gia
nghiên cứu khoa học và công bố nó trên các tạp chí khoa học có bình duyệt (thuộc danh mục ISI).
Hay như hệ thống xếp hạng QS Asia dành cho các đại học Châu Á cũng xem xét trọng số của
chất lượng nghiên cứu 60% (20 % cho số trích dẫn bình quân và 40% cho việc khảo sát ý kiến
của các đồng nghiệp tại Châu Á). Như vậy có thể thấy rằng các hệ thống xếp hạng đại học đều
Công ty Cổ Phần Phân tích định lượng Việt Nam Tel: +84 422 390 699; 09456 49731
QA Vietnam.,JSC Email: qa.vietnam@gmail.com
Hội thảo quốc tế VNS 2014, “Thế nào là đại học tốt?", Hà Nội, 2014
xem việc nghiên cứu khoa học như một trong những yêu tố lớn nhất để xếp hạng giữa các trường
với nhau. Một đặc điểm quan trọng là các nghiên cứu khoa học được xem xét là các nghiên cứu
được công bố quốc tế. Điều này đặt ra đòi hỏi đối với các Đại học Việt Nam trong đó có các
trường Kinh tế phải tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, công bố các công trình của mình
trên các tạp chí quốc tế thì mới có thể cải thiện thứ hạng xếp hạng của các trường và hướng tới
Việt Nam có trường đạt đẳng cấp quốc tế. Thực tế cho thấy hàng năm tại các trường Đại học đội
ngũ nhà khoa học, giảng viên thực hiện rất nhiều các đề tài nghiên cứu khác nhau từ cấp Nhà
nước đến cấp cơ sở, các công trình nghiên cứu của nghiên cứu sinh. Tuy nhiên gần như các công
trình này không thể công bố trên các tạp chí quốc tế uy tín. Nguyên nhân là do các công trình
nghiên cứu của các đồng nghiệp Việt Nam không thu hút được sự quan tâm của đồng nghiệp
quốc tế và chất lượng nghiên cứu thấp. Trong lĩnh vưc Kinh tế giáo sư Trần Văn Thọ (đại học
Waseda, Nhật Bản) cho rằng các nghiên cứu tại Việt Nam thiếu tính học thuật (academic) và tính
độc sáng (originality), nghiên cứu không đưa ra được các vấn đề mới, những giả thuyết hay lý
luận mới được kiểm chứng qua các dữ liệu mới [2]. Các đề tài nghiên cứu chủ yếu vẫn còn tập
trung vào giải quyết các vấn đề nghiệp vụ, không cung cấp những tri thức mới như một nghiên
cứu khoa học phải có. Vì vậy hiện nay có một nhu cầu thay đổi tư duy trong việc chọn đề tài
nghiên cứu khoa học tại các trường Đại học Kinh tế để phù hợp với xu thế nghiên cứu của cộng
đồng khoa học quốc tế, có thể công bố các công trình nghiên cứu tại Việt Nam trên các các tạp
chí quốc tế uy tín (thuộc danh mục ISI).
2. Nghiên cứu khoa học và lợi ích của việc nghiên cứu khoa học trong các
Trường Đại học
Hiện nay các nhà khoa học không còn nghi ngờ về tầm quan trọng của việc nghiên cứu
khoa học tại các trường đại học. Trường đại học muốn thăng tiến trên bảng xếp hạng các trường
phải đầu tư cho các công trình nghiên cứu khoa học có chất lượng và công bố nó trên các tạp chí
uy tín. Tuy nhiên hiện nay tại Việt Nam vấn đề như thế nào là một nghiên cứu khoa học thực sự
còn chưa được nhận thức đẩy đủ. Còn có sự nhầm lẫn giữa việc giải quyết các vấn đề nghiệp vụ
(ví dụ: giải pháp phát triển thị trường nông sản đến năm XYZ, nâng cao năng lực cạnh tranh
công ty ABC, vv) nhưng nghiên cứu này không tạo ra tri thức mới, rất khó để có thể gọi chúng là
hoạt động nghiên cứu khoa học, nó chỉ là hoạt động nghiệp vụ hàng ngày của cán bộ quản lý.
Nghiên cứu khoa học có thể được định nghĩa là một hoạt động của con người nhằm mở rộng tri
Công ty Cổ Phần Phân tích định lượng Việt Nam Tel: +84 422 390 699; 09456 49731
QA Vietnam.,JSC Email: qa.vietnam@gmail.com
Hội thảo quốc tế VNS 2014, “Thế nào là đại học tốt?", Hà Nội, 2014
thức qua các phương pháp khoa học [3]. Hay nghiên cứu khoa học là cách thức con người tìm
hiểu các hiện tượng một cách có hệ thống [8]. Hiểu theo nghĩa này, có hai điều kiện để xem một
hoạt động là nghiên cứu khoa học: mục tiêu và phương pháp.
Nghiên cứu khoa học phải nhằm mục tiêu phát triển những tri thức mới, những hiểu biết
mới. Những tri thức này phải mang tính phổ quát và có thể khái quát hóa. Những kinh nghiệm cá
nhân không được xem là tri thức khoa học nếu nó không được khái quát quá.
Nghiên cứu khoa học là một điều tra hay khảo sát có hệ thống. Hệ thống ở đây được hiểu
là công trình phải được nghiên cứu theo những quy trình chuẩn được cộng đồng khoa học quốc
tế công nhận.Trong quy trình nghiên cứu chuẩn phương pháp đóng vai trò quan trọng, vì phương
pháp quyết định hoạt động là khoa học hay phi khoa học. Phương pháp mang tính khoa học phải
có cơ sở lý thuyết, các giả định, có độ tin cậy và chính xác cao [3]. Vì nghiên cứu dựa vào lý
thuyết và giả định nên các kết quả nghiên cứu phải được diễn giải bằng các bằng chứng, lý luận
dựa vào logic hay lập luận của toán học và không đi ra ngoài phạm vi của dữ liệu cho phép.
Nghiên cứu khoa học cũng đem lại nhiều lợi ích cho nhà nghiên cứu và xã hội. GS Nguyễn
Văn Tuấn (Đại học New South Wales, Úc) cho rằng hoạt động nghiên cứu đem lại bốn lợi ích:
lợi ích cá nhân, lợi ích với Trường (Học viện) nơi nhà khoa học công tác, lợi ích cho quốc gia
(Việt Nam) và lợi ích cho bản thân khoa học [3].
Đối với lợi ích cá nhân, nghiên cứu khoa học giúp cho nhà nghiên cứu cập nhật những kiến
thức mới trong chuyên ngành của mình, lĩnh vực mình nghiên cứu. Đối với các giảng viên tại các
trường Đại học nghiên cứu khoa học còn giúp cho họ nâng cao chất lượng giảng dạy. Có thể chia
sẻ những tri thức từ chính nghiên cứu của mình cho sinh viên, học viên cao học hay nghiên cứu
sinh. Nhờ công bố các công trình nghiên cứu của mình, nhà nghiên cứu có cơ hội tham gia hợp
tác với các đồng nghiệp quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu. Bởi các đồng nghiệp tại các quốc gia
khác nhau có thể biết nhau, liên hệ với nhau thông qua các công trình nghiên cứu. Và cuối cùng
nghiên cứu khoa học cũng giúp cho nhà nghiên cứu thăng tiến trên con đường sự nghiệp. Muốn
được đề bạt các chức danh, các nhà khoa học phải có các công trình nghiên cứu.
Việc ông bố các công trình nghiên cứu của nhà khoa học cũng đem lại những lợi ích cho
Trường Đại học, Học viên nơi họ làm việc. Số lượng công trình và chất lượng công trình nghiên
cứu của các nhà khoa học là một trong những thước đo quan trọng để xếp hạng Trường Đại học.
Công ty Cổ Phần Phân tích định lượng Việt Nam Tel: +84 422 390 699; 09456 49731
QA Vietnam.,JSC Email: qa.vietnam@gmail.com
Hội thảo quốc tế VNS 2014, “Thế nào là đại học tốt?", Hà Nội, 2014
Hiển nhiên là Trường Đại học có nhiều công trình nghiên cứu, được trích dẫn nhiều sẽ làm tăng
thứ hạng của Trường so với trường khác.
Việc nghiên cứu và công bố cũng tác động đến đánh giá khoa học của các quốc gia. Một
quốc gia có nhiều nhà nghiên cứu, công bố được nhiều công trình uy tín sẽ được xếp hạng cao
hơn các quốc gia khác. Một số nghiên cứu cũng cho thấy xếp hạng khoa học quốc gia có ảnh
hưởng đến các chỉ số phát triển kinh tế. Điều đó cho thấy nghiên cứu khoa học về lâu dài có ảnh
hưởng tích cực đến khả năng phát triển kinh tế của các quốc gia. Thực tế cũng cho thấy các quốc
gia phát triển đều là những cường quốc về khoa học. Đối với Việt Nam các ấn phẩm khoa học
đạt chuẩn mực quốc tế còn ít thì đều này còn mang nhiều ý nghĩa hơn nữa.
Nghiên cứu khoa học còn vì mục tiêu phát hiện các tri thức mới, phổ biến nó cho các đồng
nghiệp vì cộng đồng khoa học. Các nghiên cứu khoa học bao giờ cũng có tính kế thừa, khoa học
không được xây dựng từ chân không. Vì vậy các kết quả nghiên cứu nếu được công bố sẽ giúp
ích cho cộng đồng nghiên cứu, cung cấp những bằng chứng cho hoạch định chính sách công, tác
động đến các chuyên ngành khác.
3. Thực trạng nghiên cứu khoa học và lựa chọn đề tài trong các trường Kinh
tế hiện nay
Tại sao sự hiện diện khoa học của Việt Nam trên trường quốc tế lại khiêm tốn trong đó có
các trường Kinh tế. Số lượng bài báo khoa học của Việt Nam còn rất hạn chế so với các nước
trong khu vực, năm 2013 ước tính có khoảng 2000 bài báo đăng trên các tạp chí của tất cả các
chuyên ngành chỉ tương đương với một đại học lớn tại Thái Lan (Chulalongkhorn, Mahidol).
Trong lĩnh vực kinh tế cả giai đoạn 1996 – 2012 bài báo khoa học trong kinh tế của Việt
Nam là 125 bài rất thấp so với các nước trong khu vực, chỉ bằng 1/3 Indonesia (371), 1/4 Thái
Lan và Philippines (464 và 448), bằng 8% so với Malaysia (1.542) và 5% so với Singapore
(2.219). Trong khi số lượng bài báo đăng thấp thì chất lượng nghiên cứu của Việt Nam cũng
không cao, chỉ số H thấp nhất (12) bằng khoảng ¼ so với Singapore bằng ½ so với Malaysia,
Thái Lan, Indonesia và Philippines (bảng 1).
Bảng 1 số bài báo khoa học kinh tế (kinh tế, kinh tế lượng, tài chính) giai đoạn 1996 –
2012 các quốc gia trong khu vực
Công ty Cổ Phần Phân tích định lượng Việt Nam Tel: +84 422 390 699; 09456 49731
QA Vietnam.,JSC Email: qa.vietnam@gmail.com
Hội thảo quốc tế VNS 2014, “Thế nào là đại học tốt?", Hà Nội, 2014
Quốc gia
Số ấn
phẩm
Số ấn phẩm
được trích dẫn
Số trích
dẫn
Tự trích
dẫn
Trích dẫn trên
một ấn phẩm
Chỉ số H
Singapore 2.219 2.171 17.871 1.533 9,8 51
Malaysia 1.542 1.518 3.106 973 6,43 23
Thailand 464 455 3.276 207 14,79 26
Philippines 448 437 2.192 156 10,02 22
Indonesia 371 365 2.573 383 11,21 22
Việt Nam 125 124 524 86 9,31 12
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Scimago [5]
Xem xét trong giai đoạn từ 2006 – 2012 các bài báo khoa học của Việt Nam có tăng trưởng
nhưng sự tăng trưởng này không đều và ở mức thấp so với các nước trong khu vực. Việt Nam
luôn nằm cuối cùng trong bảng xếp hạng với các nước trong khu vực (có loại trừ một số quốc gia
đặc thù như Lào, Cambodia, Brunei). Trong khi Malaysia mất 5 năm từ 2006 đến 2010 để vượt
qua Singapore ở xuất phát điểm chỉ bằng 1/3 so với Singapore. Trong khi đó xu hướng cho thấy
số bài báo khoa học của Việt có tăng nhưng tốc độ tăng thấp và khoảng cách với các quốc gia
xếp trên (Malaysia, Singapore) ngày càng bị lới rộng (xem hình 1và bảng 2)
Hình 1 Xu thế đăng tải bài báo trong kinh tế các nước Đông Nam Á giai đoạn 2006 - 2012
Công ty Cổ Phần Phân tích định lượng Việt Nam Tel: +84 422 390 699; 09456 49731
QA Vietnam.,JSC Email: qa.vietnam@gmail.com
Hội thảo quốc tế VNS 2014, “Thế nào là đại học tốt?", Hà Nội, 2014
Bảng 2 Kết quả công bố quốc tế trong khoa học kinh tế các nước Đông Nam Á giai đoạn
2006 - 2012
Quốc gia
Năm
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Việt Nam 6 5 4 29 10 23 30
Indonesia 16 21 20 26 45 56 69
Philipines 20 18 46 55 72 63 73
Thái Lan 27 33 36 34 65 60 95
Malaysia 57 74 103 212 260 283 425
Singapore 183 166 173 236 221 182 260
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Scimago [5]
Tính tự chủ trong khoa học của Việt Nam cũng là một vấn đề, trung bình số bài báo công
bố tại Việt Nam có khoảng 80% là hợp tác quốc tế trong khi các nước trong khu vực chỉ khoảng
50% và các tác giả nước ngoài thường là các tác giả chính [7]. Hợp tác quốc tế là đương nhiên
nhưng hợp tác như thế nào để vẫn giữ được sự tự chủ trong khoa học, với tỷ lệ 80% có thể xem
như nền khoa học của quốc gia bị lệ thuộc vào nước ngoài quá nhiều. Một thực tế cho thấy các
nghiên cứu hợp tác với nước ngoài, nhà khoa học Việt Nam thường đóng vai trò là người thu
thập dữ liệu, vấn đề về ý tưởng, phương pháp, phân tích và diễn giải kết quả chủ yếu vẫn thuộc
các tác giả nước ngoài. Khó có thể nói sau hợp tác nhà khoa học Việt Nam có thể làm chủ được
tri thức từ nghiên cứu, vì vậy dễ dẫn đến tình trạng “dữ liệu Việt Nam, tri thức nước ngoài”. Hay
nói như cách của giáo sư Nguyễn Văn Tuấn (Úc) việc hợp tác quá nhiều mà thiếu tính tự chủ
trong khoa học là cách làm khoa học “nhảy dù”, nhà khoa học Việt Nam tham gia như “lính đánh
thuê” chỉ tham gia thu thập dữ liệu mà không có đóng góp đáng kể nào vào quá trình nghiên cứu,
việc đứng tên tác giả trong các bài báo khoa học như các tác giả danh dự.
Một trong những nguyên nhân làm sự hiện diện khoa học kinh tế Việt Nam là việc các
giảng viên, nhà khoa học tại các Trường Kinh tế còn nhầm lẫn giữa hoạt động nghiên cứu và
hoạt động nghiệp vụ hàng ngày của nhà quản lý. Nhiều đề tài nghiên cứu thực hiện thiếu tính học
thuật và tính mới, các đề tài trong nghiên cứu tập trung vào những vấn đề như “giải pháp”, “hoàn
thiện”, “nâng cao”, “phát triển”, vv (ví dụ: giải pháp huy động vốn của ngân hàng, giải pháp thu
hút đầu tư…). Tất nhiên các đề tài này hoàn toàn có thể được lựa chọn là đối tượng nghiên cứu
nhưng chỉ khi nó dùng để kiểm chứng một vấn đề lý luận chứ không hoàn toàn là vấn đề nghiệp
vụ quản lý (tất nhiên nó có ý nghĩa thực tiễn cũng tốt nhưng nó không phải mục tiêu chính, mục
Công ty Cổ Phần Phân tích định lượng Việt Nam Tel: +84 422 390 699; 09456 49731
QA Vietnam.,JSC Email: qa.vietnam@gmail.com
Hội thảo quốc tế VNS 2014, “Thế nào là đại học tốt?", Hà Nội, 2014
tiêu chính phải là cung cấp tri thức mới). Chính bởi việc lựa chọn các đề tài mang tính nghiệp vụ
nên các công trình không thể khái quát hóa. Các phương pháp nghiên cứu sử dụng không phù
hợp, chủ yếu là các công cụ so sánh, phân tích đơn giản, không thiết lập được các giả thuyết
nghiên cứu, các diễn giải thiếu bằng chứng, chủ quan và không thể kiểm chứng được. Do đó các
kết quả nghiên cứu cũng không có khả năng đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế.
Phân tích của tác giả cho thấy năm 2013 số đề tài cấp Bộ (Bộ Giáo dục và Đào tạo) triển
khai tổng số 28 đề tài thì có 8 đề tài có tên gọi như “giải pháp”, “hoàn thiện”, “nâng cao” bằng
hơn ¼ tổng số đề tài. Trong phần mục đích yêu cẩu từ phía Bộ về các đề tài này nhiều hơn con
số 8 đề tài là hướng tới các giải pháp nghiệp vụ mà không phải các vấn đề khoa học.
Kết quả khảo sát tại một cơ sở Đào tạo vào loại lớn nhất miền Bắc cho thấy có hơn 58%
(148/257) công trình của nghiên cứu sinh mang các tên như “giải pháp”, “hoàn thiện”, “nâng
cao”, “phát triển” (dưới đây gọi là “đánh giá nghiệp vụ”1
) là những nghiên cứu nghiệp vụ không
đảm bảo tối thiểu của một nghiên cứu khoa học theo chuẩn mực quốc tế [6]. Nếu khảo sát nội
dung các luận án thì các công trình “đánh giá nghiệp vụ” còn có thể cho một kết quả cao hơn tỷ
lệ 58% rất nhiều. Và đây gần như là một thực trạng chung của các trường Kinh tế hiện nay.
Hình 2 Tỷ lệ các tên đề tài mang tính đánh giá nghiệp vụ
1
cụm từ “đánh giá nghiệp vụ” ở đây không hàm ý là các hoạt động đánh giá nghiệp vụ thực tế không thể trờ
thành hoạt động nghiên cứu khoa học. Nó chỉ ám chỉ rằng các công trình không rõ ràng về mục tiêu (học thuật) và
phương pháp không phù hợp không thể gọi là hoạt động nghiên cứu khoa học.
Công ty Cổ Phần Phân tích định lượng Việt Nam Tel: +84 422 390 699; 09456 49731
QA Vietnam.,JSC Email: qa.vietnam@gmail.com
Hội thảo quốc tế VNS 2014, “Thế nào là đại học tốt?", Hà Nội, 2014
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ gsneu.edu.vn
Trong những năm gần đây xu hướng chọn các đề tại “đánh giá nghiệp vụ” có giảm (từ mức
cao 82%) xuống mức khoảng 50% trong những năm gần đây. Tuy nhiên mức giảm không ổn
định và giảm rất thấp trong những năm gần đây và luôn duy trì ở mức trên 50% (hình 3). Cá biệt
trong một số ngành như ngành kinh tế chính trị, kinh tế quản lý gần như 100% các nghiên cứu là
“đánh giá nghiệp vụ”. Điều đó cho thấy thực trạng ảm đạm và rất ít cải tiến trong việc lựa chọn
đề tài nghiên cứu đảm bảo theo các chuẩn mực khoa học tối thiểu.
Hình 3 Xu thế lựa chọn đề tài nghiên cứu của nghiên cứu sinh 2006 – 2013
Nguồn:gsneu.edu.vn [6]
Nguyên nhân của tình trạng này là do cơ chế quản lý, phê duyệt đề tài, cách lựa chọn hội
đồng đánh giá, thẩm định không theo những chuẩn mực nghiên cứu. Theo thói quen thực hiện
các nghiên cứu cũ nên còn một bộ phận khá lớn các nhà khoa học chưa cập nhật được với hệ
thống nghiên cứu trong chuyên ngành mình với các đồng nghiệp quốc tế. Các hội đồng phê
duyệt các đề tài nghiên cứu khoa học thiếu những người am hiểu về nghiên cứu khoa học theo
các tiêu chuẩn quốc tế.
(Kinh nghiệm cá nhân của tác giả từng tham gia dự thính một hội đồng bảo vệ đề cương chi
tiết của nghiên cứu sinh tại một Trường Đại học. Chủ tịch hội đồng là một PGS có tên tuổi trong
ngành nhưng vẫn nhầm lẫn giữa vấn đề đánh giá nghiệp vụ và hoạt động nghiên cứu khoa học.
Công ty Cổ Phần Phân tích định lượng Việt Nam Tel: +84 422 390 699; 09456 49731
QA Vietnam.,JSC Email: qa.vietnam@gmail.com
Hội thảo quốc tế VNS 2014, “Thế nào là đại học tốt?", Hà Nội, 2014
Những công trình đánh giá nghiệp vụ thuần túy như những báo cáo kinh doanh không thể được
xem là một công trình nghiên cứu khoa học)
4. Một số khuyến nghị về việc lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học tại các
trường Kinh tế
Qua việc phân tích lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học tại các Trường Kinh tế. Tác giả
nghĩ rằng cần có sự thay đổi về mặt nhận thức, thay đổi tư duy trong việc lựa chọn đề tài nghiên
cứu từ tất cả các cấp. Thay vì lựa chọn các đề tài mang tính “đánh giá nghiệp vụ” các trường
phải hướng vào các mục tiêu học thuật. Một số khuyến nghị mà các đơn vị quản lý và nhà khoa
học có thể xem xét để nâng cao chất lượng nghiên cứu, thực hiện những đề tài xứng tầm, theo
tiêu chuẩn nghiên cứu khoa học quốc tế mà không phải những tiêu chuẩn “đặc thù Việt Nam”.
Thứ nhất là các Bộ, cơ quan quản lý về giáo dục quốc gia cần đoạn tuyệt với các phong
trào “người người làm khoa học, nhà nhà làm khoa học”, không thể có những khẩu hiệu “nghiên
cứu khoa học chào mừng ngày ABC, XYZ”. Nói như một giáo sư nổi tiếng là “không có thứ
khoa học nào là khoa học chào mừng”. Không xem xét hoạt động “nghiên cứu khoa học” như
một tiêu chuẩn đánh giá những người làm nghiệp vụ tại các cơ quan không làm nghiên cứu nơi
thường đẻ ra những nghiên cứu khoa học không giống ai.
Thứ hai các hội đồng phê duyệt đề tài nghiên cứu phải dựa trên tính học thuật, độc sáng
của đề tài để đánh giá. Các vấn đề giải quyết nghiệp vụ chỉ xem là những mục tiêu phụ trong các
nghiên cứu.
Thứ ba đòi hỏi các công trình nghiên cứu cấp Nhà nước, cấp Bộ phải có công bố quốc tế
trên các tạp chí quốc thế uy tín (trữ những nghiên cứu mang bí mật quốc gia, nghiên cứu ảnh
hưởng đến an ninh quốc gia)
Thứ tư việc lựa chọn hội đồng đánh giá các đề tài nghiên cứu tại các cấp phải có những
nhà khoa học có các công trình đã được đăng tải tại các tạp chí nghiên cứu uy tín trong chuyên
ngành (ISI) mà là tác giả đầu hoặc đồng tác giả chính.
Thứ năm đối với các Trường Đại học có chính sách cập nhật các kết quả nghiên cứu trong
chuyên ngành của mình từ các Tạp chí quốc tế. Chỉ khi giảng viên, nhà nghiên cứu được tiếp cận
Công ty Cổ Phần Phân tích định lượng Việt Nam Tel: +84 422 390 699; 09456 49731
QA Vietnam.,JSC Email: qa.vietnam@gmail.com
Hội thảo quốc tế VNS 2014, “Thế nào là đại học tốt?", Hà Nội, 2014
với nghiên cứu của các đồng nghiệp quốc tế thì họ mới có thể có cái nhìn rộng hợn, lựa chọn đề
tài tốt hơn theo những hướng nghiên cứu mới của cộng đồng khoa học quốc tế.
Thứ sáu đối với các giảng viên, nhà nghiên cứu đánh giá, lựa chọn đề tài theo tiêu chuẩn
FINER (feasible – khả thi; interesting – thú vị; novelty – tính mới; ethics – đạo đức; relevance –
có liên quan, ảnh hưởng) phù hợp với từng chuyên ngành. Thường xuyên theo dõi các nghiên
cứu của đồng nghiệp trong nước và quốc tế để nắm bắt xu hướng nghiên cứu, các chuẩn mực
nghiên cứu mang tính quốc tế.
Tham khảo
1. Đại học Công nghiệp thực phẩm TP. Hồ Chí Minh (2013), So sánh các hệ thống xếp hạng đại
học phổ biến trên thế giới/http://iso.hufi.vn/index.php/tin-tuc-su-kien/53-so-sanh-cac-he-thong-
xep-hang-dai-hoc-quoc-te-pho-bien [Truy cập ngày 8/3/2014]
2. Trần Văn Thọ (2004), Đặt lại vấn đề học vị tiến sỹ, Đại học Waseda, Tokyo, Nhật Bản
3. Nguyễn Văn Tuấn (2012), Đi vào nghiên cứu khoa học, Nhà xuất bản Tổng hợp TP.Hồ Chí
Minh
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Thông báo tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì thực hiện đề
tài/nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp Bộ năm 2004/
http://khcn.moet.gov.vn/?page=1.1&view=20241 [Truy cập ngày 10/04/2014]
5.http://scimagojr.com/countryrank.php?area=2000&category=0&region=Asiatic+Region&year
=all&order=it&min=0&min_type=it [truy cập ngày 13/4/2014]
6. http://gsneu.edu.vn/upload/tracuu/LATS.htm
7. Mô hình hoạt động khoa học cho Việt Nam (Tuổi trẻ, 2014)/ http://tuoitre.vn/tuoi-tre-cuoi-
tuan/van-de-su-kien/590477/mot-mo-hinh-hoat-dong-khoa-hoc-cho-viet-nam.html [Truy cập
ngày 10/04/2014]
8. Giới thiệu Phương pháp nghiên cứu định lượng http://nghiencuudinhluong.com/gioi-thieu-ve-
nghien-cuu-dinh-luong/ [Truy cập ngày 10/03/2004]

Más contenido relacionado

Más de Nghiên Cứu Định Lượng

How does capital structure affect firm s market competitiveness.pdf
How does capital structure affect firm s market competitiveness.pdfHow does capital structure affect firm s market competitiveness.pdf
How does capital structure affect firm s market competitiveness.pdf
Nghiên Cứu Định Lượng
 
How does hotel employees’ satisfaction with the organization’s COVID-19 respo...
How does hotel employees’ satisfaction with the organization’s COVID-19 respo...How does hotel employees’ satisfaction with the organization’s COVID-19 respo...
How does hotel employees’ satisfaction with the organization’s COVID-19 respo...
Nghiên Cứu Định Lượng
 

Más de Nghiên Cứu Định Lượng (20)

The relationship between financial decisions and equity risk
The relationship between financial decisions and equity riskThe relationship between financial decisions and equity risk
The relationship between financial decisions and equity risk
 
Managerial overconfidence and dividend policy in Vietnamese enterprises.pdf
Managerial overconfidence and dividend policy in Vietnamese enterprises.pdfManagerial overconfidence and dividend policy in Vietnamese enterprises.pdf
Managerial overconfidence and dividend policy in Vietnamese enterprises.pdf
 
Managerial overconfidence and dividend policy in Vietnamese enterprises
Managerial overconfidence and dividend policy in Vietnamese enterprisesManagerial overconfidence and dividend policy in Vietnamese enterprises
Managerial overconfidence and dividend policy in Vietnamese enterprises
 
How does capital structure affect firm s market competitiveness.pdf
How does capital structure affect firm s market competitiveness.pdfHow does capital structure affect firm s market competitiveness.pdf
How does capital structure affect firm s market competitiveness.pdf
 
The Effects of Business Model on Bank’s Stability
The Effects of Business Model on Bank’s StabilityThe Effects of Business Model on Bank’s Stability
The Effects of Business Model on Bank’s Stability
 
The role of perceived workplace safety practices and mindfulness in maintaini...
The role of perceived workplace safety practices and mindfulness in maintaini...The role of perceived workplace safety practices and mindfulness in maintaini...
The role of perceived workplace safety practices and mindfulness in maintaini...
 
Perceived COVID-19 risk, COVID-19 vaccine perception, and COVID-19 vaccinatio...
Perceived COVID-19 risk, COVID-19 vaccine perception, and COVID-19 vaccinatio...Perceived COVID-19 risk, COVID-19 vaccine perception, and COVID-19 vaccinatio...
Perceived COVID-19 risk, COVID-19 vaccine perception, and COVID-19 vaccinatio...
 
Safety science
Safety scienceSafety science
Safety science
 
Effect of social capital on agribusiness diversification intention in the eme...
Effect of social capital on agribusiness diversification intention in the eme...Effect of social capital on agribusiness diversification intention in the eme...
Effect of social capital on agribusiness diversification intention in the eme...
 
Impact of academic majors on entrepreneurial intentions of Vietnamese student...
Impact of academic majors on entrepreneurial intentions of Vietnamese student...Impact of academic majors on entrepreneurial intentions of Vietnamese student...
Impact of academic majors on entrepreneurial intentions of Vietnamese student...
 
Impact of the Covid-19 pandemic on perceptions and behaviors of university st...
Impact of the Covid-19 pandemic on perceptions and behaviors of university st...Impact of the Covid-19 pandemic on perceptions and behaviors of university st...
Impact of the Covid-19 pandemic on perceptions and behaviors of university st...
 
Impacts of online word-of-mouth and personalities on intention to choose a de...
Impacts of online word-of-mouth and personalities on intention to choose a de...Impacts of online word-of-mouth and personalities on intention to choose a de...
Impacts of online word-of-mouth and personalities on intention to choose a de...
 
How does hotel employees’ satisfaction with the organization’s COVID-19 respo...
How does hotel employees’ satisfaction with the organization’s COVID-19 respo...How does hotel employees’ satisfaction with the organization’s COVID-19 respo...
How does hotel employees’ satisfaction with the organization’s COVID-19 respo...
 
Nguyen van duy nghiencuudinhluong.com
Nguyen van duy nghiencuudinhluong.comNguyen van duy nghiencuudinhluong.com
Nguyen van duy nghiencuudinhluong.com
 
Tapanainen et al-2018-the_electronic_journal_of_information_systems_in_develo...
Tapanainen et al-2018-the_electronic_journal_of_information_systems_in_develo...Tapanainen et al-2018-the_electronic_journal_of_information_systems_in_develo...
Tapanainen et al-2018-the_electronic_journal_of_information_systems_in_develo...
 
Information safety corporate image and intention to use online
Information safety corporate image and intention to use onlineInformation safety corporate image and intention to use online
Information safety corporate image and intention to use online
 
Paper nguyen ngoc-dat-nguyen-thanh-hien
Paper nguyen ngoc-dat-nguyen-thanh-hienPaper nguyen ngoc-dat-nguyen-thanh-hien
Paper nguyen ngoc-dat-nguyen-thanh-hien
 
Paper le hieu-hoc-dao-trung-kien-do-kim-du--edited
Paper le hieu-hoc-dao-trung-kien-do-kim-du--editedPaper le hieu-hoc-dao-trung-kien-do-kim-du--edited
Paper le hieu-hoc-dao-trung-kien-do-kim-du--edited
 
Nguyễn tuấn-dũng-bản-sửa-tác-giả-gửi-lại
Nguyễn tuấn-dũng-bản-sửa-tác-giả-gửi-lạiNguyễn tuấn-dũng-bản-sửa-tác-giả-gửi-lại
Nguyễn tuấn-dũng-bản-sửa-tác-giả-gửi-lại
 
Survey
SurveySurvey
Survey
 

Bai viet tham gia hoi thao nguyen van duy

  • 1. Công ty Cổ Phần Phân tích định lượng Việt Nam Tel: +84 422 390 699; 09456 49731 QA Vietnam.,JSC Email: qa.vietnam@gmail.com Hội thảo quốc tế VNS 2014, “Thế nào là đại học tốt?", Hà Nội, 2014 LỰA CHỌN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ: NHU CẦU THAY ĐỒI TƯ DUY Đào Trung Kiên1,2 , Nguyễn Văn Duy2,3 1.kiendtcoco@gmail.com; 2 .nghiencuudinhluong.com; 3.duynguyen.qa@gmail.com TÓM TẮT Tóm tắt: Một thước đo đánh giá quan trọng về chất lượng đại học là hoạt động nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu khoa học ngoài việc xây dựng uy tín cho nhà khoa học với đồng nghiệp trong chuyên ngành còn giúp nâng cao vị thế của đơn vị chủ quản, vị thế khoa học của quốc gia và đóng góp tri thức khoa học của nhân loại. Thực tế cho thấy hoạt động nghiên cứu khoa học tại các trường Đại học Việt Nam hiện nay bị đánh giá thấp so với các Đại học trong khu vực và thế giới, trong đó có các trường Kinh tế. Một trong những lý do quan trọng ảnh hưởng đến sự hiện diện khoa học kinh tế Việt Nam còn thấp là do các nhà nghiên cứu theo đuổi các đề tài thiếu tính học thuật hoặc có sự nhầm lẫn giữa hoạt động nghiệp vụ và hoạt động nghiên cứu khoa học. Do đó nhu cầu cần thiết phải thay đổi tư duy trong việc lựa chọn các đề tài nghiên cứu khoa học phù hợp, mang tính học thuật theo những chuẩn mực khoa học quốc tế. Từ khóa: Nghiên cứu khoa học, Lựa chọn đề tài; Đại học Kinh tế, Đổi mới tư duy 1. Đặt vấn đề Nghiên cứu khoa học chiếm một vị trí rất quan trọng trong các trường Đại học. Các hệ thống xếp hạng đại học trên thế giới đều xem xét chỉ tiêu nghiên cứu khoa học như một trong những tiêu chí hàng đầu để xếp hạng các trường. Hệ thống xếp hạng đại học của Trường Đại học Giao thông Thượng Hải (ARWU) đánh giá dựa trên thành tích khoa học chiếm trọng số 40%, chất lượng giáo dục và chất lượng giảng viên là 50% mà trong đó được đo lường bằng các giải thưởng khoa học (giải Nobel, Fiels) và giảng viên được trích dẫn trong các công trình khoa học [1]. Để được các giải thưởng khoa học và trích dẫn thì giảng viên của các trường phải tham gia nghiên cứu khoa học và công bố nó trên các tạp chí khoa học có bình duyệt (thuộc danh mục ISI). Hay như hệ thống xếp hạng QS Asia dành cho các đại học Châu Á cũng xem xét trọng số của chất lượng nghiên cứu 60% (20 % cho số trích dẫn bình quân và 40% cho việc khảo sát ý kiến của các đồng nghiệp tại Châu Á). Như vậy có thể thấy rằng các hệ thống xếp hạng đại học đều
  • 2. Công ty Cổ Phần Phân tích định lượng Việt Nam Tel: +84 422 390 699; 09456 49731 QA Vietnam.,JSC Email: qa.vietnam@gmail.com Hội thảo quốc tế VNS 2014, “Thế nào là đại học tốt?", Hà Nội, 2014 xem việc nghiên cứu khoa học như một trong những yêu tố lớn nhất để xếp hạng giữa các trường với nhau. Một đặc điểm quan trọng là các nghiên cứu khoa học được xem xét là các nghiên cứu được công bố quốc tế. Điều này đặt ra đòi hỏi đối với các Đại học Việt Nam trong đó có các trường Kinh tế phải tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, công bố các công trình của mình trên các tạp chí quốc tế thì mới có thể cải thiện thứ hạng xếp hạng của các trường và hướng tới Việt Nam có trường đạt đẳng cấp quốc tế. Thực tế cho thấy hàng năm tại các trường Đại học đội ngũ nhà khoa học, giảng viên thực hiện rất nhiều các đề tài nghiên cứu khác nhau từ cấp Nhà nước đến cấp cơ sở, các công trình nghiên cứu của nghiên cứu sinh. Tuy nhiên gần như các công trình này không thể công bố trên các tạp chí quốc tế uy tín. Nguyên nhân là do các công trình nghiên cứu của các đồng nghiệp Việt Nam không thu hút được sự quan tâm của đồng nghiệp quốc tế và chất lượng nghiên cứu thấp. Trong lĩnh vưc Kinh tế giáo sư Trần Văn Thọ (đại học Waseda, Nhật Bản) cho rằng các nghiên cứu tại Việt Nam thiếu tính học thuật (academic) và tính độc sáng (originality), nghiên cứu không đưa ra được các vấn đề mới, những giả thuyết hay lý luận mới được kiểm chứng qua các dữ liệu mới [2]. Các đề tài nghiên cứu chủ yếu vẫn còn tập trung vào giải quyết các vấn đề nghiệp vụ, không cung cấp những tri thức mới như một nghiên cứu khoa học phải có. Vì vậy hiện nay có một nhu cầu thay đổi tư duy trong việc chọn đề tài nghiên cứu khoa học tại các trường Đại học Kinh tế để phù hợp với xu thế nghiên cứu của cộng đồng khoa học quốc tế, có thể công bố các công trình nghiên cứu tại Việt Nam trên các các tạp chí quốc tế uy tín (thuộc danh mục ISI). 2. Nghiên cứu khoa học và lợi ích của việc nghiên cứu khoa học trong các Trường Đại học Hiện nay các nhà khoa học không còn nghi ngờ về tầm quan trọng của việc nghiên cứu khoa học tại các trường đại học. Trường đại học muốn thăng tiến trên bảng xếp hạng các trường phải đầu tư cho các công trình nghiên cứu khoa học có chất lượng và công bố nó trên các tạp chí uy tín. Tuy nhiên hiện nay tại Việt Nam vấn đề như thế nào là một nghiên cứu khoa học thực sự còn chưa được nhận thức đẩy đủ. Còn có sự nhầm lẫn giữa việc giải quyết các vấn đề nghiệp vụ (ví dụ: giải pháp phát triển thị trường nông sản đến năm XYZ, nâng cao năng lực cạnh tranh công ty ABC, vv) nhưng nghiên cứu này không tạo ra tri thức mới, rất khó để có thể gọi chúng là hoạt động nghiên cứu khoa học, nó chỉ là hoạt động nghiệp vụ hàng ngày của cán bộ quản lý. Nghiên cứu khoa học có thể được định nghĩa là một hoạt động của con người nhằm mở rộng tri
  • 3. Công ty Cổ Phần Phân tích định lượng Việt Nam Tel: +84 422 390 699; 09456 49731 QA Vietnam.,JSC Email: qa.vietnam@gmail.com Hội thảo quốc tế VNS 2014, “Thế nào là đại học tốt?", Hà Nội, 2014 thức qua các phương pháp khoa học [3]. Hay nghiên cứu khoa học là cách thức con người tìm hiểu các hiện tượng một cách có hệ thống [8]. Hiểu theo nghĩa này, có hai điều kiện để xem một hoạt động là nghiên cứu khoa học: mục tiêu và phương pháp. Nghiên cứu khoa học phải nhằm mục tiêu phát triển những tri thức mới, những hiểu biết mới. Những tri thức này phải mang tính phổ quát và có thể khái quát hóa. Những kinh nghiệm cá nhân không được xem là tri thức khoa học nếu nó không được khái quát quá. Nghiên cứu khoa học là một điều tra hay khảo sát có hệ thống. Hệ thống ở đây được hiểu là công trình phải được nghiên cứu theo những quy trình chuẩn được cộng đồng khoa học quốc tế công nhận.Trong quy trình nghiên cứu chuẩn phương pháp đóng vai trò quan trọng, vì phương pháp quyết định hoạt động là khoa học hay phi khoa học. Phương pháp mang tính khoa học phải có cơ sở lý thuyết, các giả định, có độ tin cậy và chính xác cao [3]. Vì nghiên cứu dựa vào lý thuyết và giả định nên các kết quả nghiên cứu phải được diễn giải bằng các bằng chứng, lý luận dựa vào logic hay lập luận của toán học và không đi ra ngoài phạm vi của dữ liệu cho phép. Nghiên cứu khoa học cũng đem lại nhiều lợi ích cho nhà nghiên cứu và xã hội. GS Nguyễn Văn Tuấn (Đại học New South Wales, Úc) cho rằng hoạt động nghiên cứu đem lại bốn lợi ích: lợi ích cá nhân, lợi ích với Trường (Học viện) nơi nhà khoa học công tác, lợi ích cho quốc gia (Việt Nam) và lợi ích cho bản thân khoa học [3]. Đối với lợi ích cá nhân, nghiên cứu khoa học giúp cho nhà nghiên cứu cập nhật những kiến thức mới trong chuyên ngành của mình, lĩnh vực mình nghiên cứu. Đối với các giảng viên tại các trường Đại học nghiên cứu khoa học còn giúp cho họ nâng cao chất lượng giảng dạy. Có thể chia sẻ những tri thức từ chính nghiên cứu của mình cho sinh viên, học viên cao học hay nghiên cứu sinh. Nhờ công bố các công trình nghiên cứu của mình, nhà nghiên cứu có cơ hội tham gia hợp tác với các đồng nghiệp quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu. Bởi các đồng nghiệp tại các quốc gia khác nhau có thể biết nhau, liên hệ với nhau thông qua các công trình nghiên cứu. Và cuối cùng nghiên cứu khoa học cũng giúp cho nhà nghiên cứu thăng tiến trên con đường sự nghiệp. Muốn được đề bạt các chức danh, các nhà khoa học phải có các công trình nghiên cứu. Việc ông bố các công trình nghiên cứu của nhà khoa học cũng đem lại những lợi ích cho Trường Đại học, Học viên nơi họ làm việc. Số lượng công trình và chất lượng công trình nghiên cứu của các nhà khoa học là một trong những thước đo quan trọng để xếp hạng Trường Đại học.
  • 4. Công ty Cổ Phần Phân tích định lượng Việt Nam Tel: +84 422 390 699; 09456 49731 QA Vietnam.,JSC Email: qa.vietnam@gmail.com Hội thảo quốc tế VNS 2014, “Thế nào là đại học tốt?", Hà Nội, 2014 Hiển nhiên là Trường Đại học có nhiều công trình nghiên cứu, được trích dẫn nhiều sẽ làm tăng thứ hạng của Trường so với trường khác. Việc nghiên cứu và công bố cũng tác động đến đánh giá khoa học của các quốc gia. Một quốc gia có nhiều nhà nghiên cứu, công bố được nhiều công trình uy tín sẽ được xếp hạng cao hơn các quốc gia khác. Một số nghiên cứu cũng cho thấy xếp hạng khoa học quốc gia có ảnh hưởng đến các chỉ số phát triển kinh tế. Điều đó cho thấy nghiên cứu khoa học về lâu dài có ảnh hưởng tích cực đến khả năng phát triển kinh tế của các quốc gia. Thực tế cũng cho thấy các quốc gia phát triển đều là những cường quốc về khoa học. Đối với Việt Nam các ấn phẩm khoa học đạt chuẩn mực quốc tế còn ít thì đều này còn mang nhiều ý nghĩa hơn nữa. Nghiên cứu khoa học còn vì mục tiêu phát hiện các tri thức mới, phổ biến nó cho các đồng nghiệp vì cộng đồng khoa học. Các nghiên cứu khoa học bao giờ cũng có tính kế thừa, khoa học không được xây dựng từ chân không. Vì vậy các kết quả nghiên cứu nếu được công bố sẽ giúp ích cho cộng đồng nghiên cứu, cung cấp những bằng chứng cho hoạch định chính sách công, tác động đến các chuyên ngành khác. 3. Thực trạng nghiên cứu khoa học và lựa chọn đề tài trong các trường Kinh tế hiện nay Tại sao sự hiện diện khoa học của Việt Nam trên trường quốc tế lại khiêm tốn trong đó có các trường Kinh tế. Số lượng bài báo khoa học của Việt Nam còn rất hạn chế so với các nước trong khu vực, năm 2013 ước tính có khoảng 2000 bài báo đăng trên các tạp chí của tất cả các chuyên ngành chỉ tương đương với một đại học lớn tại Thái Lan (Chulalongkhorn, Mahidol). Trong lĩnh vực kinh tế cả giai đoạn 1996 – 2012 bài báo khoa học trong kinh tế của Việt Nam là 125 bài rất thấp so với các nước trong khu vực, chỉ bằng 1/3 Indonesia (371), 1/4 Thái Lan và Philippines (464 và 448), bằng 8% so với Malaysia (1.542) và 5% so với Singapore (2.219). Trong khi số lượng bài báo đăng thấp thì chất lượng nghiên cứu của Việt Nam cũng không cao, chỉ số H thấp nhất (12) bằng khoảng ¼ so với Singapore bằng ½ so với Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Philippines (bảng 1). Bảng 1 số bài báo khoa học kinh tế (kinh tế, kinh tế lượng, tài chính) giai đoạn 1996 – 2012 các quốc gia trong khu vực
  • 5. Công ty Cổ Phần Phân tích định lượng Việt Nam Tel: +84 422 390 699; 09456 49731 QA Vietnam.,JSC Email: qa.vietnam@gmail.com Hội thảo quốc tế VNS 2014, “Thế nào là đại học tốt?", Hà Nội, 2014 Quốc gia Số ấn phẩm Số ấn phẩm được trích dẫn Số trích dẫn Tự trích dẫn Trích dẫn trên một ấn phẩm Chỉ số H Singapore 2.219 2.171 17.871 1.533 9,8 51 Malaysia 1.542 1.518 3.106 973 6,43 23 Thailand 464 455 3.276 207 14,79 26 Philippines 448 437 2.192 156 10,02 22 Indonesia 371 365 2.573 383 11,21 22 Việt Nam 125 124 524 86 9,31 12 Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Scimago [5] Xem xét trong giai đoạn từ 2006 – 2012 các bài báo khoa học của Việt Nam có tăng trưởng nhưng sự tăng trưởng này không đều và ở mức thấp so với các nước trong khu vực. Việt Nam luôn nằm cuối cùng trong bảng xếp hạng với các nước trong khu vực (có loại trừ một số quốc gia đặc thù như Lào, Cambodia, Brunei). Trong khi Malaysia mất 5 năm từ 2006 đến 2010 để vượt qua Singapore ở xuất phát điểm chỉ bằng 1/3 so với Singapore. Trong khi đó xu hướng cho thấy số bài báo khoa học của Việt có tăng nhưng tốc độ tăng thấp và khoảng cách với các quốc gia xếp trên (Malaysia, Singapore) ngày càng bị lới rộng (xem hình 1và bảng 2) Hình 1 Xu thế đăng tải bài báo trong kinh tế các nước Đông Nam Á giai đoạn 2006 - 2012
  • 6. Công ty Cổ Phần Phân tích định lượng Việt Nam Tel: +84 422 390 699; 09456 49731 QA Vietnam.,JSC Email: qa.vietnam@gmail.com Hội thảo quốc tế VNS 2014, “Thế nào là đại học tốt?", Hà Nội, 2014 Bảng 2 Kết quả công bố quốc tế trong khoa học kinh tế các nước Đông Nam Á giai đoạn 2006 - 2012 Quốc gia Năm 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Việt Nam 6 5 4 29 10 23 30 Indonesia 16 21 20 26 45 56 69 Philipines 20 18 46 55 72 63 73 Thái Lan 27 33 36 34 65 60 95 Malaysia 57 74 103 212 260 283 425 Singapore 183 166 173 236 221 182 260 Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Scimago [5] Tính tự chủ trong khoa học của Việt Nam cũng là một vấn đề, trung bình số bài báo công bố tại Việt Nam có khoảng 80% là hợp tác quốc tế trong khi các nước trong khu vực chỉ khoảng 50% và các tác giả nước ngoài thường là các tác giả chính [7]. Hợp tác quốc tế là đương nhiên nhưng hợp tác như thế nào để vẫn giữ được sự tự chủ trong khoa học, với tỷ lệ 80% có thể xem như nền khoa học của quốc gia bị lệ thuộc vào nước ngoài quá nhiều. Một thực tế cho thấy các nghiên cứu hợp tác với nước ngoài, nhà khoa học Việt Nam thường đóng vai trò là người thu thập dữ liệu, vấn đề về ý tưởng, phương pháp, phân tích và diễn giải kết quả chủ yếu vẫn thuộc các tác giả nước ngoài. Khó có thể nói sau hợp tác nhà khoa học Việt Nam có thể làm chủ được tri thức từ nghiên cứu, vì vậy dễ dẫn đến tình trạng “dữ liệu Việt Nam, tri thức nước ngoài”. Hay nói như cách của giáo sư Nguyễn Văn Tuấn (Úc) việc hợp tác quá nhiều mà thiếu tính tự chủ trong khoa học là cách làm khoa học “nhảy dù”, nhà khoa học Việt Nam tham gia như “lính đánh thuê” chỉ tham gia thu thập dữ liệu mà không có đóng góp đáng kể nào vào quá trình nghiên cứu, việc đứng tên tác giả trong các bài báo khoa học như các tác giả danh dự. Một trong những nguyên nhân làm sự hiện diện khoa học kinh tế Việt Nam là việc các giảng viên, nhà khoa học tại các Trường Kinh tế còn nhầm lẫn giữa hoạt động nghiên cứu và hoạt động nghiệp vụ hàng ngày của nhà quản lý. Nhiều đề tài nghiên cứu thực hiện thiếu tính học thuật và tính mới, các đề tài trong nghiên cứu tập trung vào những vấn đề như “giải pháp”, “hoàn thiện”, “nâng cao”, “phát triển”, vv (ví dụ: giải pháp huy động vốn của ngân hàng, giải pháp thu hút đầu tư…). Tất nhiên các đề tài này hoàn toàn có thể được lựa chọn là đối tượng nghiên cứu nhưng chỉ khi nó dùng để kiểm chứng một vấn đề lý luận chứ không hoàn toàn là vấn đề nghiệp vụ quản lý (tất nhiên nó có ý nghĩa thực tiễn cũng tốt nhưng nó không phải mục tiêu chính, mục
  • 7. Công ty Cổ Phần Phân tích định lượng Việt Nam Tel: +84 422 390 699; 09456 49731 QA Vietnam.,JSC Email: qa.vietnam@gmail.com Hội thảo quốc tế VNS 2014, “Thế nào là đại học tốt?", Hà Nội, 2014 tiêu chính phải là cung cấp tri thức mới). Chính bởi việc lựa chọn các đề tài mang tính nghiệp vụ nên các công trình không thể khái quát hóa. Các phương pháp nghiên cứu sử dụng không phù hợp, chủ yếu là các công cụ so sánh, phân tích đơn giản, không thiết lập được các giả thuyết nghiên cứu, các diễn giải thiếu bằng chứng, chủ quan và không thể kiểm chứng được. Do đó các kết quả nghiên cứu cũng không có khả năng đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế. Phân tích của tác giả cho thấy năm 2013 số đề tài cấp Bộ (Bộ Giáo dục và Đào tạo) triển khai tổng số 28 đề tài thì có 8 đề tài có tên gọi như “giải pháp”, “hoàn thiện”, “nâng cao” bằng hơn ¼ tổng số đề tài. Trong phần mục đích yêu cẩu từ phía Bộ về các đề tài này nhiều hơn con số 8 đề tài là hướng tới các giải pháp nghiệp vụ mà không phải các vấn đề khoa học. Kết quả khảo sát tại một cơ sở Đào tạo vào loại lớn nhất miền Bắc cho thấy có hơn 58% (148/257) công trình của nghiên cứu sinh mang các tên như “giải pháp”, “hoàn thiện”, “nâng cao”, “phát triển” (dưới đây gọi là “đánh giá nghiệp vụ”1 ) là những nghiên cứu nghiệp vụ không đảm bảo tối thiểu của một nghiên cứu khoa học theo chuẩn mực quốc tế [6]. Nếu khảo sát nội dung các luận án thì các công trình “đánh giá nghiệp vụ” còn có thể cho một kết quả cao hơn tỷ lệ 58% rất nhiều. Và đây gần như là một thực trạng chung của các trường Kinh tế hiện nay. Hình 2 Tỷ lệ các tên đề tài mang tính đánh giá nghiệp vụ 1 cụm từ “đánh giá nghiệp vụ” ở đây không hàm ý là các hoạt động đánh giá nghiệp vụ thực tế không thể trờ thành hoạt động nghiên cứu khoa học. Nó chỉ ám chỉ rằng các công trình không rõ ràng về mục tiêu (học thuật) và phương pháp không phù hợp không thể gọi là hoạt động nghiên cứu khoa học.
  • 8. Công ty Cổ Phần Phân tích định lượng Việt Nam Tel: +84 422 390 699; 09456 49731 QA Vietnam.,JSC Email: qa.vietnam@gmail.com Hội thảo quốc tế VNS 2014, “Thế nào là đại học tốt?", Hà Nội, 2014 Nguồn: Tác giả tổng hợp từ gsneu.edu.vn Trong những năm gần đây xu hướng chọn các đề tại “đánh giá nghiệp vụ” có giảm (từ mức cao 82%) xuống mức khoảng 50% trong những năm gần đây. Tuy nhiên mức giảm không ổn định và giảm rất thấp trong những năm gần đây và luôn duy trì ở mức trên 50% (hình 3). Cá biệt trong một số ngành như ngành kinh tế chính trị, kinh tế quản lý gần như 100% các nghiên cứu là “đánh giá nghiệp vụ”. Điều đó cho thấy thực trạng ảm đạm và rất ít cải tiến trong việc lựa chọn đề tài nghiên cứu đảm bảo theo các chuẩn mực khoa học tối thiểu. Hình 3 Xu thế lựa chọn đề tài nghiên cứu của nghiên cứu sinh 2006 – 2013 Nguồn:gsneu.edu.vn [6] Nguyên nhân của tình trạng này là do cơ chế quản lý, phê duyệt đề tài, cách lựa chọn hội đồng đánh giá, thẩm định không theo những chuẩn mực nghiên cứu. Theo thói quen thực hiện các nghiên cứu cũ nên còn một bộ phận khá lớn các nhà khoa học chưa cập nhật được với hệ thống nghiên cứu trong chuyên ngành mình với các đồng nghiệp quốc tế. Các hội đồng phê duyệt các đề tài nghiên cứu khoa học thiếu những người am hiểu về nghiên cứu khoa học theo các tiêu chuẩn quốc tế. (Kinh nghiệm cá nhân của tác giả từng tham gia dự thính một hội đồng bảo vệ đề cương chi tiết của nghiên cứu sinh tại một Trường Đại học. Chủ tịch hội đồng là một PGS có tên tuổi trong ngành nhưng vẫn nhầm lẫn giữa vấn đề đánh giá nghiệp vụ và hoạt động nghiên cứu khoa học.
  • 9. Công ty Cổ Phần Phân tích định lượng Việt Nam Tel: +84 422 390 699; 09456 49731 QA Vietnam.,JSC Email: qa.vietnam@gmail.com Hội thảo quốc tế VNS 2014, “Thế nào là đại học tốt?", Hà Nội, 2014 Những công trình đánh giá nghiệp vụ thuần túy như những báo cáo kinh doanh không thể được xem là một công trình nghiên cứu khoa học) 4. Một số khuyến nghị về việc lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học tại các trường Kinh tế Qua việc phân tích lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học tại các Trường Kinh tế. Tác giả nghĩ rằng cần có sự thay đổi về mặt nhận thức, thay đổi tư duy trong việc lựa chọn đề tài nghiên cứu từ tất cả các cấp. Thay vì lựa chọn các đề tài mang tính “đánh giá nghiệp vụ” các trường phải hướng vào các mục tiêu học thuật. Một số khuyến nghị mà các đơn vị quản lý và nhà khoa học có thể xem xét để nâng cao chất lượng nghiên cứu, thực hiện những đề tài xứng tầm, theo tiêu chuẩn nghiên cứu khoa học quốc tế mà không phải những tiêu chuẩn “đặc thù Việt Nam”. Thứ nhất là các Bộ, cơ quan quản lý về giáo dục quốc gia cần đoạn tuyệt với các phong trào “người người làm khoa học, nhà nhà làm khoa học”, không thể có những khẩu hiệu “nghiên cứu khoa học chào mừng ngày ABC, XYZ”. Nói như một giáo sư nổi tiếng là “không có thứ khoa học nào là khoa học chào mừng”. Không xem xét hoạt động “nghiên cứu khoa học” như một tiêu chuẩn đánh giá những người làm nghiệp vụ tại các cơ quan không làm nghiên cứu nơi thường đẻ ra những nghiên cứu khoa học không giống ai. Thứ hai các hội đồng phê duyệt đề tài nghiên cứu phải dựa trên tính học thuật, độc sáng của đề tài để đánh giá. Các vấn đề giải quyết nghiệp vụ chỉ xem là những mục tiêu phụ trong các nghiên cứu. Thứ ba đòi hỏi các công trình nghiên cứu cấp Nhà nước, cấp Bộ phải có công bố quốc tế trên các tạp chí quốc thế uy tín (trữ những nghiên cứu mang bí mật quốc gia, nghiên cứu ảnh hưởng đến an ninh quốc gia) Thứ tư việc lựa chọn hội đồng đánh giá các đề tài nghiên cứu tại các cấp phải có những nhà khoa học có các công trình đã được đăng tải tại các tạp chí nghiên cứu uy tín trong chuyên ngành (ISI) mà là tác giả đầu hoặc đồng tác giả chính. Thứ năm đối với các Trường Đại học có chính sách cập nhật các kết quả nghiên cứu trong chuyên ngành của mình từ các Tạp chí quốc tế. Chỉ khi giảng viên, nhà nghiên cứu được tiếp cận
  • 10. Công ty Cổ Phần Phân tích định lượng Việt Nam Tel: +84 422 390 699; 09456 49731 QA Vietnam.,JSC Email: qa.vietnam@gmail.com Hội thảo quốc tế VNS 2014, “Thế nào là đại học tốt?", Hà Nội, 2014 với nghiên cứu của các đồng nghiệp quốc tế thì họ mới có thể có cái nhìn rộng hợn, lựa chọn đề tài tốt hơn theo những hướng nghiên cứu mới của cộng đồng khoa học quốc tế. Thứ sáu đối với các giảng viên, nhà nghiên cứu đánh giá, lựa chọn đề tài theo tiêu chuẩn FINER (feasible – khả thi; interesting – thú vị; novelty – tính mới; ethics – đạo đức; relevance – có liên quan, ảnh hưởng) phù hợp với từng chuyên ngành. Thường xuyên theo dõi các nghiên cứu của đồng nghiệp trong nước và quốc tế để nắm bắt xu hướng nghiên cứu, các chuẩn mực nghiên cứu mang tính quốc tế. Tham khảo 1. Đại học Công nghiệp thực phẩm TP. Hồ Chí Minh (2013), So sánh các hệ thống xếp hạng đại học phổ biến trên thế giới/http://iso.hufi.vn/index.php/tin-tuc-su-kien/53-so-sanh-cac-he-thong- xep-hang-dai-hoc-quoc-te-pho-bien [Truy cập ngày 8/3/2014] 2. Trần Văn Thọ (2004), Đặt lại vấn đề học vị tiến sỹ, Đại học Waseda, Tokyo, Nhật Bản 3. Nguyễn Văn Tuấn (2012), Đi vào nghiên cứu khoa học, Nhà xuất bản Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh 4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Thông báo tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì thực hiện đề tài/nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp Bộ năm 2004/ http://khcn.moet.gov.vn/?page=1.1&view=20241 [Truy cập ngày 10/04/2014] 5.http://scimagojr.com/countryrank.php?area=2000&category=0&region=Asiatic+Region&year =all&order=it&min=0&min_type=it [truy cập ngày 13/4/2014] 6. http://gsneu.edu.vn/upload/tracuu/LATS.htm 7. Mô hình hoạt động khoa học cho Việt Nam (Tuổi trẻ, 2014)/ http://tuoitre.vn/tuoi-tre-cuoi- tuan/van-de-su-kien/590477/mot-mo-hinh-hoat-dong-khoa-hoc-cho-viet-nam.html [Truy cập ngày 10/04/2014] 8. Giới thiệu Phương pháp nghiên cứu định lượng http://nghiencuudinhluong.com/gioi-thieu-ve- nghien-cuu-dinh-luong/ [Truy cập ngày 10/03/2004]