SlideShare una empresa de Scribd logo
1 de 89
Descargar para leer sin conexión
1
Lời tâm sự,
Chân thành thắp một nén hương lòng dâng lên
hương hồn chị Têrêsa Hồ Thủy. Chị đã ra đi đột ngột
bước vào cõi bình an vào ngày Chúa Nhật 26.7.2015,
tuổi đời mới chỉ hơn 60!
Chính chị Hồ Thủy là người đã biên soạn “ Những
Điều Chia Sẻ I ” của tôi và đặt tên cho nó là “ Mùa
Đông Ấm Áp ”. Chị đã động viên tôi “chia sẻ” tiếp,
như món nợ tôi phải trả cho người Thượng nghèo tại
Giáo Phận Kontum. Nhờ đó mà có được “ Những
Điều Chia Sẻ II ”, mà chị Hồ Thủy đặt tên cho nó là “
Tâm Bút ”. Chị bảo tôi: “Cha hãy xem lại rồi gởi cho
con, để con…”. Bây giờ tôi gởi cho chị lời nguyện cầu.
Và cũng xin chị phù hộ cho người Thượng nghèo
Kontum, mà chị hằng ấp ủ mến thương.
Thành thật chia buồn với anh Tấn - chồng chị, là
người đồng hành tận tình với chị Hồ Thủy trong công
việc của “ Mùa Đông Ấm Áp ” và “ Tâm Bút ”. Hết
lòng cảm ơn anh chị.
Cảm ơn cháu Phi – La Sơn, là người đã chịu khó
nghe giọng Bình Định và đánh thành văn bản cho chị
Hồ Thủy sắp xếp.
Cảm ơn anh Sĩ Hùng đã làm nhà “biên soạn” bất
đắc dĩ, để “ Tâm Bút ” được chào đời.
Cảm ơn Thầy Tố CVK đã góp ý và đưa thêm hình
ảnh vào để cuốn “ Tâm Bút ” thêm phần sinh động.
2
Cảm ơn cha Gioakim Vỹ đã viết lời Phi lộ, mặc dầu
lúc đầu cha rất do dự…
Cảm ơn tất cả những ai đã đọc bản thảo, đã nêu ý
kiến sửa đổi, và đã động viên…
“ Những Điều Chia Sẻ II ” chỉ là kinh nghiệm cá
nhân của một con người “ nhân bất thập toàn”, mong
sao những kinh nghiệm này góp được chút ít gì cho
công việc phục vụ người nghèo, của những người
môn đệ Chúa Giêsu trên cánh đồng truyền giáo Tây
nguyên.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Khi tôi được
bầu, tôi đã có bên cạnh người bạn của tôi là Đức
Hồng y Hummes. Bởi vì chúng tôi ngồi cạnh nhau.
Chính ngài đã nói với tôi một câu khiến tôi hạnh phúc:
‘Đừng quên người nghèo’. Thật là đẹp”
(Bài phỏng vấn Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho Đài
truyền hình Braxin Globo sau kết thúc ngày Giới Trẻ tại Rio
de Janeiro 2013).
Đừng quên người nghèo là phải có tấm lòng yêu
thương nồng nàn, chân thật và kiên trì đối với người
nghèo theo gương Chúa Giêsu.
Kontum, ngày 06 tháng 8 năm 2015
Linh mục Phêrô Nguyễn Vân Đông
Giáo phận Kontum
3
LỜI TỰA
Ngày nào mang nỗi đau, tôi mới hiểu nỗi đau là gì?
Ngày nào trong khát khô, tôi mới hiểu phận người ăn xin.
Cần một ly nước thôi, cần một bát cơm vơi, cần một bàn
tay ai đó đưa trao. . .
Này người, xin chớ quên! Phận người sống trong ta.
Mở rộng bàn tay nhân ái với bao phận nghèo.
Trong ca khúc “Tình Ngài gọi con”, Linh mục nhạc sĩ
Nguyễn Sang đã nói lên một thực tế phũ phàng rằng:
Thường ngày chúng ta vẫn hằng chứng kiến biết bao người
nghèo khổ, đói khát, bệnh tật; song thử hỏi có mấy ai nhìn
thấy được nỗi đau, sự khốn khó của họ để tỏ lòng nhân ái
và ra tay giúp đỡ? Những con người sống trong cơm no áo
ấm, nhà sang cửa đẹp làm sao có thể hiểu được nỗi đau
của cái đói cái lạnh và bệnh tật? Không có lòng trắc ẩn,
không có tình yêu thương, đồng cảm thì cũng không có sự
chia sẻ, giúp đỡ.
Là một Linh mục được trưởng thành từ chiếc nôi Chủng
viện Thừa Sai Kontum và đã gắn bó 60 năm với một giáo
phận có 2/3 tín hữu là dân tộc thiểu số, Cha Phêrô Nguyễn
Vân Đông đã “thú nhận” sự gắn bó mật thiết với người dân
tộc trong cuộc đời linh mục của mình. Và ngài xem đó như
là “mối duyên tình” đã được chính Thiên Chúa “se định”,
như đã làm cho các vị Thừa sai thuở trước.(x. tr 54,55).
44 năm sống, làm việc, nhìn thấy và cảm nhận mọi nỗi
khốn khó, nghèo đói của đồng bào mọi sắc tộc, từ những
người già yếu, bệnh tật, đến các phụ nữ mang thai, rồi đến
các trẻ em cơ nhỡ, . . Cha Phêrô không khỏi ưu tư, băn
khoăn và tự hỏi với Chúa: “Chúng con phải làm gì đây?”
“Thà bật lên một que diêm nhỏ còn hơn ngồi nguyền rủa
bóng đêm” (John Locke). Với tư cách là Tổng Đại Diện và
4
Giám đốc Caritas của giáo phận, Cha Phêrô đã thực hiện
rất nhiều chương trình bác ái xã hội để giúp đỡ cho những
người nghèo dân tộc thiểu số trong các lĩnh vực an sinh, y
tế, giáo dục, cô nhi viện, . .
Song, “một con én nhỏ cũng chẳng làm nên mùa xuân”.
Cha Phêrô vẫn luôn thao thức ước mong sự chung lòng
chung sức cộng tác từ mọi thành phần dân Chúa trong giáo
phận, nhất là các cha xứ, các nam nữ tu sĩ đang phục vụ tại
các buôn làng xa xôi trong giáo phận. Vì thế, dựa trên tinh
thần của ĐTC Phanxicô “Hãy mở cửa ra! Hãy lên đường!
..”(x. NvTM, 20-24 ), ngài cũng mời gọi: “Hãy yêu thương
người nghèo khổ và hãy giúp đỡ họ, vì đó là kho tàng hạnh
phúc của chúng ta ở trên Nước Trời”.
Tất cả những nỗi niềm ưu tư và thao thức của vị linh mục
đã 74 tuổi được bộc bạch qua những dòng chữ hết sức mộc
mạc nhưng rất đỗi chân tình trong tập nhỏ “TÂM BÚT” này.
Vì được thảo ra cách trung thành những thổ lộ tâm tình
của Cha Phêrô trong máy thu âm, nên lời lẽ trong “TÂM
BÚT” có phần “dân dã”. Và chắc chắc trong quá trình soạn
thảo không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong quý độc
giả rộng lòng bỏ qua!
Ước gì những lời tâm huyết của Cha Phêrô trong cuốn
tập nhỏ này khơi dậy trong chúng ta lòng trắc ẩn, tình yêu
và sự đồng cảm với những mảnh đời nghèo khổ, bất hạnh
nơi các anh em dân tộc bên cạnh chúng ta.
Từ đó, chúng ta biết sống tinh thần bác ái của Thánh Phaolô:
“Vui với người vui, khóc cùng kẻ khóc”, "Lấy hạnh phúc của
người khác làm hạnh phúc của chính mình, lấy niềm đau của
người khác làm nỗi khổ của chính mình" (Rm 12, 15).
Rất chân thành cám ơn quý độc giả!
Lm. Gioakim Lương Đông Vỹ.
5
Hãy thương yêu người nghèo khổ và hãy giúp đỡ họ, vì
đó là kho tàng hạnh phúc của chúng ta trên Nước Trời.
CHƯƠNG MỘT
NHỮNG NỖI NIỀM BĂN KHOĂN
TRĂN TRỞ
Có những vấn đề luôn làm cho chúng tôi, là những linh
mục, những tu sĩ nam nữ luôn ưu tư lo lắng, luôn băn khoăn
trăn trở, ấy là làm thế nào tìm ra những giải pháp tốt để
"tháo gỡ" cho người dân tộc thoát khỏi phần nào đó đời
sống nghèo khó, bệnh tật, và làm sao cho con cái của họ
không phải chịu nhiều sự thiệt thòi.
Những điều mà chúng tôi lo lắng ưu tư nhất, ấy là:
6
I. Người dân tộc vẫn còn sinh rất nhiều con.
Trong khi các chương trình của báo chí, đài truyền
hình hay các hội nghị diễn thuyết về kế hoạch hóa gia đình
của Nhà Nước, cũng như những áp phích treo đầy đường
với khẩu hiệu "dù gái hay trai, chỉ hai là đủ" luôn được
nhắc đến hàng đầu và khuyến khích mọi gia đình nên áp
dụng, nhưng người dân tộc thì có câu nói như thế này: "dù
gái dù trai, có thai là đẻ". Dù đó chỉ là một câu nói đùa
nghe cho vui tai nhưng lại rất thật. Trong một gia đình của
người dân tộc có đến 7, 8 người con được coi là rất bình
thường, thậm chí một số gia đình có đến 10, 11 người con
luôn. Họ chẳng cần biết đến ông nào là ông Ogino hay ông
Billings…
Một phụ nữ dân tộc tuy đang rất trẻ nhưng đã tay bồng tay bế…
Có lần hai bà mẹ người dân tộc ở trên Đak Mut, huyện
Đak Hà, tỉnh Kontum tới thăm tôi, tôi hỏi bà 40 tuổi:
- Bà có bao nhiêu người con?
Bà ta buồn rầu trả lời:
7
- Con đẻ mười đứa nhưng con chỉ nuôi được năm đứa
mà thôi, còn năm đứa thì bị chết khi nó còn nhỏ.
Tôi quay qua hỏi bà thứ hai, cũng chừng 40 tuổi:
- Còn bà? Bà được mấy người con?
Cũng giống như bà kia, bà này trả lời tôi:
- Con có 6 đứa con, nhưng mà con nuôi được 3 đứa. Có
một đứa lớn tới 23 tuổi, buổi tối nó đi ngủ, sáng dậy thấy nó
đã chết rồi, bởi vì nó bị bệnh tim bẩm sinh.
Nghe hai người đàn bà nói mà tôi rất đau lòng, vì có
những cái chết không đáng có nếu được chữa trị kịp thời.
Người dân tộc họ sinh con thì nhiều nhưng nuôi được con
thì rất ít. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đáng
buồn, đáng thương về điều này, đó là:
Thiếu vệ sinh:
Sự thiếu hiểu biết về vệ sinh cũng như những biến
chứng sau khi sinh đã dẫn đến tình trạng người mẹ bị chết.
Và theo hủ tục của người dân tộc thì khi người mẹ chết là
người nhà sẽ chôn đứa con theo mẹ, dù nó còn sống. Có
những đứa con sau khi được sinh ra chừng vài ba ngày,
hay một thời gian ngắn thì bị chết vì bệnh hay vì một biến
chứng nào đó liên quan đến vấn đề vệ sinh.
Thiếu lương thực.
Những bà mẹ dân tộc nghèo bị thiếu ăn, ngay chính
bản thân họ còn không có cái để ăn thì làm sao họ nuôi nổi
thai nhi trong bụng? Nên khi sinh con họ không có sữa cho
con bú, vậy cả mẹ và con đều bị suy dinh dưỡng trầm trọng,
có khi đứa con bị chết vì nó quá yếu.
Không muốn đến trạm xá:
Người mẹ dân tộc tới thời kỳ sinh nở không muốn
đến trạm xá hay bệnh viện để sanh con vì những lý do như:
8
Không có tiền, nhất là những người ở tận vùng sâu
vùng xa.
Không biết tiếng Kinh – ngại giao tiếp.
Người dân tộc có thói quen chỉ muốn sinh con tại làng,
tại nhà. Họ sống ở đâu thì sinh con ở đó.
II. Phải tìm cách giúp đỡ các bà mẹ nghèo mang thai.
Vì tình trạng sinh con thì nhiều mà nuôi được thì ít,
nên chúng tôi đã hết sức cố gắng giúp đỡ họ về mọi mặt,
nhất là về y tế, về vệ sinh và lương thực, để vừa nuôi người
mẹ và nuôi luôn cả đứa con trong bụng. Nhưng như thế
chưa phải là đã xong, vì sau khi người mẹ sinh con, chúng
tôi còn phải lo cho họ được no cái bụng trong khoảng thời
gian đầu. Đó chính là thời gian quan trọng để người mẹ cần
có sữa cho con bú.
Chúng tôi luôn lo lắng, băn khoăn trăn trở khi nghĩ đến
việc phải làm thế nào để giúp cho những bà mẹ đang mang
thai mà thiếu ăn, thường xuyên bị đói, phải có cái ăn để
người mẹ được no cái bụng. Họ thiếu ăn không phải vì họ
làm biếng, trái lại họ rất siêng năng và chịu khó. Như chúng
ta biết, người dân tộc luôn dựng làng ở gần rừng, gắn bó
cuộc đời mình với núi, với rừng. Thiếu cái ăn là họ vào
rừng. Rừng núi là một phần thân thể của họ. Bây giờ đâu
còn rừng nữa mà vào! Xưa người dân tộc làm rẫy để có hạt
lúa. Đông người thì đốt “cái rẫy” lớn, ít người thì đốt “cái
rẫy” nhỏ. Bây giờ, đất đai được Nhà Nước quy hoạch rồi.
Không còn chỗ đốt rẫy làm lúa, làm mì như thuở xưa nữa!
Làng người dân tộc luôn ở gần sông, gần suối, hoặc
chỗ ở có nhiều nước. Họ lấy nước mạch để sử dụng, người
Kinh thường gọi là “nước giọt”. Người dân tộc không có thói
quen đào giếng như người Kinh. Khổ nỗi, bây giờ sông suối
cũng cạn kiệt vì rừng không còn. Sông suối khắp nơi không
những bị cạn kiệt, mà còn bị ô nhiễm nặng nề. Nhiều người
dân tộc bị bệnh đường ruột vì uống nước không sạch.
9
Caritas chúng tôi đã thực hiện nhiều chương trình nước
sạch cho các làng dân tộc tại tỉnh Gia Lai, như: Đào giếng,
lắp các bộ lọc nước tinh khiết, lắp bồn chứa nước v.v.... Đã
đem lại nhiều ích lợi và sức khỏe cho người sử dụng.
Chúng tôi mong có nhiều người tiếp tay để chương trình
Nước Sạch đến được với nhiều làng dân tộc hơn nữa.
Chúng tôi rất đau lòng khi thấy những người mẹ dân
tộc sinh nhiều con, mà con họ bị chết cũng nhiều. Có nghe
được những tiếng khóc ai oán não nề của người mẹ khi con
mình bị chết vì bệnh, hay vì một nguyên nhân không đáng
kể nào đó, thì chúng ta mới có thể hiểu và cảm thông, mà
chạnh lòng thương xót họ.
III. Những việc làm của Ban Bác Ái Xã Hội Caritas
Kontum giúp đỡ người dân tộc.
Vì muốn tránh tình trạng các người mẹ dân tộc sinh
con thì nhiều mà nuôi được thì ít, nên Ban Caritas chúng tôi
hết sức cố gắng làm những công việc cần thiết để giúp đỡ
cho những bà mẹ nghèo đang mang thai. Chúng tôi đã kêu
gọi rất nhiều người từ các ngành Y Tế, Vệ Sinh, cùng chúng
tôi chung lòng, chung sức, chung tay để giúp đỡ họ và phải
làm sao cho có hiệu quả.
Caritas của Giáo Phận Kontum có nhiều ban, trong đó
có Ban Bảo Vệ Sự Sống. Chúng tôi đã cố gắng góp phần lo
cho các bà mẹ dân tộc nghèo mang thai được:
Ăn uống đầy đủ hơn trong khi mang thai. Một khi người
mẹ mang thai được no bụng, thì mới có sức khỏe. Và khi
mẹ được mạnh khỏe thì đứa con trong bụng mới tốt được.
Sau khi người mẹ sinh con xong thì cũng phải cho mẹ
được ăn uống no đủ để có sữa cho con bú.
Với những người mẹ sau khi sinh con mà không có sữa
cho con bú, cũng chẳng có tiền để mua sữa, thì chúng tôi,
Ban Bác Ái Xã Hội Caritas phải tìm mọi cách giúp đỡ tiền
bạc cho người mẹ để bà mua sữa cho con mình bú.
10
Cũng vì tình trạng người mẹ mang thai mà không có
cái ăn, nên đứa con đã bị suy dinh dưỡng ngay từ trong
bụng mẹ. Rồi thì với cách sống thiếu vệ sinh, khi bị bệnh
không có thuốc uống, không tới được bệnh viện, thế nên tỷ
lệ sơ sinh sống rất thấp. Vì những lý do đó, nên mới có tình
trạng sinh 10 đứa mà nuôi được chừng 4 , 5 đứa, hoặc sinh
được 6, 7 đứa mà chỉ nuôi được chừng 3,4 đứa là như vậy.
Nhà thờ Thăng Thiên - Pleiku
Vào năm 2005 tôi được bổ nhiệm về làm cha sở của
giáo xứ Thăng Thiên (nhà thờ nằm ngay trung tâm thành
phố Pleiku). Năm đó (2005), khai giảng Năm học Giáo Lý,
lớp giáo lý Khai Tâm dành cho các em nhỏ người Kinh, có
đến 40 em ghi tên học giáo lý Khối Khai Tâm. Nhưng sau 8
năm tôi ở xứ đạo này, vào niên học 2013 thì chỉ có 16 em
ghi tên học giáo lý Khối Khai Tâm mà thôi. Điều đó chứng tỏ
cho chúng ta thấy rằng số sinh của người Kinh ngày càng
giảm, trong khi đó số sinh của người dân tộc hầu như không
giảm bao nhiêu.
11
Tôi trông coi một làng dân tộc ở Xã Nghĩa Hưng,
huyện ChưPăh, tỉnh Gia Lai. Đó là làng Ea Luh, thuộc sắc
tộc Séđăng. Làng chỉ có khoảng 700 người dân mà thôi.
Một lần nọ, tôi đi dâng lễ ngày Chúa Nhật, nhằm vào dịp
Trung Thu. Tôi đem theo 200 phần quà để phát cho các em
từ 10 tuổi trở xuống, nhưng chú Giáo Phu nói với tôi:
- Như thế là không đủ, vì làng của chúng con bây giờ các
trẻ em từ 10 tuổi trở xuống có tới gần 300 em lận.
Hôm đó tôi cũng hơi ngạc nhiên vì số trẻ em của làng lại
đông đến như thế. Đây cũng chính là nỗi lo lắng của chúng
tôi, vì người dân tộc càng sinh nhiều con thì càng bị thiếu
lương thực, mà thiếu lương thực thì cũng đồng nghĩa với
thiếu ăn. Nếu thiếu ăn sẽ dẫn đến suy dinh dưỡng. Một khi
đã không có sức khỏe thì sẽ không có sức đề kháng, mà
không có sức đề kháng thì khi bị bệnh sẽ khó vượt qua. Mọi
chuyện cứ thế mà xoay quanh cái vòng luẩn quẩn!
Nhà trẻ ở làng Ea Luh
12
IV. Cần tạo điều kiện để người mẹ được đi làm.
Như tôi đã nói sơ qua ở trên, ngày xưa người dân tộc
ở trong rừng và rừng đã nuôi sống họ. Nhưng ngày nay
rừng đâu còn nữa, các làng dân tộc ở chênh vênh giữa trời,
giữa đất, cho nên khi hết gạo, hết lúa thì người dân tộc
không còn rừng để gọi là "cứu đói" cho mình. Thế thì số trẻ
em sinh ra nhiều như ngày nay, nếu Nhà Nước không tạo
điều kiện, không có cách nào đó giúp đỡ họ một cách thiết
thực ,thì làm sao họ có đủ thời gian để mà đi lao động?
Vì vậy nên Caritas chúng tôi đã làm những việc như
sau để giúp đỡ cho các bà mẹ dân tộc có thời gian để đi lao
động trên nương rẫy, hoặc đi làm thuê, làm mướn…
Mở nhà trẻ trong các làng người dân tộc.
Mở nhà trẻ trong các làng dân tộc giúp cha mẹ có nơi
gởi con mình vào đó, để còn có thời gian đi làm kiếm cái ăn
cho gia đình. Vì khi họ sinh nhiều con nên đứa lớn phải ở
13
nhà giữ em. Ngặt một nỗi là khi đứa em vừa chập chững
biết đi thì mẹ nó lại sinh tiếp đứa khác, và thế là nó lại tiếp
tục giữ em. Vậy cho nên nó đâu có được đi học, mà đã
không được đi học thì nó sẽ phải chịu rất nhiều thiệt thòi khi
trưởng thành. Còn như cha mẹ nó ở nhà giữ con để cho nó
được đi học thì làm sao cha mẹ nó đi lao động được? Mà
không đi làm thì lấy gì mà ăn? Đây là một cái vòng luẩn
quẩn rất đáng thương và đáng buồn.
Vì muốn cho người dân tộc thoát ra khỏi cái vòng
luẩn quẩn ấy nên chúng tôi suy nghĩ như sau: Các linh mục
cũng như các tu sĩ nam nữ, bằng cách nào đó mở nhiều
nhà trẻ tại các làng, càng nhiều bao nhiêu càng tốt bấy
nhiêu. Điều này rất ích lợi cho những người cha, người mẹ
và các trẻ em người dân tộc.
Một nhà trẻ do người dân tộc coi sóc
Chúng tôi cũng đã mở một số nhà trẻ trong các làng
dân tộc, tuy rằng nó không lớn và qui mô như các nhà trẻ
của Nhà Nước. Các nhà trẻ do chúng tôi mở ra tuy đơn sơ
14
nhỏ bé nhưng đã đáp ứng được nhu cầu cần thiết của
người dân trong làng. Nhất là khi các trẻ em được chính các
cô giữ trẻ là người dân tộc của làng chăm sóc. Nói một cách
ngắn gọn và dễ hiểu thì như thế này: Chính những người
dân tộc trong làng đảm nhận trách nhiệm giữ trẻ em
trong làng của mình. Đây là điều vô cùng quan trọng, vì nó
phù hợp với tâm lý và não trạng của các em. Thế nhưng
phải làm cách nào để người trong làng biết cách giữ trẻ em
ở trong làng của mình? Câu trả lời là chúng tôi đã tạo các
điều kiện như sau:
Tổ chức cho người giữ trẻ đi học các khóa giữ trẻ.
Chúng tôi cho những người giữ trẻ được đi học thêm
về cách thức giữ trẻ, về cách gìn giữ vệ sinh, về chế độ ăn
uống... Chúng tôi nhận thấy rằng những đứa trẻ nào được ở
trong nhà trẻ do chúng tôi mở ra thì rất mạnh khỏe và trí
não phát triển tốt, vì các trẻ em đó được:
- Ăn uống đầy đủ, theo đúng chế độ dinh dưỡng.
15
- Có nước sạch để uống và tắm rửa.
- Có nhiều đồ chơi để phát triển trí thông minh.
- Dạy cho các trẻ sống đời sống tập thể, yêu thương
nhau, đối với người dân tộc thì điều này rất dễ tập.
- Dạy cho các trẻ em tập nói tiếng Việt, hát những bài
hát tiếng Việt, dạy các trẻ em sống theo kỷ luật của
trường, lớp.
- Các cô giữ trẻ phải biết chữa những bệnh thông
thường cho các trẻ em như cảm, nóng sốt, tiêu chảy, bị
trầy xước ngoài da do chơi đùa nghịch ngợm... Khi nào có
bác sĩ, thầy thuốc hay y tá đến khám chữa bệnh cho các
em thì cô giữ trẻ phải biết lo cho các em được khám và
chữa bệnh.
Nhờ được học thêm về cách giữ trẻ, hơn nữa các cô
giữ trẻ lại là người dân tộc trong làng nên các cô đã làm rất
tốt công việc này. Các cô có trách nhiệm và biết yêu thương
trẻ em. Hầu hết các em ở trong các nhà trẻ mà chúng tôi
mở ra tại làng đều khỏe mạnh. Các em được học tiếng Việt
nên biết nói tiếng Việt, rồi học kỷ luật và biết giữ kỷ luật của
trường, của lớp. Cho nên, khi các em vào học cấp 1 thì dễ
dàng thích ứng với những kỷ luật của trường, lớp cùng với
các bạn học người Kinh. Các em đó không bị lúng túng bỡ
ngỡ khi hòa nhập với những học sinh người Kinh.
V. Những con số và những kết quả đáng mừng.
Giáo phận Kontum của chúng tôi gồm có 2 tỉnh:
Tỉnh Gialai có 1.300.000 dân, khoảng một nửa là người
dân tộc, còn một nửa kia là người Kinh.
Tỉnh Kontum chỉ có không tới 500.000 dân. Gần 300.000
là người dân tộc, số còn lại là người Kinh. Như vậy theo
ước tính, thì tỉnh Kontum có tới 2 phần 3 là người dân tộc,
còn lại 1 phần 3 là người Kinh.
16
Số giáo dân Công giáo thuộc tỉnh Gia Lai có khoảng
160.000 người, khoảng một nửa là người dân tộc, còn nửa
kia là người Kinh, trong đó số giáo dân người dân tộc thì
sắc tộc Jơrai là đông nhất, sau đó tới sắc tộc Bahnar.
Số giáo dân trong tỉnh Kontum có đến 165.000 người..
Người Công giáo của cả nước Việt Nam chiếm không tới
7%, nhưng riêng tỉnh Kontum thì người Công giáo có được
35%. Đây là tỷ lệ cao nhất so với 64 tỉnh thành trong cả
nước Việt Nam
Như thế trong tỉnh Kontum chúng tôi có:
Số Công giáo người dân tộc có khoảng 135.000
người. Số Công giáo người Kinh có khoảng 30.000 người.
Với 135.000 người Công giáo dân tộc tỉnh Kontum,
có rất nhiều sắc tộc như: Jơrai, Bahnar, Rơngao, đông nhất
là Séđăng ở các huyện phía bắc tỉnh Kontum. Những sắc
tộc ít hơn như Yé, H'lan, Xơdra... thì số giáo dân không
nhiều.
17
Lễ khánh thành Giáo Xứ IA TÔ năm 2013, sau 10 năm
truyền giáo do các cha Dòng Phanxicô..
18
Đức Khâm Sứ Tòa Thánh là Đức Tổng Giám Mục
Leopoldo Girelli đã đi thăm địa phận Kontum 3 lần. Trong 3
chuyến viếng thăm này, tôi được đi với ngài đến tất cả
những nơi ngài đến thăm, người Kinh cũng như người dân
tộc. Mỗi lần ngài đến những làng của người dân tộc như
làng Kon Hring, làng Đak Chô thuộc huyện Đaktô, tỉnh
Kontum, hoặc là Ngài đi xuống dưới các vùng của tỉnh Gia
Lai, vào Buôn Ma Dơng huyện Ayunpa, hay Hara-Phú Yên
huyện MangYang chẳng hạn, đến chỗ nào ngài cũng thấy
trẻ em người dân tộc rất là đông. Ngài ngạc nhiên và nói với
tôi:
- Trẻ em người dân tộc thật là đông, bên Châu Âu không
thấy như vậy. Đặc biệt là các trẻ em dân tộc nơi nào cũng
nghiêm trang, đạo đức, mặc dù không hiểu biết nhiều
nhưng các em rất đàng hoàng, rất có trật tự.
Nghe ngài khen như thế tôi rất mừng. Tôi nghĩ rằng
trong địa phận Kontum chúng tôi có khoảng 215.000 giáo
dân là người dân tộc, thì giới trẻ từ 20 tuổi trở xuống có
khoảng 50%. Lý do vì sao mà tôi đưa ra con số đó? Câu trả
lời là:
Đã từ lâu người dân tộc nhận được rất nhiều những
giúp đỡ và sự chú tâm lo lắng chăm sóc của các linh mục,
tu sĩ tại Giáo Phận Kontum, nhất là các nữ tu ở những vùng
xa xôi. Chính các vị này đã không quản ngại gian khó để
giúp cho họ về mọi mặt, nhất là về y tế và giáo dục. Hiện
nay Nhà Nước cũng có chủ trương, chính sách quan tâm
đến cuộc sống của người dân tộc, nhưng từ chủ trương đến
thực hiện, thì cũng còn xa lắm.
Người ta có thể CHO mà không THƯƠNG, nhưng
người ta không thể THƯƠNG mà không CHO. Chữ
THƯƠNG ở đây và trường hợp này là cần thiết, rất cần
thiết !
19
Điều đáng mừng là lúc sau này người dân tộc không
còn bị chết trẻ nhiều, cũng không yếu đau bệnh tật nhiều
như thời trước. Cho nên trẻ em người dân tộc đông là như
vậy đó. Nhưng họ lại gặp nhiều khó khăn trong việc làm sao
kiếm đủ lương thực để nuôi con, lo cho con đi học. Khi con
cái hay người nhà bị bệnh thì phải có tiền để lo chữa trị cho
người bệnh. Công việc của chúng ta bây giờ là giúp đỡ họ
bằng mọi cách với khả năng mà chúng ta có thể. Như vậy
là chúng ta đã thể hiện được tình yêu thương đồng loại, yêu
thương người nghèo khó, bệnh tật. Nếu được như thế là
chúng ta đã sống theo Tin Mừng Phúc Âm của Chúa.
Nhờ ơn Chúa thương ban cho đất nước Việt Nam
chúng con nói chung và giáo phận Kontum nói riêng.
Qua sự truyền giáo của các linh mục thừa sai ngày xưa,
nên ngày hôm nay giáo phận Kontum chúng con đã có
những con số thật đáng mừng. Chúng con muôn vàn
cảm tạ ơn Chúa, nguyện xin Chúa cho số giáo dân
người dân tộc và người Kinh ngày càng tăng, cuộc
sống của người dân tộc ngày càng tốt hơn về mọi mặt.
20
CHƯƠNG HAI
NHỮNG ĐIỀU KHÁC BIỆT GIỮA NGƯỜI
KINH VÀ NGƯỜI DÂN TỘC
Trong bài này có mấy vấn đề mà tôi muốn đề cập đến,
đó là những sự khác biệt giữa người Kinh và người dân tộc
trong việc sinh con, nuôi con và dạy con. Chúng ta có thể
nêu ra những sự khác biệt nhau giữa Kinh và dân tộc như
sau:
I. Sinh con
- Đối với người Kinh:
Thời nay, người Kinh không sinh nhiều con, một gia
đình người Kinh chỉ sinh 1 hoặc 2 con mà thôi. Xã hội ngày
21
càng văn minh hiện đại, cuộc sống ngày càng được nâng
cao, những nhu cầu cần phải có trong gia đình ngày càng
đòi hỏi nhiều, người Kinh thích hưởng thụ hơn, cho nên
theo họ sinh thêm con là một gánh nặng, chứ không phải là
“Đa tử, đa tôn, đa phú quý” như thời trước.
Hơn nữa, ngày nay người phụ nữ Kinh tham gia công
việc xã hội nhiều hơn phụ nữ ngày trước. Họ cũng phải lo
nhiều về "cơm áo gạo tiền", vì thế họ không thích sinh nhiều
con. Nếu sinh nhiều con, họ sẽ bị bận rộn trong việc chăm
sóc con cái. Khi đó thì "đầu bù tóc rối", người ngợm của họ
lúc nào cũng khai ngấy, quần áo xốc xếch, xộc xệch, mất
hết hình tượng đẹp của người phụ nữ.
Đã vậy, có nhiều con mà kinh tế eo hẹp không nuôi
cho đầy đủ về cơm áo, không lo cho chúng nó được học
hành tới nơi tới chốn thì thật là quá tội !
Vậy nên người phụ nữ Kinh không muốn sinh con theo
kiểu của ông bà xưa là "đứa thôi nôi lôi đứa đầy tháng".
Khi sinh con thì người mẹ Kinh sẽ đến bệnh viện hoặc
trạm xá để sinh, vì như thế, họ sẽ được an toàn hơn, sẽ
được "mẹ tròn con vuông". Vậy nên họ không sinh con ở
nhà. Trước khi đi sinh, người mẹ Kinh chuẩn bị đủ mọi thứ
như: áo, tã lót, khăn, dầu xoa bóp, phấn, nón len, bình thủy
và những thứ khác cho em bé... Nên khi vừa sinh con xong
thì người mẹ đã có sẵn mọi thứ cần thiết để các y tá dễ bề
chăm sóc cho đứa bé. Đó cũng là một thông lệ, một thói
quen tốt của người Kinh đã có từ lâu rồi.
Người Kinh còn chu đáo chuẩn bị sẵn phong bì "lót
túi" cho các y công, y tá để cả mẹ và con được chăm sóc
một cách tận tình chu đáo. Đó là sự thể hiện vô cùng thực
tế của câu " tiền thương mến thương" !?
- Đối với người dân tộc:
Trong các làng của người dân tộc, thường có một cô
mụ làng (mẹ truyền con nối), nên khi bà mẹ sinh con tại nhà
22
mình thì đã có cô mụ làng tới nhà đỡ đẻ cho. Nếu gặp cô
mụ làng biết cách lo cho trẻ một cách hợp vệ sinh thì đứa
bé được an toàn. Nhưng cũng có lúc, đứa bé có thể bị
nhiễm trùng rốn rồi chết, nếu cô mụ làng theo tập tục xưa,
lấy một thanh tre tước mỏng thiếu vệ sinh để cắt rốn cho
đứa bé.
Về phía người mẹ, cũng có những trường hợp sau
khi sinh bị băng huyết mà chết. Người dân tộc không thích
tới bệnh viện để sinh con. Chỉ khi nào họ gặp vấn đề quá
khó khăn thì lúc đó mới tới trạm xá hoặc bệnh viện. Nhưng
có những làng ở trong các vùng xa xôi nên họ không tới kịp
trạm xá hoặc bệnh viện. Đôi khi không có cách nào khác thì
người mẹ bị chết hoặc là đứa con không sống được. Điều
này rất đáng thương, tội nghiệp và thật là đau xót.
Giúp những thai phụ sinh khó tại các làng
Vì thấy những cái chết không đáng phải chết như
thế, nên sau này chúng tôi hết sức cố gắng và đã mua được
2 chiếc xe cứu thương để giúp đỡ cho những trường hợp
cấp cứu: Một chiếc phục vụ vùng Gia Lai và một cho vùng
Kontum. Sẵn sàng chạy đến các làng xa để chuyên chở thai
phụ, hoặc bệnh nhân đến các bệnh viện cấp cứu.
Trước kia ở vùng Kontum có các linh mục như cha
Simon Bình, ngài có chiếc xe chuyên chở cấp cứu cho các
bệnh nhân nghèo đi bệnh viện, nếu có bà mẹ sinh con khó,
khi có giáo dân nào đó báo cho biết thì ngài sẵn sàng và
nhanh chóng chở bà mẹ sinh khó tới nơi cần thiết có đủ
phương tiện để giúp cho họ được "mẹ tròn con vuông".
Thời trước năm 1975, Đức Giám Mục Kontum là
Đức Cha Phaolô Kim cũng thường xuyên dặn dò các linh
mục trong việc phải giúp đỡ các bà mẹ dân tộc sinh đẻ gặp
khó khăn. Nên các linh mục ở các vùng như Đak Tô hoặc
các vùng xa xôi, một khi có vấn đề như thế thì các linh mục
23
người Pháp cũng như người Việt luôn luôn sẵn sàng nhanh
chóng đưa các bà mẹ sinh khó tới bệnh viện cho kịp lúc.
Trước khi làm linh mục, khoảng năm 1970. Đức Cha
Kim có lần nói với tôi: “Làm linh mục ở Paris thì anh chỉ lo
ban các Bí tích, lo dạy giáo lý, đi thăm viếng mục vụ các gia
đình. Như vậy là tốt lắm rồi ! Còn như anh làm linh mục ở
Kontum, ngoài những việc đó ra, anh còn phải biết: Cho
thuốc cho người bệnh, phải biết sửa xe đạp, phải biết quay
nổ máy phát điện, và…thậm chí là phải biết đỡ đẻ nửa !!
Cha Simon Bình và chiếc xe cứu thương huyền thoại của ngài
24
Đức Cha Phaolo Kim
25
Nhưng theo thói quen, người dân tộc vẫn thích sinh
con ở nhà hơn, nên họ dễ gặp nguy hiểm khi "vượt cạn".
May mà nhờ có các linh mục và các sơ ở các nơi trong giáo
phận kịp thời giúp đỡ được nhiều trường hợp khẩn cấp, đã
cứu được người mẹ và cứu luôn cả đứa con.
Có một điều chúng tôi nghe được là ngay chính
người Kinh khi đến bệnh viện cũng phải có "bao thư" để
được tiếp đón một cách niềm nở và được giải quyết nhanh
chóng. Nếu có bao thư thì gặp chuyện tưởng chừng như bế
tắc lắm thì cũng được giải quyết. Có một y sĩ người dân tộc,
người này từng giúp đỡ cho nhiều bà mẹ trong làng, nói với
tôi rằng:
- Bây giờ người dân tộc cũng muốn tới bệnh viện để
sinh con nhưng họ ngại một điều là không có tiền để tới
bệnh viện.
Mặc dù trên nguyên tắc thì người dân tộc nghèo
được miễn phí khi đến bệnh viện, nhưng cái "chế độ bao
thư" không thể thiếu ấy đúng là làm khổ cho người nghèo.
Chỉ mong sao các linh mục ở các nơi, nhất là các nữ tu ở
những vùng lân cận đến chăm sóc cho các bà mẹ mang thai
mà nghèo đói, cố gắng giúp đỡ cho họ có đủ phương tiện
để "vượt cạn" khi họ tới ngày sinh con. Đây là điều chúng
tôi mong ước cho các bà mẹ dân tộc, nhất là những bà mẹ
nghèo.
Như đã kể trên, người Kinh trước khi sinh con thì họ
sắm sửa chuẩn bị đầy đủ các thứ, nhưng người dân tộc thì
không. Vì họ quá nghèo nên không có tiền để sắm sửa
chuẩn bị như người Kinh, nếu có tới được bệnh viện thì họ
chỉ đi tay không, chẳng mang theo thứ gì cả. Họ bị những
người y tá trong bệnh viện trách móc, đôi khi còn la mắng
hoạnh họe họ nữa. Có những nhân viên y tá phục vụ trong
bệnh viện khoa sản mặt nặng, mày nhẹ, cằn nhằn người
mẹ dân tộc những câu đại loại như:
26
- Tại sao không có tã lót? Tại sao không có khăn, áo
cho đứa bé? Bệnh viện làm gì có sẵn những cái này...
Vì những câu cằn nhằn như thế nên những người
mẹ dân tộc rất e ngại và lòng đầy mặc cảm. Trong khi đó
nếu sinh con tại làng thì người mẹ được cô mụ làng tới tận
nhà đỡ đẻ mà không phải tốn tiền.
Có những câu chuyện nếu kể ra đây nghe thì thật là
đau lòng. Nhưng tôi nghĩ rằng dù có đau lòng cách mấy thì
cũng nên kể ra cho mọi người biết, không phải là để cầu xin
lòng thương xót, nhưng cũng để cho người đọc biết rõ hơn
về cuộc sống của người dân tộc, nhất là những người đàn
bà dân tộc nghèo mang thai. Có rất nhiều chuyện cảm động
và đau lòng, nhưng tôi chỉ kể một câu chuyện điển hình như
sau:
Có một em bé được nằm chữa trị trong bệnh viện,
sức khỏe em ngày một khá hơn, nhưng cha mẹ của em thì
hết tiền, cuối cùng không còn đồng nào để ăn hằng ngày,
nên đành phải bồng con đi về mặc dù đứa bé chưa hết
bệnh. Không biết sau khi về làng bệnh của em có nặng trở
lại hay không? Em bé có vượt qua cái chết để được sống
hay không?
Tôi vô cùng bức xúc về những câu chuyện đại loại
như thế. Chính điều này làm cho tôi nghĩ rằng: Trong vai
trò của người linh mục hay của một tu sĩ nam, nữ thì
đôi khi chúng ta vẫn còn nhiều thiếu sót. Chúng ta lo cho
các công tác mục vụ, lo ban các phép Bí tích, lo xây dựng
nhà thờ... Thế nhưng chúng ta lại ít khi nghĩ tới hoàn cảnh
sinh sống của người nghèo. Nhất là những người dân tộc
nghèo, như vậy là chúng ta chưa làm tròn trách nhiệm với
chức năng thiêng liêng trong ơn gọi của mình.
27
Trạm Xá Cao Thượng ở Kon Jơdreh – Tỉnh Kontum
Trước tình cảnh đó, Hội Ái Hữu và Truyền Giáo
Kontum (KMF: www.giupkontum.org) cùng với anh em Cựu
Chủng Sinh Kontum đã thành lâp một trạm xá ở Kon
Jơdreh, Kontum để khám bệnh và phát thuốc miễn phí cho
người nghèo. Cho đến giờ này, đây là trạm xá miễn phí quy
mô và hiệu quả nhất vì có đội ngũ Y, Bác sĩ chuyên môn
thường trực từng ngày.
Chờ khám bệnh cho con cái ở trạm xá Kon Jơdreh
28
II. Nuôi con
- Đối với người Kinh:
Thời trước, người Kinh có quan niệm rằng "trời sinh
voi sinh cỏ", nên ông bà ta thời đó sinh rất nhiều con. Tuy là
sinh nhiều con nhưng vẫn nuôi dạy tốt hơn bây giờ nhiều.
Đến thời nay thì người Kinh ngại nuôi con nên sinh
rất ít. Họ áp dụng câu "Dù gái hay trai, chỉ hai là đủ", nên gia
đình người Kinh chỉ sinh từ 1 đến 2 đứa con mà thôi. Vì vậy
mà họ nuôi con khá đầy đủ, nhưng có một điều đáng lo ngại
là vì có ít con nên họ cưng chiều con cái, làm cho con cái họ
dễ hư hỏng.
Về dinh dưỡng thì người Kinh cho con mình ăn
những thứ thức ăn đầy chất bổ dưỡng, uống những loại
sữa tốt, nên có những đứa trẻ con tôi thấy nó mập quá xá
cỡ, ú na ú nần, mà mập quá như thế cũng không tốt.
Người Kinh nuôi con rất kỹ, nghe con ho vài tiếng,
thấy con bú ít một chút, hôm nào sờ đầu con cảm thấy trán
hâm hấp nóng là họ vội vàng bồng con đi bác sĩ hoặc đưa
con đến bệnh viện ngay. Vì vậy số người Kinh đưa con đi
khám bệnh ở phòng khám của các bác sĩ tư rất nhiều, còn
người dân tộc thì rất hiếm, họa hoằng lắm mới có một vài
người đưa con đến khám.
Người Kinh thường xem tin tức trên đài truyền hình,
hoặc đọc báo, lên mạng Internet, qua đó họ thường theo dõi
để biết chỗ nào có vá môi sứt, chích ngừa bệnh này, bệnh
nọ... v.v...và v.v... Cũng nhờ thường xuyên theo dõi tin tức,
thông báo, nên người Kinh lo cho con cái khá là chu đáo.
- Đối với người dân tộc:
Khác với người Kinh: "dù gái hay trai chỉ hai là đủ",
người dân tộc lại quan niệm như ông bà người Kinh của
chúng ta ngày trước "trời sinh voi sinh cỏ", vì thế nên họ
sinh con một cách vô tư. Họ làm theo câu nói tuy có vẻ đùa
nhưng rất thật: " Dù gái, dù trai có thai là.. đẻ!". Họ không
29
thèm “kiêng cữ”… Vì đẻ nhiều, nhà nghèo lại đông con nên
cơm ăn bữa đói bữa no, có bữa còn không có cái gì để mà
ăn. Thế nhưng người dân tộc vẫn chấp nhận cảnh nhà đông
con, và họ rất vui vì có nhiều con. Các nhà trong làng cũng
vui lòng cho nhà nào có con đông, phải sống chen chúc
chật chội được qua ở nhà của mình.
Có một lần tôi tới thăm một gia đình nọ. Nhà có hai
người con, ông chồng đau phải nằm bệnh viện 2 tuần, tôi
hỏi bà vợ:
- Trong 2 tuần bà đi nuôi chồng trong bệnh viện, thế
thì 2 đứa con của bà ở nhà nó sống ra làm sao?
Bà mẹ hồn nhiên trả lời:
- Làng cho nó ăn đó chớ!
Điều này cho tôi thấy tinh thần cộng đồng của người
dân tộc rất tốt, không những biết lo cho những người trong
làng khi gặp khó khăn, mà còn cho con cái của người đó
được ăn cơm, ngủ nhờ. Đôi khi họ còn tình nguyện chăm
sóc cho heo, gà... của người đó nữa. Như khi thấy là người
vợ phải nuôi chồng trong bệnh viện 2 tuần mà ruộng lúa bị
cỏ rác mọc tùm lum, mùa màng tới nơi cần phải gặt, thì
người ở trong làng cũng tổ chức đi gặt lúa cho gia đình
đang gặp khó khăn đó.
Khi nghe nói 2 đứa con người bệnh ở trong làng không
nổi lửa nấu cơm, bếp núc lạnh tanh, thì nay chúng ăn cơm
ở nhà này, mai chúng lại qua ăn cơm ở nhà khác, và nhà
nào cũng vui vẻ cho chúng ăn cơm.
Tôi rất lấy làm cảm động và nhận thấy rằng về điều
này thì người dân tộc sống tốt hơn người Kinh của chúng ta
nhiều. Họ biết chia sẻ và sẵn lòng giúp đỡ nhau khi gặp khó
khăn.
Khi người dân tộc bị bệnh, mặc dù họ rất muốn đến
bệnh viện hoặc tới phòng khám của các bác sĩ tư để khám
và được chữa bệnh, nhưng vì:
30
Họ không có tiền. Làng họ ở xa xôi. Họ không biết
tiếng Việt hoặc biết rất ít.
Đó là những lý do mà người dân tộc rất ngại không
dám đến bệnh viện hay phòng mạch của bác sĩ tư.
Có một điều thật đáng thương cho người dân tộc
nhưng cũng thật đáng trách đối với những người Kinh, ấy là
có những người Kinh bán hàng, bán thuốc trị bệnh quá thời
hạn sử dụng cho người dân tộc. Khi người dân tộc bị bệnh
họ đã đến đó để mua thuốc về uống, chẳng những bệnh
không hết, trái lại còn bị nặng hơn. Vì vậy nên người dân
tộc rất ngại và thiếu niềm tin ở nơi người Kinh.
Nhưng thật may mắn là bây giờ ở trong một số làng
của người dân tộc có những y sĩ cũng là người dân tộc.
Nên mỗi khi bị bệnh, họ thường tìm đến các y sĩ trong làng,
hay là những y, bác sĩ tình nguyện của giáo phận Kontum ở
trong Ban Caritas chẳng hạn. Tại những nơi này họ được
đón nhận, được chăm sóc và được chữa trị trong tinh thần
bác ái. Các nữ tu trong giáo phận đã làm việc này rất tốt.
31
Người dân tộc không được tiếp xúc nhiều với những
phương tiện truyền thông như người Kinh, nhất là họ không
biết đọc chữ Việt là bao nhiêu. Vậy nên họ không thể theo
dõi để biết được những thông tin quan trọng về bệnh tật, về
những điều cần thiết khác liên quan đến đời sống, đến sức
khỏe của con cái họ. Đó là một sự thiệt thòi rất lớn cho
người dân tộc trong việc nuôi con của mình theo phương
pháp hiện đại ngày nay.
Những điều tốt đẹp từ các nhà trẻ mồ côi mang tên Vinh
Sơn ở Kontum.
Giáo phận Kontum chúng tôi có đến 6 nhà mồ côi có
tên gọi là Vinh Sơn 1, Vinh Sơn 2, Vinh Sơn 3, Vinh Sơn 4,
Vinh Sơn 5, Vinh Sơn 6. Tất cả 6 nhà mồ côi này đều nằm
trong Thành phố Kontum, do các Yă (nữ tu Dòng Ảnh Phép
lạ, Dòng nữ tu người dân tộc) phụ trách.
Giáo dân người dân tộc thuộc tỉnh Kontum là
135.000 người, trong khi giáo dân người Kinh chỉ có 30.000
người mà thôi. Các huyện như huyện Đak Glei, Ngọc Hồi,
Tu Mơrông, Đak Hà thuộc các vùng xa. Ở những nơi xa xôi
32
này các làng đa số là nghèo. Về vật chất như cơm ăn áo
mặc cũng đã khó khăn thiếu thốn, rồi khi sinh con, chăm sóc
con, đến khi nó đau yếu bệnh tật, thì người dân tộc nghèo
không biết phải làm sao để chữa bệnh cho con. Đó chính là
nỗi lo lắng vô cùng to lớn của các người làm cha mẹ.
Các Yă trong giáo phận Kontum cũng hiểu được điều
đó, nên cố gắng giúp đỡ cho các gia đình dân tộc nghèo.
Khi những cha mẹ người dân tộc, nhất là những cha mẹ
người dân tộc Công giáo thấy đứa con của mình khó nuôi,
mà có nuôi thì cũng không thể cho con cái của mình đi học.
Họ thường nhờ cậy, gởi gắm con mình vào ở trong các nhà
Vinh Sơn để được các Yă chăm sóc. Các nhà Vinh Sơn đều
ở gần bệnh viện, lại có nhiều trạm xá, có các Yă làm việc ở
trong đó nữa. Những khi có em nào ho, ỉa chảy, cảm sốt...
thì các Yă lo cho nó uống thuốc. Một khi con của họ được
các Yă nhà Vinh Sơn chăm sóc kỹ lưỡng thì các em sống
mạnh khỏe, ít bị bệnh
Cô nhi viện Vinh Sơn 5
33
Cô nhi viện Vinh Sơn 6
Về vấn đề học hành của các em cũng thế; các nữ tu
trông coi các nhà Vinh Sơn đã tận tình trong việc chăm sóc
việc học hành cho các trẻ em người dân tộc. Các Nhà Vinh
Sơn ở Kontum cũng giống như một nhà trẻ. Nơi đó, các nữ
tu nuôi trẻ từ nhỏ cho tới lớn, đồng thời các em cũng được
một số nhà hảo tâm giúp đỡ về thực phẩm, ăn uống hằng
ngày, về áo quần cho các em được ấm áp trong mùa đông,
nhất là về hệ thống nước lọc, nước uống được bảo đảm vệ
sinh sạch sẽ.
Vì các em trong các nhà Vinh Sơn ngay từ lúc nhỏ
đã được chăm sóc tốt về sức khỏe, được ăn uống tương
đối đầy đủ, nên các em khỏe mạnh, ít đau yếu. Như thế
cũng bớt đi phần lớn gánh nặng cho xã hội. Khi khôn lớn
các em lại trở về làng, lập gia đình và phục vụ lại cho những
người khác.
34
III. Dạy con
- Đối với người Kinh:
Khi những đứa con lớn lên, tùy theo độ tuổi, cha mẹ
người Kinh lo tìm nhà trẻ nào tốt hoặc tìm trường mẫu giáo
"ngon lành" cho con mình vào học. Ở thành phố Pleiku có
trường mẫu giáo nổi tiếng của các sơ dòng Con Đức Mẹ Vô
Nhiễm, nhưng khó gởi con vào học trường này lắm vì số trẻ
em được nhận vào có giới hạn trong khoảng bao nhiêu đó
mà thôi, quá con số đưa ra là không được.
Vậy nên những con em được vào học trong những
trường đó, thường là con nhà giàu có, hoặc là con em của
các cán bộ. Những người này tìm mọi cách để gởi con mình
vào trường mẫu giáo nói trên, vì ở trong đó các em được
chăm sóc về nhiều mặt như: về sức khỏe, về cách nói năng,
về cách cư xử, cũng như về vấn đề ăn uống là phải đầy đủ
các chất dinh dưỡng cho các em... Mọi thứ đều được tính
toán từng ly từng tí để giúp cho các em phát triển.
Trong khi đó thì người dân tộc hầu như không có
được sự may mắn này như người Kinh. Dễ dầu gì được lọt
vào các trường có "tầm cỡ" như vậy kia chứ !
Với người Kinh thì "thương cho roi cho vọt", mỗi lần
con cái làm điều gì cho cha mẹ giận là coi như đứa con bị
cha mẹ đánh mắng om xòm. Người Kinh dạy dỗ con cái có
kỷ luật từ lúc con còn nhỏ.
- Đối với người dân tộc:
Người dân tộc không bao giờ đánh con, cũng không
bao giờ mắng nhiếc con cái. Đây là điều rất dễ thương của
những cha mẹ người dân tộc. Nhưng có một cái sai nơi
người dân tộc là hễ con cái đòi cái gì thì cũng chiều theo ý
nó. Trẻ muốn mua cái gì thì cha mẹ phải mua cho nó, nếu
không có sẵn tiền để mua thì lấy gạo đem đổi.
35
Người dân tộc quan niệm về việc sinh con, nuôi con
và dạy con như thế nào? Điều đơn giản nhất đối với họ là
hễ có thai là đẻ, đẻ ra thì nuôi, nuôi sống đầy đủ hay không
thì tính sau. Nhưng đối với họ thì dạy con là công việc khó
khăn nhất. Tôi có nuôi và lo cho một em người dân tộc
được ở trong nhà tôi từ lúc nó mới học lớp 6 cho tới khi em
đó thi đậu tú tài (tốt nghiệp cấp 3). Sau đó em tiếp tục đi học
cao hơn và trở thành Y Sĩ Đông Y, rồi em kiên trì học nữa
và trở thành Y Sĩ Tây Y. Sau đó em về làng mình để phục
vụ những người trong làng và các làng chung quanh làng
của em.
Em rất giỏi, rất có tình thương yêu đồng bào dân
tộc của mình. Có một điều đáng khâm phục ở nơi em, ấy là
em còn phụ trách về y tế lưu động nữa. Người dân tộc
không chịu đi khám bệnh nơi bệnh viện hay trạm xá vì làng
của họ ở xa, thế nên nếu muốn tốt cho họ, muốn chữa bệnh
cho họ thì em phải tới nhà của họ. Em còn phải phụ trách
nhà trẻ ở trong làng của mình.
Các em xem lễ sốt sắng
36
Thế là cha của em trong làng tổ chức một cái lễ gọi
là Lễ Báo Hiếu. Tôi được mời tới dự buổi lễ đó, trong buổi
lễ người ta mặc cho tôi cái áo của người dân tộc và còn
tặng cho tôi một cái “băn” (khăn choàng) của người dân tộc
nữa.
Cha của em nói với tôi trước mặt dân làng:
- Người dân tộc chúng tôi sinh con dễ hơn nuôi con,
nuôi con dễ hơn dạy con. Vợ chồng tôi sinh con, mà người
nuôi dạy con tôi là cha Đông. Đối với người dân tộc chúng
tôi thì dạy con là điều khó khăn nhất, mà cha Đông đã nuôi
và dạy con tôi thành người nên bây giờ nó là con của cha
Đông.
Vậy nên:
Điều khó khăn nhất đối với người dân tộc là việc dạy
dỗ con cái.
Trở ngại lớn nhất cho các học sinh người dân tộc là
vấn đề về sách giáo khoa: Các sách giáo khoa toàn là bằng
chữ Việt, thầy cô dạy học giảng bài toàn là bằng tiếng Việt.
Chúng tôi mở được một số nhà giữ trẻ trong các làng.
Điều thuận lợi trong các nhà trẻ của chúng tôi (như đã đề
cập ở trên) là các cô giữ trẻ người dân tộc dạy trẻ em người
dân tộc. Trong khi đó các cô dạy trẻ người Kinh dù có bằng
cấp sư phạm, có rành tâm lý gì đi nữa thì khi nuôi dạy trẻ
em người dân tộc, cao lắm chỉ một tháng mà thôi, sau đó
các nhà trẻ vắng ngắt. Bởi vì các trẻ em người dân tộc
không tới nhà trẻ nữa mà ở nhà hết trơn, có nói cách gì hay
có năn nỉ cách mấy nó cũng không chịu đi.
Các em người dân tộc nào may mắn được nuôi dạy
trong các nhà giữ trẻ tại làng, do tôi hay do các linh mục,
các nữ tu mở ra thì chỉ chừng 2 hoặc 3 năm là các em sẽ
biết ít nhiều tiếng Kinh, biết kỷ luật của nhà trường... nên dễ
dàng khi vào lớp 1. Điều đáng mừng và đáng khích lệ cho
các nhà trẻ của chúng tôi là các cô giáo dạy lớp 1 rất thích
37
nhận các trẻ em người dân tộc đã ở trong nhà trẻ của
chúng tôi.
III. Về việc học hành.
- Đối với người Kinh:
Khi các con của người Kinh đến độ tuổi đi học thì
cha mẹ lo tìm trường mẫu giáo nào tốt để gởi con mình vào
đó. Rồi khi con đến tuổi vô lớp 1 thì cha mẹ lo sắm sửa đủ
mọi thứ như áo quần, cặp xách, sách giáo khoa, tập vở, đồ
dùng học tập... Nói chung là không thiếu một thứ gì. Nhà
nào giàu thì mua cho con đồ thật tốt, nhà nào thiếu hụt thì
cũng ráng đi vay nơi này, đi mượn nơi khác để mua sắm
cho con mình. Họ không để cho con cái của mình bị thua
kém ai.
Điều dễ dàng và thuận tiện cho các em người Kinh
khi đi học là các em học sách giáo khoa bằng tiếng Việt,
thầy cô giáo cũng là người Việt. Ngoài giờ học ở trường ra
các em còn được đi học thêm, khi về nhà thì cha mẹ kiểm
tra bài vở của con mình, vì cha mẹ người Kinh hầu như ai
cũng có trình độ văn hóa khá. Đó chính là những điều kiện
thuận tiện và rất có lợi cho các em học sinh người Kinh.
- Đối với người dân tộc:
Người dân tộc có nhiều sắc tộc với những tiếng nói
khác nhau, trong khi đó sách giáo khoa vẫn hoàn toàn là
tiếng Việt, thầy cô giáo cũng là người Việt. Nếu không
chuẩn bị một chút ít vốn liếng tiếng Việt cho các em dân tộc,
thì các em rất lúng túng khi vào lớp 1. Nhưng được một
điều là các em học tiếng Kinh rất nhanh, nhất là những em
đã từng được ở trong các nhà trẻ. Tuy nhiên theo sự suy
nghĩ của tôi thì các trẻ em người dân tộc vẫn chịu nhiều
thiệt thòi trong việc học hành, vì tiếng Việt đối với người dân
tộc không phải là tiếng mẹ đẻ.
Thêm một điều này nữa: Cha mẹ của các em hầu
hết không biết chữ nên không thể nào kiểm tra bài vở cho
38
con cái, hoặc là giúp cho con cái trong việc học hành. Với
lại người dân tộc vốn đã nghèo nên không có tiền cho con
mình đi học thêm.
Với ba cái không:
Không biết chữ. Không biết đọc. Không biết viết.
Là những yếu tố tạo nên sự thiệt thòi cho các em.
Tôi được người ta kể cho nghe một chuyện như thế
này: Trong một buổi lễ rửa tội cho những người dân tộc ở
một làng nọ, có rất nhiều người cầm bảng tên của mình đưa
lên cao để linh mục kêu tên mình lên mà làm phép rửa tội.
Nhưng vì không biết chữ nên họ cầm bảng tên của mình lộn
ngược, lộn xuôi, ngang, dọc, làm vị linh mục đó phải xoay
tấm bảng sao cho đúng vị thế mới đọc được tên của họ.
Thật là tội nghiệp, đáng thương cho người dân tộc vì họ
không biết chữ nên không biết phải cầm bảng tên của mình
sao cho đúng.
Như thế chúng ta thấy rằng con cái của người dân
tộc chịu nhiều thiệt thòi khi đi học. Các em học cấp 1 mà đạt
được trung bình thì cũng đáng mừng lắm rồi. Bây giờ thì
Nhà Nước cũng đã có mở trường cho các em người dân
39
tộc. Chỉ mong sao các cô giáo, thầy giáo có được một tấm
lòng biết tận tình thương yêu các em, lo cho các em, chứ
cứ đua nhau chạy theo thành tích, thì đôi khi các em được
lên lớp nhưng trình độ học vấn, sổ điểm của các em không
ngang tầm với sức học thực sự. Cho nên có em lên tới lớp
5 là không học được nữa vì bị mất căn bản. Có những em
dù có bằng tiểu học (còn gọi là bằng tốt nghiệp cấp 1),
nhưng khi viết một câu văn cũng không viết được vì không
rành chữ Việt, đọc tiếng Việt cũng không xong.
Về phía Giáo hội thì rất nhiều lần tôi cũng đã xin các
linh mục, các tu sĩ nam nữ ở các nơi, nếu có điều kiện, và
có thể được hãy giúp đỡ cho các em học sinh dân tộc, tạo
điều kiện cho các em có cơ hội học thêm các môn học, nhất
là môn tiếng Việt, vào buổi sáng hay buổi chiều gì đó tùy
theo thời khóa biểu của trường, lớp em đang theo học, rồi
cho các em được một bữa ăn no tại nhà của các nữ tu mà
em đang được học thêm, do các sơ phụ trách.
Các em nhỏ tại nhà nội trú làng phong Dakkia, Kontum
40
Lớp dạy hè cho các em học sinh dân tộc
Có nhiều nơi các linh mục, các nữ tu đã sốt sắng đáp
ứng lời kêu xin tha thiết của tôi, nên họ đã tổ chức những
nhà nội trú để các em được ở lại.
41
Đáng buồn và đáng tiếc là có những nơi lại gặp khó
khăn, vì người ta làm khó không cho các em được ở trong
nhà nội trú do các sơ hay các linh mục tổ chức. Tôi không
biết lý do làm sao?
Mục đích của Hội Thánh là chỉ muốn làm cho con
người được thăng tiến mà thôi, một khi muốn con người
thăng tiến thì nhất định phải tạo cho các con em người dân
tộc có nhiều cơ hội và điều kiện để các em được học hành
tới nơi tới chốn. Đừng vì bệnh thành tích, cũng đừng vì e
ngại sợ ảnh hưởng đến chỗ này chỗ nọ, rồi vô tình dẫn đến
vô tâm, làm cản trở công việc tốt đẹp của các linh mục, các
nữ tu đầy thiện chí lo cho các em người dân tộc.
Tôi rất buồn vì điều này, nhưng nói thì biết nói với ai
bây giờ? Thôi thì có buồn, có thương các em người dân tộc
thì cũng đành chịu vậy, nếu làm được điều gì tốt cho các
em thì tôi làm.
Mỗi năm vào dịp nghỉ hè tôi thường vận động
những sinh viên Công giáo tình nguyện đi tới giúp ở các
làng dân tộc. Mục đích là để tập trung các em lại, dạy cho
các em tập nghe và tập nói tiếng Việt, giúp các em chuẩn bị
bài vở cho năm học tới. Những sinh viên Công giáo tình
nguyện này còn đi vận động các nơi để xin sách giáo khoa
cho các em. Đây là việc làm đầy tính nhân văn, một việc
làm tốt đẹp, đem đến cho các em người dân tộc những lợi
ích thiết thực.
Có những nơi chính quyền địa phương vui vẻ, nhiệt
tình hưởng ứng và đón nhận. Nhưng thật đáng buồn và
đáng ngạc nhiên khi có những nơi khác thì người ta lại làm
khó, đòi hỏi phải có các thứ giấy phép này nọ của Nhà
Nước thì mới cho phép hoạt động. Vậy thì... các sinh viên
tình nguyện muốn làm công tác tốt cho các em dân tộc đành
cuốn gói ra đi, ai về nhà nấy mà trong lòng thì rất buồn,
ngậm ngùi xót xa, vì không thể thực hiện được lòng mong
ước của mình!
42
Cha
Đông (ngồi giữa) với các đệ tử của ngài
Đôi lời tâm sự
Cũng như các em sinh viên Công giáo tình nguyện, tôi
cũng rất buồn về điều này. Thật sự thì người dân tộc chịu
rất nhiều thiệt thòi về việc dạy dỗ con cái, còn các em dân
tộc thì chịu thiệt thòi trong việc học hành.
Tôi là một linh mục cao tuổi rồi, nhưng tôi vẫn nhận
nhiệm vụ phụ trách về ban Bác ái xã hội của Caritas
Kontum. Cuộc đời linh mục của tôi gắn bó với những người
dân tộc, nhất là những người dân tộc nghèo, những người
bị bệnh phung cùi và các thứ bệnh khác. Sự gắn bó đó làm
cho tôi đau với nỗi đau của họ, hầu như không lúc nào mà
tôi không nghĩ tới họ.
Tôi cũng là linh mục Tổng Đại Diện Giáo Phận
Kontum, tôi thường hay kêu gọi các anh em linh mục của
mình, các tu sĩ nam nữ ở những nơi khác, hoặc là nơi mình
đang sinh hoạt và phục vụ, vì ở những nơi đó có thể cũng
gặp phải nhiều khó khăn về các vấn đề như:
- Thứ nhất là khó khăn về tiền bạc: Nếu một khi gặp sự
thiếu thốn về tiền bạc, nhưng vì tạo điều kiện học hành cho
43
các em, thì chúng ta cần vận động những người có thành
tâm thiện chí giúp đỡ để lo cho các em.
- Thứ hai là khó khăn về phía chính quyền:
Đây là điều nhức nhối hết sức. Các vị có chức quyền ở
trong xã, trong thôn thường tạo ra những khó khăn để làm
cản trở công việc Bác Ái Xã Hội. Tôi thật sự ngạc nhiên hết
sức khi có người nói với tôi là: nếu tôi muốn làm công
việc từ thiện thì phải làm đơn xin phép. Thật quá mỉa
mai! Tôi vừa buồn cười lẫn tức cười, khi thấy người ta đói
gần chết, muốn cho người ta chén cơm ăn để cứu đói mà
phải làm đơn xin phép trình lên các cấp..sao? Một chính
quyền thương dân và lo cho dân, thì phải biết khuyến khích
những người làm việc tốt cho dân của mình, chứ sao lại bắt
phải xin phép ?
Nhưng vì tình thương đối với người dân tộc nên tôi luôn xin
các linh mục, các tu sĩ nam nữ hãy cố gắng hết sức để làm
cho người ta hiểu rằng: công việc của mình làm là phục
vụ cho cộng đồng, cho con người mà thôi. Cho nên nếu
có gặp khó khăn thì xin đừng nản lòng chùng bước.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã bảo chúng ta rằng:
"Hãy mở cửa ra, hãy lên đường, hãy làm việc tốt.
Đừng sợ !”
Vậy chúng ta hãy can đảm làm việc tốt. Nếu vì làm
việc tốt mà chúng ta gặp phải những khó khăn, những trở
ngại thì chúng ta hãy cố gắng vượt qua. Gíá trị của đời
người không phải là cái quyền hành mình nắm trong tay, mà
chính là tấm lòng yêu thương, phục vụ của mình đối với
những người nghèo khổ, những trẻ em dân tộc chịu lắm
thiệt thòi.
Thiên Chúa đã dạy chúng ta phải biết yêu thương
trẻ em và bênh vực những con người nghèo khó. Một khi đã
yêu thương thì phải phục vụ họ. “ Phục vụ là cho không,
phục vụ là quên mình, phục vụ không đòi đền đáp, phục vụ
44
ân nghĩa không chờ. Phục vụ là cho không, phục vụ là quên
mình, phục vụ là cho không, phục vụ vì Chúa Kitô” (Bài ca
phục vụ - Lm Mi Trầm)
Rất mong là tất cả chúng ta hãy nghe lời Chúa dạy,
Ngài luôn luôn thiết tha kêu mời, nhắc nhở chúng ta rằng:
" Hãy thương yêu người nghèo khổ và hãy giúp
đỡ họ, vì đó là kho tàng hạnh phúc của chúng ta trên
Nước Trời."
Lạy Chúa là Đấng từ bi nhân hậu. Ngài rất
thương yêu người nghèo khổ bệnh tật. Ngài luôn dạy
chúng con phải biết yêu thương giúp đỡ người nghèo
khó. Xin cho chúng con luôn một lòng vâng theo ý
Chúa, vui sống để phục vụ những người nghèo khổ, noi
theo gương sáng của mẹ Têrêxa Calcutta.
CHƯƠNG BA
THÀNH QUẢ LÀ SỰ ĐƠM HOA KẾT TRÁI.
45
Theo sự suy nghĩ của tôi thì khi chúng ta làm bất cứ
công việc gì cũng đều mong cho công việc đó được thành
công tốt đẹp. Ví dụ như khi ta trồng một vườn hoa, một
vườn cây ăn trái, hay xây căn nhà, vẽ những bức tranh
v.v... Chúng ta đều mong rằng vườn hoa sẽ cho ta những
đóa hoa thắm tươi, thơm ngát, vườn cây ăn trái sẽ kết
những hoa trái thật ngon ngọt, căn nhà sẽ vững chắc,
những bức tranh thật sống động...
Trong công việc giáo dục cũng thế, khi chúng ta làm
công việc nuôi dạy trẻ có nghĩa là chúng ta đang trồng
người. Trồng người rất khó, nó không đơn giản, dễ dàng
như khi ta trồng cây, vì con người có tâm hồn, biết tư duy,
là một nhân vị, một bản thể riêng biệt, không ai giống ai.
Khi ta làm công việc nuôi dạy các trẻ em người Kinh
hay người dân tộc, chúng ta cũng mong đạt kết quả tốt đẹp
là được nhìn thấy các em nên người, sống có ích cho xã
hội. Đề cập đến tính cách của các trẻ em người dân tộc, từ
lâu tôi đã nhận ra được một điều là các em có khá nhiều ưu
điểm. Đối với tôi những ưu điểm này được xem như là
những thành quả của sự đơm hoa kết trái từ những giá trị
tinh thần truyền thống.
I. Giá trị nền văn hóa truyền thống của người dân tộc
Riêng về phía người dân tộc, thì kết quả hoa trái đạt
được của việc giáo dục không phải có được từ nhà trường,
nhưng là do những nét văn hóa truyền thống rất đặc biệt mà
người dân tộc đã có từ lâu đời. Một lần tôi và một số người
Kinh ở Sài gòn đến thăm một làng dân tộc nọ, các em dân
tộc đang đi ngoài đường vừa thấy chúng tôi vào làng liền
đưa tay lên vẫy chào, vui vẻ cười tươi như hoa. Có những
em đang ở trong nhà nhưng khi nhìn thấy chúng tôi, các em
cũng vội vàng chạy ra khoanh tay cúi đầu chào rất lễ phép.
Những người từ Sài gòn lên trố mắt nhìn tôi đầy ngạc nhiên.
Họ trầm trồ khen ngợi sự niềm nở, vui vẻ dễ thương và rất
lễ phép của các em.
46
Họ nói với tôi:
- Điều này cha tìm cho ra ở Sài gòn thì chắc chắn là khó
lắm, ngay cả ở trong các xứ đạo cũng rất hiếm.
Tôi cũng có nhận xét như họ. Ngay các xứ đạo của
người Kinh ở tại Pleiku cũng đã khó tìm thấy những nụ cười
vui vẻ, đầy thành ý nhiệt tình khi chào khách, như cung
cách của người dân tộc.
Với những đức tính có sẵn của người dân tộc như: lễ
phép, vui vẻ, nhiệt tình, ngay thẳng, thật thà... thì đó chính
là giá trị của nền văn hóa truyền thống mà người dân tộc
được thừa hưởng từ xa xưa, đời nọ nối tiếp đời kia. Những
đức tính này được xem như là một qui luật tất yếu của họ.
II. Phải biết nhìn nhận và tôn trọng giá trị tinh thần
của người dân tộc.
Chúng ta cho rằng người dân tộc ngu dốt, không văn
minh nên đã xem thường họ, thậm chí có những người còn
khinh miệt họ nữa. Chúng ta không chịu nhìn nhận những
ưu điểm của người dân tộc: Đó là tấm lòng của họ đối với
nhau, đối với khách, là tính tình chân thật, đơn sơ hòa nhã.
Những đức tính này của họ rất đáng quí và đáng cho chúng
ta trân trọng. Họ hơn hẳn chúng ta về điều đó.
47
Đây chính là những hoa trái mà người dân tộc có
được từ nền văn hóa truyền thống và từ tấm lòng của họ
nữa.
Như tôi vừa tâm sự ở trên, cuộc đời linh mục của tôi từ
lâu đã có sự gắn bó mật thiết với người dân tộc, nhất là
những người dân tộc nghèo mà còn bị bệnh nữa. Tôi chạnh
lòng xót xa khi nhìn thấy sự đau đớn tuyệt vọng trong đôi
mắt của những người bị vướng vào bệnh phong cùi. Tôi suy
nghĩ và tự hỏi rằng: Sự gắn bó này phải chăng là cơ duyên
của tôi? Có phải chính vì sự gắn bó từ mối cơ duyên này
mà tôi luôn thao thức trăn trở, luôn tìm đủ mọi cách để giúp
đỡ cho người dân tộc, và phải chăng đây là "mối duyên
tình" của chúng tôi?
48
Tôi tin rằng chính Thiên Chúa đã tạo nên mối duyên tình
này cho chúng tôi, cũng như Ngài đã tạo nên mối cơ duyên
cho các vị Thừa sai thuở trước.
III. Các trẻ em dân tộc và những việc chúng tôi làm.
Tôi rất ưu tư khi thấy các trẻ em dân tộc chịu nhiều thiệt
thòi, tôi hết sức xót xa khi thấy cuộc sống của các em bị
thiếu thốn đủ mọi thứ. Và tôi luôn tâm niệm rằng: chúng ta
cần phải làm điều gì đó để có thể đem lại cho các em người
dân tộc những lợi ích dù thật nhỏ nhoi, nhất là làm vơi bớt
những thiệt thòi mà các em đang phải gánh chịu. Điều đáng
thương là các em không ý thức về những điều thiệt thòi đó.
Với những lo lắng và nỗi ưu tư luôn canh cánh trong
lòng, tôi băn khoăn tự hỏi "chúng ta cần phải làm gì cho trẻ
em người dân tộc?" Và đây là những công việc mà chúng
tôi đã làm để trả lời cho câu hỏi của chính tôi:
1. Mở các khóa học bổ túc văn hóa.
Tôi thường mở các khóa học bổ túc văn hóa cho các
em dân tộc, nhất là trong những tháng hè, các em sẽ tập
49
trung tới nhà sinh hoạt của giáo xứ tôi. Tại đây các em
được:
Lớp học hè tại GX Kon Duh, Kontum
- Chuẩn bị về việc học hành trong năm học tiếp theo.
- Học thêm về giáo lý, đạo lý làm người theo cách nhìn
của Tin Mừng. Có một số các em người Kinh cũng
theo học với các em dân tộc.
- Các em được học về các nhân vật trong Cựu Ước
như học biết về ông Abraham, ông Moisen, Vua
Đavit…
Có sự khác biệt nhau giữa các em người dân tộc và
các em người Kinh sau mỗi lần làm bài kiểm tra:
Với các em người dân tộc, khi làm bài các em có những
tâm tình sâu lắng, có sự suy nghĩ sâu sắc, bài viết của các
em hơn hẳn bài làm của những em người Kinh cùng một độ
tuổi. Nhất là khi các em phát biểu cảm tưởng của mình
trong thời gian 1, 2 tháng ở trong nhà tôi, các em viết về
50
những người phục vụ cho các em, lời và ý của em diễn tả
rất hay, đầy tình cảm thật dễ thương, làm cho người đọc rất
xúc động. Trong khi những em người Kinh viết thì không
hay bằng.
Vậy kết quả của sự "đơm hoa kết trái" mà các em
người dân tộc có được là từ đâu? và do đâu? Câu trả lời là:
Ngay chính ở nơi người dân tộc đã có truyền thống tốt
đẹp như thế rồi.
Do được các Linh mục, các nữ tu dạy cho các em
những vấn đề liên quan đến nền giáo dục Kitô giáo, về nhân
văn, đạo nghĩa làm người... Các em người dân tộc tiếp thu
nhanh những điều được học qua sự dạy dỗ của các linh
mục, các nữ tu và xem những điều học được như là một
"cái gì đó" vô giá, rất cần được gìn giữ. Còn các em người
Kinh thì không như vậy.
2. Tổ chức các khóa sinh hoạt tập thể:
Mỗi khi có tổ chức sinh hoạt tập thể, ngoài những trò
chơi ra, thường thì bao giờ cũng hát lại những bài hát cũ,
rồi sau đó sẽ tập những bài hát mới. Người dân tộc có tính
cộng đồng, nên đối với các em người dân tộc khi sinh hoạt
tập thể, các em thích tập bài hát mới và thuộc rất nhanh.
Cũng như khi tập những điệu múa gọi là dân vũ, các em tập
cũng nhanh. Cho các em dân tộc một cái dĩa VCD tập về
dân vũ có hình ảnh, các em đem về làng của mình, nếu có
máy thì sẽ mở máy ra và thế là các em trong làng cùng
xem, cùng hát và cùng nhảy múa với nhau. Trong khi đó
các em người Kinh, nếu có cho nó thì nó cũng đem về nhà
nhưng rồi liệng (ném) ở đâu đó, dù cái đĩa đó hát bằng tiếng
Việt. Nói đâu cho xa, ngay cả chính tôi cũng không thuộc
một câu nào, còn các em dân tộc hát hết bài này tới bài
khác, làm cho tôi khi nghe cũng cảm thấy rất vui cái lỗ tai.
Thật tình mà nói, mỗi khi tôi mở các khóa sinh hoạt như
thế này cũng tốn rất nhiều tiền, nhưng tôi lại cảm thấy bằng
51
lòng với những gì mình đã bỏ ra để lo cho các em. Làm cho
các em nhỏ vui là niềm hạnh phúc của tôi. Vì đó là những
hoa trái, là những kết quả có được từ một truyền thống lâu
đời, và từ cách giáo dục theo tinh thần của Tin Mừng mà
các linh mục, các nữ tu đã dày công dạy dỗ và lo lắng cho
các em. Chính những yếu tố tốt đẹp đó đã làm nên tính
cách đặc biệt, dễ thương nơi những người dân tộc.
Tôi luôn thiết tha mong muốn các linh mục, các sơ hãy
tiếp tục lo cho các em về vấn đề này.
Người dân tộc có những điều kiện để phát triển tinh
thần, đời sống cộng đồng tốt hơn người Kinh. Chẳng hạn
như sinh hoạt cồng chiêng: muốn tham gia bao nhiêu người
cũng được, từ 30 đến 40 người cũng tốt. Ai có cồng chiêng
cứ việc đem ra cùng nhau đánh, cùng nhau nhảy, cùng
nhau ca hát, vui vẻ cả làng.
Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã được Unesco
công nhận là: Di sản văn hóa phi vật thể.
N
goài những ưu điểm nói trên của người dân tộc, thì cũng
không làm sao tránh khỏi những điều đáng buồn và đáng
tiếc. Xã hội ngày càng thay đổi, đời sống của con người
52
ngày càng đổi thay, và vì thế nên người dân tộc cũng không
thoát ra khỏi qui luật của sự đổi thay đó.
Ngày xưa các làng dân tộc thường hay đem quân đi
đánh nhau, dân làng này đánh với dân làng nọ. Thời nay thì
họ không có đánh nhau nữa, thế nhưng những người ở
trong làng với nhau thì họ lại cãi cọ rồi đánh lộn nhau.
Nguyên nhân nhiều nhất là từ việc uống rượu bia, uống
rượu nhiều làm cho họ dễ nổi nóng rồi sinh sự gây gổ với
nhau vì những chuyện không đâu, mà đánh nhau vì gái cũng
có.
Ngày xưa người dân tộc chỉ uống rượu ghè do họ làm ra,
loại rượu này rất nhẹ. Nhưng từ khi người Kinh đưa nhau lên
Tây Nguyên sống gần với người dân tộc, mở quán xá buôn
bán "lung tung xèng", đủ các thứ thượng vàng hạ cám... trong
đó nhiều nhất là rượu bia, đồ nhậu. Bây giờ thì người dân tộc
bắt chước người Kinh uống các thứ rượu mạnh, như là rượu
đế chẳng hạn. Rượu càng mạnh thì người uống càng dễ bị
say xỉn, mà đã say xỉn thì mất hết lý trí. Hễ ra đường là quậy
làng phá xóm, mà về nhà thì đánh đập vợ con. Đó là một tệ
nạn hết sức nhức nhối không phải chỉ cho gia đình và xã hội
mà thôi đâu, mà nó còn ảnh hưởng không tốt đối với Giáo hội.
Các linh mục và các tu sĩ nam nữ đã cố gắng hết sức để vận
động làm sao cho người dân tộc bỏ bớt rượu, nhưng sự cố
gắng này kết quả xem ra chẳng được là bao nhiêu, bởi vì "ở
bầu thì tròn, ở ống thì dài". Lời khuyên bảo của các linh mục,
của các tu sĩ nam nữ không hấp dẫn, không lôi cuốn bằng lời
mời gọi của rượu bia!
VI. Kết luận từ những thành quả có được.
Tôi là linh mục, đã sống đời sống linh mục được 43 năm
rồi. Tôi nhận thấy, những hoa trái mà ta cho rằng có được từ
kết quả của việc giáo dục trong gia đình, hay trong học đường
của người Kinh và người dân tộc có sự khác biệt nhau:
 Với người dân tộc:
53
Những kết quả hoa trái thu hái được từ sự giáo dục nơi
người dân tộc có nhiều hơn. Mặc dù họ không có bằng cấp,
không có những điều kiện để đời sống của họ được văn minh,
nhưng người dân tộc có một tấm lòng biết chia sẻ, cùng với
những tình cảm chân thật và đầy tính nhân văn. Trong những
lần tổ chức các buổi lễ sinh hoạt cộng đồng thì những buổi lễ
của người dân tộc có phần nghiêm trang, đạo đức, trật tự
hơn, và nhất là họ chịu khó im lặng để lắng nghe.
 Với người Kinh:
Không phải là tôi kỳ thị, vì tôi cũng là người Kinh mà. Tôi
cũng không thiên vị người dân tộc mà có thành kiến với người
Kinh đâu. Tôi chỉ công bằng khi đưa ra những nhận xét có tính
khách quan mà thôi. Theo tôi nhận thấy nếp sống của người
Kinh có nhiều điều kiện tiếp cận nền văn minh kỹ thuật, nên
đời sống của họ được nâng cao với những tiện nghi vật chất
đầy đủ. Thường thì phần đông người Kinh có trình độ học vấn
khá, có những người có bằng cấp cao, có người mà địa vị
trong xã hội thì "hét ra lửa". Thế nhưng đáng tiếc là người
Kinh thiếu tính cộng đồng trong sinh hoạt, ít có sự đoàn kết. Ai
cũng muốn làm quan để ra lệnh cho người khác.
Tóm lại thì đây cũng là nhận xét của rất nhiều người đã
từng sống lâu năm với người dân tộc trên vùng đất Tây
Nguyên này.
Mong sao những người Kinh cũng có được những
nét văn hóa dễ thương, tốt đẹp như của người dân tộc.
Chúng ta là những người Kinh, xin hãy mở rộng tâm hồn
để yêu thương anh em dân tộc, và hãy dang rộng đôi tay
nâng đỡ những con người kém may mắn hơn chúng ta,
nhất là những trẻ em người dân tộc đang phải chịu nhiều
thiệt thòi.
CHƯƠNG BỐN
54
NGƯỜI DÂN TỘC CÒN MANG RẤT NHIỀU BỆNH
Câu "Sinh Lão Bệnh Tử" đã có từ ngàn xưa. Con người
khi Sinh ra thì cũng không qua khỏi được chữ Gìà, chữ
Bệnh và cuối cùng là chữ Chết!
Luận về chữ Bệnh, đối với người Kinh hay người dân
tộc thì không có gì khác nhau. Thế nhưng người Kinh lại có
một câu thành ngữ với hàm ý ví von rất hay, ấy là câu: "Nhà
giàu đứt tay ăn mày đổ ruột".
Chúng ta có thể phân tích câu này với 2 ý nghĩa:
Thứ nhất - Nhà giàu chỉ mới bị bệnh nhẹ thôi mà đã
ba chân bốn cẳng vội vàng lo thuốc men chữa trị, bởi vì họ
giàu, họ có sẵn tiền. Còn nhà nghèo thì sao? vì không có
tiền chữa trị ngay, nên bệnh càng lúc càng nặng, đến khi
55
chịu hết nổi rồi lúc đó họ mới chạy vạy lo tiền để đi chữa
bệnh.
Thứ hai - Nhà giàu chỉ mới bị "đứt tay" có chút xíu mà
đã kêu la ầm ĩ, rên rỉ xuýt xoa, y như là bị đau đớn ghê lắm.
Cầm bằng như "ăn mày bị đổ ruột" vậy đó. Cái đau vì bị
đứt tay của nhà giàu bằng cái đau của người nghèo khi bị
đổ ruột!
Người Kinh khi vừa mới chớm bệnh, nhờ có nhiều
điều kiện dễ dàng nên chữa trị liền. Trong nhà của người
Kinh thường có một tủ thuốc. Trong tủ thuốc lúc nào cũng
có sẵn các thứ thuốc để trị những bệnh thông thường như:
nóng sốt, cảm, ho, tiêu chảy, đau bụng... Nhưng người dân
tộc thì không được như thế. Nên khi họ bị bệnh, lúc đầu
bệnh chỉ nhẹ thôi nếu có thuốc uống thì bệnh sẽ khỏi,
nhưng vì họ không có thuốc, cũng không có tiền mua thuốc
để uống nên bệnh lúc đầu tuy nhẹ, càng để lâu ngày bệnh
của họ càng nặng, càng khó chữa lành.
A. Nguyên nhân người dân tộc mang nhiều bệnh.
Như tôi đã nói sơ qua ở trên, sở dĩ người dân tộc
thường bị nhiều thứ bệnh, ấy là vì họ không được chữa trị
ngay từ lúc mới phát bệnh, cả người lớn và trẻ em đều như
nhau, nhất là những người già, hầu như họ không hề đi
kiểm tra sức khỏe. Về điều này ta có thể so sánh sự khác
nhau giữa người Kinh và người dân tộc.
Về phía người Kinh:
Người Kinh có nhiều điều kiện để chữa bệnh khi họ
mới vừa phát hiện mình bị bệnh, đó là:
Họ có tiền, hoặc dù thiếu tiền thì họ sẽ đi vay mượn
để có tiền chữa bệnh cho con, cho người nhà, khi họ biết
con mình hay người nhà bị bệnh. Người Kinh thường đưa
con đi khám sức khỏe định kỳ, kể cả người lớn cũng vậy.
56
Người Kinh khá chu đáo trong việc gìn giữ sức khỏe
cho con em mình. Họ theo dõi sát sao các lịch trình chích
ngừa cho trẻ em, và ghi nhớ kỹ để đến ngày thì đưa con
mình đi chích ngừa.
Người Kinh ăn uống hợp vệ sinh nên ít bị bệnh đường
ruột, ít bị sán lãi. Nếu con họ bị lãi thì họ biết cách cho con
mình uống thuốc xổ lãi.
Về phía người dân tộc:
Người dân tộc không có thói quen chăm sóc bản thân
cũng như chăm sóc sức khỏe cho mình nên họ dễ bị bệnh.
Người dân tộc không có ý niệm gì về các loại bệnh như: sốt
bại liệt, lên sởi, uốn ván, lao, siêu vi B... (những bệnh này
thường phải chích ngừa cho trẻ em) nên họ cũng không
theo dõi lịch trình chích ngừa cho con cái của họ.
Trong vấn đề ăn uống, họ cũng không biết gìn giữ vệ
sinh cho đúng. Vì vậy người dân tộc rất dễ mắc bệnh nhiễm
trùng, nhất là bị sán lãi. Nên ta thấy bụng của các em người
dân tộc rất to, tay chân khẳng khiu, da mặt xanh xao, tái
mét.
Tiền bạc là yếu tố chính. Vì không có tiền nên khi
người nhà bị bệnh, cần có tiền chữa bệnh thì họ phải bán
con bò, mà đối với người dân tộc thì con bò là cả một gia
tài. Nhiều khi phải bán luôn cả đất, nhưng muốn bán đất
nhanh thì bán cho người Kinh mới nhanh có tiền. Mà người
Kinh khi biết một người dân tộc đang cần tiền chữa bệnh
cho người nhà thì họ ép giá để mua hết sức rẻ so với giá trị
thật của lô đất đó. Điều đáng thương cho người dân tộc là
những lúc đó vì quá cần tiền nên họ đành phải bán cả lúa
non, cà phê non để có tiền chữa bệnh cho người nhà,
cho con của mình. Làm suốt năm không đủ ăn thế mà phải
bán lúa non, cà phê non thì coi như họ phải chịu đói cả
năm.
57
Điều này thật đáng thương cho người dân tộc, đây
cũng là vấn đề làm cho tôi nhức nhối cả tâm can.
B. Những việc làm của các linh mục, các tu sĩ nam
nữ để giúp đỡ người dân tộc.
Trước tình trạng đáng thương của người dân tộc như
thế, các linh mục, các tu sĩ nam nữ trong Giáo Phận Kontum
đã cố gắng rất nhiều để giúp đỡ họ. Chính nhờ quyết tâm lo
lắng giúp đỡ họ, nên mỗi khi có chương trình chích ngừa thì
các linh mục, các nữ tu vận động, hướng dẫn họ đưa con đi
chích ngừa, cho con cái được xổ lãi. Nhờ vậy mà hiện nay
tình trạng bệnh tật của con cái họ cũng bớt đi khá nhiều.
Có ba yếu tố quan trọng làm cho người dân tộc gặp
nhiều khó khăn và trở ngại khi muốn đưa người nhà đến
bệnh viện để chữa bệnh, đó là:
Yếu tố tiền bạc:
Tiền bạc là vô cùng cần thiết khi phải đến bệnh viện.
Một khi người thân bị bệnh mà trong nhà không có tiền thì
sẽ gặp nhiều khó khăn trở ngại, vì mọi thứ cần thiết đều
phải mua, từ ấm nước sôi, ly sữa, chén cháo, bông băng,
những viên thuốc v.v... đều đòi hỏi phải có tiền để mua. Nếu
có Bảo Hiểm Y Tế thì còn đỡ, nếu không thì đó là cả một
vấn đề, tốn kém rất nhiều. Thật tội nghiệp và đáng thương
cho những người dân tộc nghèo. Khó khăn nhất cho họ là
việc đầu tiên khi đến bệnh viện thì phải có tiền lót tay. Lúc
đó mới dễ dàng tiếp cận với các nhân viên của các cơ sở y
tế và được các nhân viên y tế vui vẻ đón tiếp. Đây là điều
hết sức nhức nhối. Thật đáng trách đối với những người có
chức năng trong ngành y tế và rất đáng thương cho những
người dân tộc nghèo!
Nhiều linh mục và các tu sĩ nam nữ đã vận động, kêu
gọi những nhà hảo tâm, các vị mạnh thường quân người
Kinh giúp đỡ cho các trường hợp người dân tộc phải bán
lúa non, cà phê non để có tiền đưa người nhà đi bệnh viện
58
điều trị... Có nhiều người Kinh rất tốt, họ cũng thương người
dân tộc nên khi được vận động là họ sẵn lòng chia sẻ ngay.
Tôi rất trân trọng:
Các linh mục, các tu sĩ nam nữ đã làm rất tốt công việc
này. Đây chính là tình thương, là sự phục vụ và là những
hành động đúng theo Tin Mừng của Chúa.
Những nhà hảo tâm, những vị mạnh thường
quân người Kinh đã hưởng ứng lời kêu gọi, nhiệt tình đóng
góp tiền bạc để giúp đỡ cho người dân tộc gặp khó khăn,
hoạn nạn.
Các trạm xá lưu động cũng như các trạm xá tại chỗ đã
tạo điều kiện thuận lợi, để giúp cho người dân tộc bồng con
của mình hoặc đưa người nhà của mình tới những nơi đó
chữa bệnh.
Từ trên Đak Tô, Kon H'ring cho tới Kon Jơdreh và các
nơi trong thành phố Kontum, các trạm xá nói trên đều khám
miễn phí cho các trẻ em hoặc cho các bệnh nhân người dân
tộc. Nếu người dân tộc có chút ít tiền bạc muốn trả thì các
trạm xá ấy chỉ lấy phần nào tượng trưng cho tiền thuốc
men, và lấy đúng giá của thuốc trong thời hạn còn sử dụng
được.
Lợi dụng sự không hiểu biết của người dân tộc nên
nhiều người Kinh bán cá, bán mắm bên đường lại kiêm luôn
nghề "dược sĩ" bán thuốc tây quá hạn từ năm nảo cho
người dân tộc! Nhiều khi mua về uống thì tiền mất tật
mang!
Có nhiều người bồng con tới Bệnh Viện, mặc dù họ
có Bảo Hiểm Y Tế, nhưng Bảo Hiểm chỉ cấp phát những
loại thuốc thông thường. Còn những loại đặc trị thì phải bỏ
tiền ra mua. Nếu không có tiền thì đành chịu thua, cho dù
con họ bị bệnh nặng. Lại thêm một điều nhức nhối nữa rất
tội nghiệp cho người dân tộc nghèo.
59
Chờ khám bệnh tại phòng Y tế nhà thờ Chính Tòa Kontum
Có những em bé bị bệnh tim hay bị phỏng chẳng
hạn, như trường hợp em Y Nôn ở KonPlong bị phỏng rất
nặng. Mặc dù ngành y tế địa phương rất tận tình, tận lực
chữa trị, nhưng vì em bị phỏng quá nặng nên phải đưa
xuống bệnh viện Qui Nhơn, ở đó có Trung Tâm Da Liễu
Trung Ương. Tôi có nhiều người quen làm Bác sĩ trong đó,
họ điện thoại hỏi tôi:
- Linh mục có đỡ đầu được cho em này không? Nếu
không thì trường hợp này chắc là khó rồi.
Ý họ muốn nói là ca phỏng của em quá nặng, cần có
những loại thuốc đặc trị và một chế độ dinh dưỡng đặc biệt,
phải có người chăm sóc riêng. Nhưng cha mẹ của em Y
Nôn này quá nghèo, không có một đồng xu dính túi. Không
thể đứng yên nhìn em bị chết, nên tôi đã vận động những
người hảo tâm, những đoàn thể tài trợ giúp đỡ em để bệnh
viện chữa trị bệnh phỏng cho em. Bây giờ thì em Y Nôn đã
được mạnh khỏe rồi.
60
Không được tiếp đón:
Bây giờ người nghèo dù là người Kinh hay người
dân tộc đều rất e ngại khi phải đến bệnh viện, nhất là người
dân tộc. Vì khi đưa người nhà đến bệnh viện, họ không
được ai hướng dẫn phải làm gì để nhập viện, không biết thủ
tục hành chánh cần phải có những giấy tờ gì, nếu có giấy tờ
đem theo thì cũng không biết nộp ở đâu. Người dân tộc rất
sợ sự lạnh lùng vô cảm của những người làm việc trong
bệnh viện.
Lập trường của tôi luôn đi với câu: Người ta có
thể CHO mà không THƯƠNG, mặc dù câu Lương y như
từ mẫu rất hay, nhưng cũng có câu gieo cái gì thì gặt cái
nấy. Một khi không có tiền thì biết gieo cái gì đây !
Vấn đề giao tiếp:
Hầu hết người dân tộc không biết tiếng Kinh. Nếu
người nào biết thì cũng bập bẹ chút ít mà thôi, nhất là
những người ở trong các làng xa xôi thì hầu như hoàn toàn
không biết tiếng Kinh. Như tôi đã nói trong bài trước, trong
đất nước Việt Nam có đến 54 sắc tộc nói các thứ tiếng khác
nhau, nhưng tiếng phổ thông là tiếng Kinh. Đó là ngôn ngữ
chính, tất cả mọi giao dịch hay các thứ giấy tờ, các văn bản
hành chánh...v.v... đều bằng tiếng Kinh. Đặc biệt là người
dân tộc không biết buôn bán vì họ không biết cân đo đong
đếm, mà chỉ biết đem sản phẩm do họ làm ra để trao đổi
các thứ họ cần như: mắm, muối chẳng hạn. Vì không biết
tiếng Kinh nên ngại đi chợ, ngại đến những nơi có nhiều
người Kinh, nhất là ngại phải vào bệnh viện. Các bệnh viện
bây giờ có rất ít Y, Bác sĩ là người dân tộc. Người dân tộc
chỉ biết nói tiếng mẹ đẻ của mình mà thôi. Cho nên khi
người dân tộc đem con tới bệnh viện, cha mẹ không biết
tiếng Kinh thì không thể trả lời những câu hỏi của Y, Bác sĩ.
Và như thế, nhiều khi đến bệnh viện chữa bệnh cũng chẳng
đi đến đâu, chẳng đạt được kết quả gì, dễ đưa đến tình
trạng là thầy thuốc tỏ ra khó chịu còn bệnh nhân thì tủi thân.
61
Thường thì khi nào bệnh quá nặng người dân tộc
mới chịu đến bệnh viện, riêng người già càng ngại đi bệnh
viện. Lý do họ nêu ra nghe thật tội nghiệp đáng thương, như
là: họ không có tiền, cũng không muốn phiền lụy đến con
cái, để cho con cái phải bận tâm, phải đi nuôi bệnh rồi
nương rẫy không ai làm... Vì những lý do đó mà người dân
tộc già chịu đau nằm nhà chờ chết. Thế nhưng sau đó nếu
người nhà bán được bò, lúa, cà phê non... nhất định đưa họ
đi bệnh viện thì bệnh của họ đã nặng quá rồi, khó mà cứu
chữa. Người dân tộc già mà bị bệnh thì họ đành cam chịu,
chọn lựa ở nhà chờ chết hơn là đến bệnh viện để chữa trị.
Đối với người dân tộc thì phải ở trong bệnh viện để
chữa bệnh là cả một vấn đề khó khăn, chẳng hạn như họ
không chấp nhận nổi cái mùi trong đó, họ cũng không thể đi
vệ sinh chung trong cái "phòng" đó, vì "không đi được". Nên
họ thường lén ra ngoài rồi kiếm bờ rào nào đó mà "đi" cho
thoải mái, và "đi ngoài" như thế đối với họ thật là sướng !...
Mong sao mà các linh mục cũng như các tu sĩ
nam nữ ở những vùng xa xôi tận tình giúp đỡ, lo cho
người dân tộc được tới bệnh viện chữa trị một khi họ bị
bệnh.
C. Những việc chúng tôi đã làm, đang làm và tiếp tục
làm cho người dân tộc.
Tổ chức thành lập nhóm Thiện nguyện.
Chẳng hạn như ở bệnh viện tỉnh Gia lai có Dòng nữ
tu Mến Thánh Gía Qui Nhơn. Những nữ tu này làm công
việc phục vụ từ thiện, nấu cơm miễn phí cho những người
nghèo đi nuôi bệnh. Mỗi ngày nấu chừng 200 phần cơm
như thế. Ở bệnh viện Kontum chúng tôi cũng có một nhóm
gồm nhiều anh chị em với nhiều tôn giáo khác nhau. Những
anh chị em này lo bữa cơm từ thiện cho người nghèo tại
Bệnh viện tỉnh Kontum.
62
Chúng tôi đóng góp thêm tiền bạc cho những công
việc gọi là "Bếp ăn từ thiện" này, chẳng hạn như cộng đoàn
Đồng Tâm ở gần bệnh viện tỉnh Gialai, năm 2013 đã chi ra
388 triệu tiền cơm cho người nghèo. Bệnh viện tỉnh Kontum
ít hơn, lý do là số người phục vụ ít nên số tiền chi ra chỉ
khoảng 80 triệu.
Mua xe cứu thương
Xe cứu thương Caritas Kontum
Chúng tôi đã mua một chiếc xe cứu thương để phục
vụ cho những người dân tộc nghèo ở trong các làng xa
thuộc tỉnh Gia Lai. Nhưng một chiếc xe cứu thương thì
không thể nào phục vụ cho nổi, vì ở tỉnh Kontum cũng rất
cần. Miền Tây Nguyên có rất nhiều làng dân tộc, bởi chính
đây là vùng đất của họ, mà người dân tộc nghèo thì quá
nhiều, nhiều ghê lắm. Nên chúng tôi cũng đã mua thêm một
xe cứu thương nữa để phục vụ cho những người dân tộc
nghèo trong tỉnh Kontum.
Sau 1 năm, nhờ vào sự hoạt động tích cực của chiếc
xe cứu thương, chúng tôi đã cứu sống được 36 trường hợp
63
"thập tử nhất sinh", tốn khoảng 150 triệu đồng (chỉ tính miền
Gia lai)
Một điều đáng mừng là các làng dân tộc bây giờ,
những làng nào ở gần trụ phát sóng của xã thì đều có tần
sóng của điện thoại. Người anh em dân tộc ở Gia Lai có đội
ngũ giáo phu, gọi là Kokhul. Các giáo phu có nhiệm vụ nắm
bắt những người trong làng bị các bệnh phải cấp cứu, như:
đau ruột thừa hoặc nghi rằng đau ruột thừa, có người mẹ
nào sinh khó, người nào bị tai nạn... chẳng hạn, người giáo
phu sẽ điện thoại cho linh mục của mình, hoặc cho các nữ
tu phục vụ ở trong các làng đó. Một khi chúng tôi nhận được
điện thoại cấp cứu liền tức tốc hẹn gặp nhau ở một địa
điểm nào đó dễ và gần nhất để đón xe cứu thương của
chúng tôi, sau đó đến nhà người bệnh để chở người bệnh
đến nơi cần phải đến để chữa trị cho họ. Chiếc xe cứu
thương của chúng tôi không những đưa người bệnh đi cấp
cứu tại bệnh viện mà còn làm thêm nhiệm vụ chuyển viện
cho những bệnh nhân nghèo, từ BV Pleiku chuyển tới BV
Qui Nhơn, từ Pleiku chuyển về Sài gòn. Những trường hợp
chuyển viện như thế xe chúng tôi đi miễn phí, cũng có
những người có tấm lòng, họ đưa chúng tôi chút ít tiền gọi
là phụ chi phí tiền xăng dầu, vậy đó!
Thật lòng mà nói, chúng tôi cũng cần mọi người tiếp
sức với chúng tôi trong những công việc này. Như thế
chúng tôi mới có thể phục vụ tốt hơn cho những người
nghèo, như Chúa luôn luôn nhắc nhở và dạy chúng ta noi
theo đường lối của Chúa là: yêu thương và phục vụ
người nghèo.
Mong ước có được mạng lưới y tế lưu động.
Điều mà lòng tôi luôn mong ước là chúng ta có được
một mạng lưới y tế lưu động. Và mạng lưới này sẽ là của
các giáo dân và do các giáo dân phục vụ. Chúng tôi là
những người tu hành, thời giờ chúng tôi phải đến chỗ này
chỗ kia trong các làng dân tộc còn không đủ để đi cho hết.
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút
Tâm Bút

Más contenido relacionado

La actualidad más candente

La actualidad más candente (8)

Thang 8.2011 3
Thang 8.2011 3Thang 8.2011 3
Thang 8.2011 3
 
Ephata 616
Ephata 616Ephata 616
Ephata 616
 
Ephata 613
Ephata 613Ephata 613
Ephata 613
 
So 172
So 172So 172
So 172
 
Thang 10.2011 mail (1)
Thang 10.2011 mail  (1)Thang 10.2011 mail  (1)
Thang 10.2011 mail (1)
 
Obv newsletter volume 3
Obv newsletter volume 3Obv newsletter volume 3
Obv newsletter volume 3
 
Viêm gan virut không còn đáng sợ
Viêm gan virut không còn đáng sợViêm gan virut không còn đáng sợ
Viêm gan virut không còn đáng sợ
 
Tap san Thang 4
Tap san Thang 4Tap san Thang 4
Tap san Thang 4
 

Destacado

Destacado (11)

automatic-meter-reading-system
automatic-meter-reading-systemautomatic-meter-reading-system
automatic-meter-reading-system
 
ع م م
ع م مع م م
ع م م
 
Propiedad industrial de Colombia
Propiedad industrial de Colombia Propiedad industrial de Colombia
Propiedad industrial de Colombia
 
MailMergeNBCC1
MailMergeNBCC1MailMergeNBCC1
MailMergeNBCC1
 
LAWRENCE UPDATED CV CURRENT 2
LAWRENCE UPDATED CV CURRENT 2LAWRENCE UPDATED CV CURRENT 2
LAWRENCE UPDATED CV CURRENT 2
 
Before You Scan - Tablet Setup v1.1 (1)
Before You Scan - Tablet Setup v1.1 (1)Before You Scan - Tablet Setup v1.1 (1)
Before You Scan - Tablet Setup v1.1 (1)
 
MCPCA 2016 Caring Awards Press Release
MCPCA 2016 Caring Awards  Press ReleaseMCPCA 2016 Caring Awards  Press Release
MCPCA 2016 Caring Awards Press Release
 
Public Benefits Resources Handout - English
Public Benefits Resources Handout - EnglishPublic Benefits Resources Handout - English
Public Benefits Resources Handout - English
 
Cameras Reformat Pat M
Cameras Reformat Pat MCameras Reformat Pat M
Cameras Reformat Pat M
 
Gr 06 160429_business model
Gr 06 160429_business modelGr 06 160429_business model
Gr 06 160429_business model
 
Ts For compass
Ts For compass Ts For compass
Ts For compass
 

Similar a Tâm Bút (20)

Ephata 615
Ephata 615Ephata 615
Ephata 615
 
Cathedral total vhn
Cathedral total vhnCathedral total vhn
Cathedral total vhn
 
Ephata 625
Ephata 625Ephata 625
Ephata 625
 
Ephata 619
Ephata 619Ephata 619
Ephata 619
 
Ephata 626
Ephata 626Ephata 626
Ephata 626
 
Nhân Quả Công Bằng
Nhân Quả Công BằngNhân Quả Công Bằng
Nhân Quả Công Bằng
 
Nhân quả báo ứng hiện đời
Nhân quả báo ứng hiện đờiNhân quả báo ứng hiện đời
Nhân quả báo ứng hiện đời
 
Nhân quả báo ứng hiện đời.
Nhân quả báo ứng hiện đời.Nhân quả báo ứng hiện đời.
Nhân quả báo ứng hiện đời.
 
487
487487
487
 
Nhân quả bao ung hien doi
Nhân quả bao ung hien doiNhân quả bao ung hien doi
Nhân quả bao ung hien doi
 
Ephata 630
Ephata 630Ephata 630
Ephata 630
 
Ephata 604
Ephata 604Ephata 604
Ephata 604
 
Obv Newsletter Volume 10 Vietnamese
Obv Newsletter Volume 10 VietnameseObv Newsletter Volume 10 Vietnamese
Obv Newsletter Volume 10 Vietnamese
 
Trên cả tình yêu
Trên cả tình yêu   Trên cả tình yêu
Trên cả tình yêu
 
Ephata 636
Ephata 636Ephata 636
Ephata 636
 
Ephata 621
Ephata 621Ephata 621
Ephata 621
 
Báo ứng Hiện Đời Tập 3
Báo ứng Hiện Đời Tập 3Báo ứng Hiện Đời Tập 3
Báo ứng Hiện Đời Tập 3
 
HÀNH TRÌNH ĐẾN VỚI NGƯỜI KA-TU.docx
HÀNH TRÌNH ĐẾN VỚI NGƯỜI KA-TU.docxHÀNH TRÌNH ĐẾN VỚI NGƯỜI KA-TU.docx
HÀNH TRÌNH ĐẾN VỚI NGƯỜI KA-TU.docx
 
Dao duchieusinh iii_edt - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Dao duchieusinh iii_edt - THẦY THÍCH THÔNG LẠCDao duchieusinh iii_edt - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Dao duchieusinh iii_edt - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
 
Giao an duc hieu sinh tap3- 16-7-2012 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Giao an duc hieu sinh  tap3- 16-7-2012 - THẦY THÍCH THÔNG LẠCGiao an duc hieu sinh  tap3- 16-7-2012 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Giao an duc hieu sinh tap3- 16-7-2012 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
 

Tâm Bút

  • 1. 1 Lời tâm sự, Chân thành thắp một nén hương lòng dâng lên hương hồn chị Têrêsa Hồ Thủy. Chị đã ra đi đột ngột bước vào cõi bình an vào ngày Chúa Nhật 26.7.2015, tuổi đời mới chỉ hơn 60! Chính chị Hồ Thủy là người đã biên soạn “ Những Điều Chia Sẻ I ” của tôi và đặt tên cho nó là “ Mùa Đông Ấm Áp ”. Chị đã động viên tôi “chia sẻ” tiếp, như món nợ tôi phải trả cho người Thượng nghèo tại Giáo Phận Kontum. Nhờ đó mà có được “ Những Điều Chia Sẻ II ”, mà chị Hồ Thủy đặt tên cho nó là “ Tâm Bút ”. Chị bảo tôi: “Cha hãy xem lại rồi gởi cho con, để con…”. Bây giờ tôi gởi cho chị lời nguyện cầu. Và cũng xin chị phù hộ cho người Thượng nghèo Kontum, mà chị hằng ấp ủ mến thương. Thành thật chia buồn với anh Tấn - chồng chị, là người đồng hành tận tình với chị Hồ Thủy trong công việc của “ Mùa Đông Ấm Áp ” và “ Tâm Bút ”. Hết lòng cảm ơn anh chị. Cảm ơn cháu Phi – La Sơn, là người đã chịu khó nghe giọng Bình Định và đánh thành văn bản cho chị Hồ Thủy sắp xếp. Cảm ơn anh Sĩ Hùng đã làm nhà “biên soạn” bất đắc dĩ, để “ Tâm Bút ” được chào đời. Cảm ơn Thầy Tố CVK đã góp ý và đưa thêm hình ảnh vào để cuốn “ Tâm Bút ” thêm phần sinh động.
  • 2. 2 Cảm ơn cha Gioakim Vỹ đã viết lời Phi lộ, mặc dầu lúc đầu cha rất do dự… Cảm ơn tất cả những ai đã đọc bản thảo, đã nêu ý kiến sửa đổi, và đã động viên… “ Những Điều Chia Sẻ II ” chỉ là kinh nghiệm cá nhân của một con người “ nhân bất thập toàn”, mong sao những kinh nghiệm này góp được chút ít gì cho công việc phục vụ người nghèo, của những người môn đệ Chúa Giêsu trên cánh đồng truyền giáo Tây nguyên. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Khi tôi được bầu, tôi đã có bên cạnh người bạn của tôi là Đức Hồng y Hummes. Bởi vì chúng tôi ngồi cạnh nhau. Chính ngài đã nói với tôi một câu khiến tôi hạnh phúc: ‘Đừng quên người nghèo’. Thật là đẹp” (Bài phỏng vấn Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho Đài truyền hình Braxin Globo sau kết thúc ngày Giới Trẻ tại Rio de Janeiro 2013). Đừng quên người nghèo là phải có tấm lòng yêu thương nồng nàn, chân thật và kiên trì đối với người nghèo theo gương Chúa Giêsu. Kontum, ngày 06 tháng 8 năm 2015 Linh mục Phêrô Nguyễn Vân Đông Giáo phận Kontum
  • 3. 3 LỜI TỰA Ngày nào mang nỗi đau, tôi mới hiểu nỗi đau là gì? Ngày nào trong khát khô, tôi mới hiểu phận người ăn xin. Cần một ly nước thôi, cần một bát cơm vơi, cần một bàn tay ai đó đưa trao. . . Này người, xin chớ quên! Phận người sống trong ta. Mở rộng bàn tay nhân ái với bao phận nghèo. Trong ca khúc “Tình Ngài gọi con”, Linh mục nhạc sĩ Nguyễn Sang đã nói lên một thực tế phũ phàng rằng: Thường ngày chúng ta vẫn hằng chứng kiến biết bao người nghèo khổ, đói khát, bệnh tật; song thử hỏi có mấy ai nhìn thấy được nỗi đau, sự khốn khó của họ để tỏ lòng nhân ái và ra tay giúp đỡ? Những con người sống trong cơm no áo ấm, nhà sang cửa đẹp làm sao có thể hiểu được nỗi đau của cái đói cái lạnh và bệnh tật? Không có lòng trắc ẩn, không có tình yêu thương, đồng cảm thì cũng không có sự chia sẻ, giúp đỡ. Là một Linh mục được trưởng thành từ chiếc nôi Chủng viện Thừa Sai Kontum và đã gắn bó 60 năm với một giáo phận có 2/3 tín hữu là dân tộc thiểu số, Cha Phêrô Nguyễn Vân Đông đã “thú nhận” sự gắn bó mật thiết với người dân tộc trong cuộc đời linh mục của mình. Và ngài xem đó như là “mối duyên tình” đã được chính Thiên Chúa “se định”, như đã làm cho các vị Thừa sai thuở trước.(x. tr 54,55). 44 năm sống, làm việc, nhìn thấy và cảm nhận mọi nỗi khốn khó, nghèo đói của đồng bào mọi sắc tộc, từ những người già yếu, bệnh tật, đến các phụ nữ mang thai, rồi đến các trẻ em cơ nhỡ, . . Cha Phêrô không khỏi ưu tư, băn khoăn và tự hỏi với Chúa: “Chúng con phải làm gì đây?” “Thà bật lên một que diêm nhỏ còn hơn ngồi nguyền rủa bóng đêm” (John Locke). Với tư cách là Tổng Đại Diện và
  • 4. 4 Giám đốc Caritas của giáo phận, Cha Phêrô đã thực hiện rất nhiều chương trình bác ái xã hội để giúp đỡ cho những người nghèo dân tộc thiểu số trong các lĩnh vực an sinh, y tế, giáo dục, cô nhi viện, . . Song, “một con én nhỏ cũng chẳng làm nên mùa xuân”. Cha Phêrô vẫn luôn thao thức ước mong sự chung lòng chung sức cộng tác từ mọi thành phần dân Chúa trong giáo phận, nhất là các cha xứ, các nam nữ tu sĩ đang phục vụ tại các buôn làng xa xôi trong giáo phận. Vì thế, dựa trên tinh thần của ĐTC Phanxicô “Hãy mở cửa ra! Hãy lên đường! ..”(x. NvTM, 20-24 ), ngài cũng mời gọi: “Hãy yêu thương người nghèo khổ và hãy giúp đỡ họ, vì đó là kho tàng hạnh phúc của chúng ta ở trên Nước Trời”. Tất cả những nỗi niềm ưu tư và thao thức của vị linh mục đã 74 tuổi được bộc bạch qua những dòng chữ hết sức mộc mạc nhưng rất đỗi chân tình trong tập nhỏ “TÂM BÚT” này. Vì được thảo ra cách trung thành những thổ lộ tâm tình của Cha Phêrô trong máy thu âm, nên lời lẽ trong “TÂM BÚT” có phần “dân dã”. Và chắc chắc trong quá trình soạn thảo không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong quý độc giả rộng lòng bỏ qua! Ước gì những lời tâm huyết của Cha Phêrô trong cuốn tập nhỏ này khơi dậy trong chúng ta lòng trắc ẩn, tình yêu và sự đồng cảm với những mảnh đời nghèo khổ, bất hạnh nơi các anh em dân tộc bên cạnh chúng ta. Từ đó, chúng ta biết sống tinh thần bác ái của Thánh Phaolô: “Vui với người vui, khóc cùng kẻ khóc”, "Lấy hạnh phúc của người khác làm hạnh phúc của chính mình, lấy niềm đau của người khác làm nỗi khổ của chính mình" (Rm 12, 15). Rất chân thành cám ơn quý độc giả! Lm. Gioakim Lương Đông Vỹ.
  • 5. 5 Hãy thương yêu người nghèo khổ và hãy giúp đỡ họ, vì đó là kho tàng hạnh phúc của chúng ta trên Nước Trời. CHƯƠNG MỘT NHỮNG NỖI NIỀM BĂN KHOĂN TRĂN TRỞ Có những vấn đề luôn làm cho chúng tôi, là những linh mục, những tu sĩ nam nữ luôn ưu tư lo lắng, luôn băn khoăn trăn trở, ấy là làm thế nào tìm ra những giải pháp tốt để "tháo gỡ" cho người dân tộc thoát khỏi phần nào đó đời sống nghèo khó, bệnh tật, và làm sao cho con cái của họ không phải chịu nhiều sự thiệt thòi. Những điều mà chúng tôi lo lắng ưu tư nhất, ấy là:
  • 6. 6 I. Người dân tộc vẫn còn sinh rất nhiều con. Trong khi các chương trình của báo chí, đài truyền hình hay các hội nghị diễn thuyết về kế hoạch hóa gia đình của Nhà Nước, cũng như những áp phích treo đầy đường với khẩu hiệu "dù gái hay trai, chỉ hai là đủ" luôn được nhắc đến hàng đầu và khuyến khích mọi gia đình nên áp dụng, nhưng người dân tộc thì có câu nói như thế này: "dù gái dù trai, có thai là đẻ". Dù đó chỉ là một câu nói đùa nghe cho vui tai nhưng lại rất thật. Trong một gia đình của người dân tộc có đến 7, 8 người con được coi là rất bình thường, thậm chí một số gia đình có đến 10, 11 người con luôn. Họ chẳng cần biết đến ông nào là ông Ogino hay ông Billings… Một phụ nữ dân tộc tuy đang rất trẻ nhưng đã tay bồng tay bế… Có lần hai bà mẹ người dân tộc ở trên Đak Mut, huyện Đak Hà, tỉnh Kontum tới thăm tôi, tôi hỏi bà 40 tuổi: - Bà có bao nhiêu người con? Bà ta buồn rầu trả lời:
  • 7. 7 - Con đẻ mười đứa nhưng con chỉ nuôi được năm đứa mà thôi, còn năm đứa thì bị chết khi nó còn nhỏ. Tôi quay qua hỏi bà thứ hai, cũng chừng 40 tuổi: - Còn bà? Bà được mấy người con? Cũng giống như bà kia, bà này trả lời tôi: - Con có 6 đứa con, nhưng mà con nuôi được 3 đứa. Có một đứa lớn tới 23 tuổi, buổi tối nó đi ngủ, sáng dậy thấy nó đã chết rồi, bởi vì nó bị bệnh tim bẩm sinh. Nghe hai người đàn bà nói mà tôi rất đau lòng, vì có những cái chết không đáng có nếu được chữa trị kịp thời. Người dân tộc họ sinh con thì nhiều nhưng nuôi được con thì rất ít. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đáng buồn, đáng thương về điều này, đó là: Thiếu vệ sinh: Sự thiếu hiểu biết về vệ sinh cũng như những biến chứng sau khi sinh đã dẫn đến tình trạng người mẹ bị chết. Và theo hủ tục của người dân tộc thì khi người mẹ chết là người nhà sẽ chôn đứa con theo mẹ, dù nó còn sống. Có những đứa con sau khi được sinh ra chừng vài ba ngày, hay một thời gian ngắn thì bị chết vì bệnh hay vì một biến chứng nào đó liên quan đến vấn đề vệ sinh. Thiếu lương thực. Những bà mẹ dân tộc nghèo bị thiếu ăn, ngay chính bản thân họ còn không có cái để ăn thì làm sao họ nuôi nổi thai nhi trong bụng? Nên khi sinh con họ không có sữa cho con bú, vậy cả mẹ và con đều bị suy dinh dưỡng trầm trọng, có khi đứa con bị chết vì nó quá yếu. Không muốn đến trạm xá: Người mẹ dân tộc tới thời kỳ sinh nở không muốn đến trạm xá hay bệnh viện để sanh con vì những lý do như:
  • 8. 8 Không có tiền, nhất là những người ở tận vùng sâu vùng xa. Không biết tiếng Kinh – ngại giao tiếp. Người dân tộc có thói quen chỉ muốn sinh con tại làng, tại nhà. Họ sống ở đâu thì sinh con ở đó. II. Phải tìm cách giúp đỡ các bà mẹ nghèo mang thai. Vì tình trạng sinh con thì nhiều mà nuôi được thì ít, nên chúng tôi đã hết sức cố gắng giúp đỡ họ về mọi mặt, nhất là về y tế, về vệ sinh và lương thực, để vừa nuôi người mẹ và nuôi luôn cả đứa con trong bụng. Nhưng như thế chưa phải là đã xong, vì sau khi người mẹ sinh con, chúng tôi còn phải lo cho họ được no cái bụng trong khoảng thời gian đầu. Đó chính là thời gian quan trọng để người mẹ cần có sữa cho con bú. Chúng tôi luôn lo lắng, băn khoăn trăn trở khi nghĩ đến việc phải làm thế nào để giúp cho những bà mẹ đang mang thai mà thiếu ăn, thường xuyên bị đói, phải có cái ăn để người mẹ được no cái bụng. Họ thiếu ăn không phải vì họ làm biếng, trái lại họ rất siêng năng và chịu khó. Như chúng ta biết, người dân tộc luôn dựng làng ở gần rừng, gắn bó cuộc đời mình với núi, với rừng. Thiếu cái ăn là họ vào rừng. Rừng núi là một phần thân thể của họ. Bây giờ đâu còn rừng nữa mà vào! Xưa người dân tộc làm rẫy để có hạt lúa. Đông người thì đốt “cái rẫy” lớn, ít người thì đốt “cái rẫy” nhỏ. Bây giờ, đất đai được Nhà Nước quy hoạch rồi. Không còn chỗ đốt rẫy làm lúa, làm mì như thuở xưa nữa! Làng người dân tộc luôn ở gần sông, gần suối, hoặc chỗ ở có nhiều nước. Họ lấy nước mạch để sử dụng, người Kinh thường gọi là “nước giọt”. Người dân tộc không có thói quen đào giếng như người Kinh. Khổ nỗi, bây giờ sông suối cũng cạn kiệt vì rừng không còn. Sông suối khắp nơi không những bị cạn kiệt, mà còn bị ô nhiễm nặng nề. Nhiều người dân tộc bị bệnh đường ruột vì uống nước không sạch.
  • 9. 9 Caritas chúng tôi đã thực hiện nhiều chương trình nước sạch cho các làng dân tộc tại tỉnh Gia Lai, như: Đào giếng, lắp các bộ lọc nước tinh khiết, lắp bồn chứa nước v.v.... Đã đem lại nhiều ích lợi và sức khỏe cho người sử dụng. Chúng tôi mong có nhiều người tiếp tay để chương trình Nước Sạch đến được với nhiều làng dân tộc hơn nữa. Chúng tôi rất đau lòng khi thấy những người mẹ dân tộc sinh nhiều con, mà con họ bị chết cũng nhiều. Có nghe được những tiếng khóc ai oán não nề của người mẹ khi con mình bị chết vì bệnh, hay vì một nguyên nhân không đáng kể nào đó, thì chúng ta mới có thể hiểu và cảm thông, mà chạnh lòng thương xót họ. III. Những việc làm của Ban Bác Ái Xã Hội Caritas Kontum giúp đỡ người dân tộc. Vì muốn tránh tình trạng các người mẹ dân tộc sinh con thì nhiều mà nuôi được thì ít, nên Ban Caritas chúng tôi hết sức cố gắng làm những công việc cần thiết để giúp đỡ cho những bà mẹ nghèo đang mang thai. Chúng tôi đã kêu gọi rất nhiều người từ các ngành Y Tế, Vệ Sinh, cùng chúng tôi chung lòng, chung sức, chung tay để giúp đỡ họ và phải làm sao cho có hiệu quả. Caritas của Giáo Phận Kontum có nhiều ban, trong đó có Ban Bảo Vệ Sự Sống. Chúng tôi đã cố gắng góp phần lo cho các bà mẹ dân tộc nghèo mang thai được: Ăn uống đầy đủ hơn trong khi mang thai. Một khi người mẹ mang thai được no bụng, thì mới có sức khỏe. Và khi mẹ được mạnh khỏe thì đứa con trong bụng mới tốt được. Sau khi người mẹ sinh con xong thì cũng phải cho mẹ được ăn uống no đủ để có sữa cho con bú. Với những người mẹ sau khi sinh con mà không có sữa cho con bú, cũng chẳng có tiền để mua sữa, thì chúng tôi, Ban Bác Ái Xã Hội Caritas phải tìm mọi cách giúp đỡ tiền bạc cho người mẹ để bà mua sữa cho con mình bú.
  • 10. 10 Cũng vì tình trạng người mẹ mang thai mà không có cái ăn, nên đứa con đã bị suy dinh dưỡng ngay từ trong bụng mẹ. Rồi thì với cách sống thiếu vệ sinh, khi bị bệnh không có thuốc uống, không tới được bệnh viện, thế nên tỷ lệ sơ sinh sống rất thấp. Vì những lý do đó, nên mới có tình trạng sinh 10 đứa mà nuôi được chừng 4 , 5 đứa, hoặc sinh được 6, 7 đứa mà chỉ nuôi được chừng 3,4 đứa là như vậy. Nhà thờ Thăng Thiên - Pleiku Vào năm 2005 tôi được bổ nhiệm về làm cha sở của giáo xứ Thăng Thiên (nhà thờ nằm ngay trung tâm thành phố Pleiku). Năm đó (2005), khai giảng Năm học Giáo Lý, lớp giáo lý Khai Tâm dành cho các em nhỏ người Kinh, có đến 40 em ghi tên học giáo lý Khối Khai Tâm. Nhưng sau 8 năm tôi ở xứ đạo này, vào niên học 2013 thì chỉ có 16 em ghi tên học giáo lý Khối Khai Tâm mà thôi. Điều đó chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng số sinh của người Kinh ngày càng giảm, trong khi đó số sinh của người dân tộc hầu như không giảm bao nhiêu.
  • 11. 11 Tôi trông coi một làng dân tộc ở Xã Nghĩa Hưng, huyện ChưPăh, tỉnh Gia Lai. Đó là làng Ea Luh, thuộc sắc tộc Séđăng. Làng chỉ có khoảng 700 người dân mà thôi. Một lần nọ, tôi đi dâng lễ ngày Chúa Nhật, nhằm vào dịp Trung Thu. Tôi đem theo 200 phần quà để phát cho các em từ 10 tuổi trở xuống, nhưng chú Giáo Phu nói với tôi: - Như thế là không đủ, vì làng của chúng con bây giờ các trẻ em từ 10 tuổi trở xuống có tới gần 300 em lận. Hôm đó tôi cũng hơi ngạc nhiên vì số trẻ em của làng lại đông đến như thế. Đây cũng chính là nỗi lo lắng của chúng tôi, vì người dân tộc càng sinh nhiều con thì càng bị thiếu lương thực, mà thiếu lương thực thì cũng đồng nghĩa với thiếu ăn. Nếu thiếu ăn sẽ dẫn đến suy dinh dưỡng. Một khi đã không có sức khỏe thì sẽ không có sức đề kháng, mà không có sức đề kháng thì khi bị bệnh sẽ khó vượt qua. Mọi chuyện cứ thế mà xoay quanh cái vòng luẩn quẩn! Nhà trẻ ở làng Ea Luh
  • 12. 12 IV. Cần tạo điều kiện để người mẹ được đi làm. Như tôi đã nói sơ qua ở trên, ngày xưa người dân tộc ở trong rừng và rừng đã nuôi sống họ. Nhưng ngày nay rừng đâu còn nữa, các làng dân tộc ở chênh vênh giữa trời, giữa đất, cho nên khi hết gạo, hết lúa thì người dân tộc không còn rừng để gọi là "cứu đói" cho mình. Thế thì số trẻ em sinh ra nhiều như ngày nay, nếu Nhà Nước không tạo điều kiện, không có cách nào đó giúp đỡ họ một cách thiết thực ,thì làm sao họ có đủ thời gian để mà đi lao động? Vì vậy nên Caritas chúng tôi đã làm những việc như sau để giúp đỡ cho các bà mẹ dân tộc có thời gian để đi lao động trên nương rẫy, hoặc đi làm thuê, làm mướn… Mở nhà trẻ trong các làng người dân tộc. Mở nhà trẻ trong các làng dân tộc giúp cha mẹ có nơi gởi con mình vào đó, để còn có thời gian đi làm kiếm cái ăn cho gia đình. Vì khi họ sinh nhiều con nên đứa lớn phải ở
  • 13. 13 nhà giữ em. Ngặt một nỗi là khi đứa em vừa chập chững biết đi thì mẹ nó lại sinh tiếp đứa khác, và thế là nó lại tiếp tục giữ em. Vậy cho nên nó đâu có được đi học, mà đã không được đi học thì nó sẽ phải chịu rất nhiều thiệt thòi khi trưởng thành. Còn như cha mẹ nó ở nhà giữ con để cho nó được đi học thì làm sao cha mẹ nó đi lao động được? Mà không đi làm thì lấy gì mà ăn? Đây là một cái vòng luẩn quẩn rất đáng thương và đáng buồn. Vì muốn cho người dân tộc thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn ấy nên chúng tôi suy nghĩ như sau: Các linh mục cũng như các tu sĩ nam nữ, bằng cách nào đó mở nhiều nhà trẻ tại các làng, càng nhiều bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Điều này rất ích lợi cho những người cha, người mẹ và các trẻ em người dân tộc. Một nhà trẻ do người dân tộc coi sóc Chúng tôi cũng đã mở một số nhà trẻ trong các làng dân tộc, tuy rằng nó không lớn và qui mô như các nhà trẻ của Nhà Nước. Các nhà trẻ do chúng tôi mở ra tuy đơn sơ
  • 14. 14 nhỏ bé nhưng đã đáp ứng được nhu cầu cần thiết của người dân trong làng. Nhất là khi các trẻ em được chính các cô giữ trẻ là người dân tộc của làng chăm sóc. Nói một cách ngắn gọn và dễ hiểu thì như thế này: Chính những người dân tộc trong làng đảm nhận trách nhiệm giữ trẻ em trong làng của mình. Đây là điều vô cùng quan trọng, vì nó phù hợp với tâm lý và não trạng của các em. Thế nhưng phải làm cách nào để người trong làng biết cách giữ trẻ em ở trong làng của mình? Câu trả lời là chúng tôi đã tạo các điều kiện như sau: Tổ chức cho người giữ trẻ đi học các khóa giữ trẻ. Chúng tôi cho những người giữ trẻ được đi học thêm về cách thức giữ trẻ, về cách gìn giữ vệ sinh, về chế độ ăn uống... Chúng tôi nhận thấy rằng những đứa trẻ nào được ở trong nhà trẻ do chúng tôi mở ra thì rất mạnh khỏe và trí não phát triển tốt, vì các trẻ em đó được: - Ăn uống đầy đủ, theo đúng chế độ dinh dưỡng.
  • 15. 15 - Có nước sạch để uống và tắm rửa. - Có nhiều đồ chơi để phát triển trí thông minh. - Dạy cho các trẻ sống đời sống tập thể, yêu thương nhau, đối với người dân tộc thì điều này rất dễ tập. - Dạy cho các trẻ em tập nói tiếng Việt, hát những bài hát tiếng Việt, dạy các trẻ em sống theo kỷ luật của trường, lớp. - Các cô giữ trẻ phải biết chữa những bệnh thông thường cho các trẻ em như cảm, nóng sốt, tiêu chảy, bị trầy xước ngoài da do chơi đùa nghịch ngợm... Khi nào có bác sĩ, thầy thuốc hay y tá đến khám chữa bệnh cho các em thì cô giữ trẻ phải biết lo cho các em được khám và chữa bệnh. Nhờ được học thêm về cách giữ trẻ, hơn nữa các cô giữ trẻ lại là người dân tộc trong làng nên các cô đã làm rất tốt công việc này. Các cô có trách nhiệm và biết yêu thương trẻ em. Hầu hết các em ở trong các nhà trẻ mà chúng tôi mở ra tại làng đều khỏe mạnh. Các em được học tiếng Việt nên biết nói tiếng Việt, rồi học kỷ luật và biết giữ kỷ luật của trường, của lớp. Cho nên, khi các em vào học cấp 1 thì dễ dàng thích ứng với những kỷ luật của trường, lớp cùng với các bạn học người Kinh. Các em đó không bị lúng túng bỡ ngỡ khi hòa nhập với những học sinh người Kinh. V. Những con số và những kết quả đáng mừng. Giáo phận Kontum của chúng tôi gồm có 2 tỉnh: Tỉnh Gialai có 1.300.000 dân, khoảng một nửa là người dân tộc, còn một nửa kia là người Kinh. Tỉnh Kontum chỉ có không tới 500.000 dân. Gần 300.000 là người dân tộc, số còn lại là người Kinh. Như vậy theo ước tính, thì tỉnh Kontum có tới 2 phần 3 là người dân tộc, còn lại 1 phần 3 là người Kinh.
  • 16. 16 Số giáo dân Công giáo thuộc tỉnh Gia Lai có khoảng 160.000 người, khoảng một nửa là người dân tộc, còn nửa kia là người Kinh, trong đó số giáo dân người dân tộc thì sắc tộc Jơrai là đông nhất, sau đó tới sắc tộc Bahnar. Số giáo dân trong tỉnh Kontum có đến 165.000 người.. Người Công giáo của cả nước Việt Nam chiếm không tới 7%, nhưng riêng tỉnh Kontum thì người Công giáo có được 35%. Đây là tỷ lệ cao nhất so với 64 tỉnh thành trong cả nước Việt Nam Như thế trong tỉnh Kontum chúng tôi có: Số Công giáo người dân tộc có khoảng 135.000 người. Số Công giáo người Kinh có khoảng 30.000 người. Với 135.000 người Công giáo dân tộc tỉnh Kontum, có rất nhiều sắc tộc như: Jơrai, Bahnar, Rơngao, đông nhất là Séđăng ở các huyện phía bắc tỉnh Kontum. Những sắc tộc ít hơn như Yé, H'lan, Xơdra... thì số giáo dân không nhiều.
  • 17. 17 Lễ khánh thành Giáo Xứ IA TÔ năm 2013, sau 10 năm truyền giáo do các cha Dòng Phanxicô..
  • 18. 18 Đức Khâm Sứ Tòa Thánh là Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli đã đi thăm địa phận Kontum 3 lần. Trong 3 chuyến viếng thăm này, tôi được đi với ngài đến tất cả những nơi ngài đến thăm, người Kinh cũng như người dân tộc. Mỗi lần ngài đến những làng của người dân tộc như làng Kon Hring, làng Đak Chô thuộc huyện Đaktô, tỉnh Kontum, hoặc là Ngài đi xuống dưới các vùng của tỉnh Gia Lai, vào Buôn Ma Dơng huyện Ayunpa, hay Hara-Phú Yên huyện MangYang chẳng hạn, đến chỗ nào ngài cũng thấy trẻ em người dân tộc rất là đông. Ngài ngạc nhiên và nói với tôi: - Trẻ em người dân tộc thật là đông, bên Châu Âu không thấy như vậy. Đặc biệt là các trẻ em dân tộc nơi nào cũng nghiêm trang, đạo đức, mặc dù không hiểu biết nhiều nhưng các em rất đàng hoàng, rất có trật tự. Nghe ngài khen như thế tôi rất mừng. Tôi nghĩ rằng trong địa phận Kontum chúng tôi có khoảng 215.000 giáo dân là người dân tộc, thì giới trẻ từ 20 tuổi trở xuống có khoảng 50%. Lý do vì sao mà tôi đưa ra con số đó? Câu trả lời là: Đã từ lâu người dân tộc nhận được rất nhiều những giúp đỡ và sự chú tâm lo lắng chăm sóc của các linh mục, tu sĩ tại Giáo Phận Kontum, nhất là các nữ tu ở những vùng xa xôi. Chính các vị này đã không quản ngại gian khó để giúp cho họ về mọi mặt, nhất là về y tế và giáo dục. Hiện nay Nhà Nước cũng có chủ trương, chính sách quan tâm đến cuộc sống của người dân tộc, nhưng từ chủ trương đến thực hiện, thì cũng còn xa lắm. Người ta có thể CHO mà không THƯƠNG, nhưng người ta không thể THƯƠNG mà không CHO. Chữ THƯƠNG ở đây và trường hợp này là cần thiết, rất cần thiết !
  • 19. 19 Điều đáng mừng là lúc sau này người dân tộc không còn bị chết trẻ nhiều, cũng không yếu đau bệnh tật nhiều như thời trước. Cho nên trẻ em người dân tộc đông là như vậy đó. Nhưng họ lại gặp nhiều khó khăn trong việc làm sao kiếm đủ lương thực để nuôi con, lo cho con đi học. Khi con cái hay người nhà bị bệnh thì phải có tiền để lo chữa trị cho người bệnh. Công việc của chúng ta bây giờ là giúp đỡ họ bằng mọi cách với khả năng mà chúng ta có thể. Như vậy là chúng ta đã thể hiện được tình yêu thương đồng loại, yêu thương người nghèo khó, bệnh tật. Nếu được như thế là chúng ta đã sống theo Tin Mừng Phúc Âm của Chúa. Nhờ ơn Chúa thương ban cho đất nước Việt Nam chúng con nói chung và giáo phận Kontum nói riêng. Qua sự truyền giáo của các linh mục thừa sai ngày xưa, nên ngày hôm nay giáo phận Kontum chúng con đã có những con số thật đáng mừng. Chúng con muôn vàn cảm tạ ơn Chúa, nguyện xin Chúa cho số giáo dân người dân tộc và người Kinh ngày càng tăng, cuộc sống của người dân tộc ngày càng tốt hơn về mọi mặt.
  • 20. 20 CHƯƠNG HAI NHỮNG ĐIỀU KHÁC BIỆT GIỮA NGƯỜI KINH VÀ NGƯỜI DÂN TỘC Trong bài này có mấy vấn đề mà tôi muốn đề cập đến, đó là những sự khác biệt giữa người Kinh và người dân tộc trong việc sinh con, nuôi con và dạy con. Chúng ta có thể nêu ra những sự khác biệt nhau giữa Kinh và dân tộc như sau: I. Sinh con - Đối với người Kinh: Thời nay, người Kinh không sinh nhiều con, một gia đình người Kinh chỉ sinh 1 hoặc 2 con mà thôi. Xã hội ngày
  • 21. 21 càng văn minh hiện đại, cuộc sống ngày càng được nâng cao, những nhu cầu cần phải có trong gia đình ngày càng đòi hỏi nhiều, người Kinh thích hưởng thụ hơn, cho nên theo họ sinh thêm con là một gánh nặng, chứ không phải là “Đa tử, đa tôn, đa phú quý” như thời trước. Hơn nữa, ngày nay người phụ nữ Kinh tham gia công việc xã hội nhiều hơn phụ nữ ngày trước. Họ cũng phải lo nhiều về "cơm áo gạo tiền", vì thế họ không thích sinh nhiều con. Nếu sinh nhiều con, họ sẽ bị bận rộn trong việc chăm sóc con cái. Khi đó thì "đầu bù tóc rối", người ngợm của họ lúc nào cũng khai ngấy, quần áo xốc xếch, xộc xệch, mất hết hình tượng đẹp của người phụ nữ. Đã vậy, có nhiều con mà kinh tế eo hẹp không nuôi cho đầy đủ về cơm áo, không lo cho chúng nó được học hành tới nơi tới chốn thì thật là quá tội ! Vậy nên người phụ nữ Kinh không muốn sinh con theo kiểu của ông bà xưa là "đứa thôi nôi lôi đứa đầy tháng". Khi sinh con thì người mẹ Kinh sẽ đến bệnh viện hoặc trạm xá để sinh, vì như thế, họ sẽ được an toàn hơn, sẽ được "mẹ tròn con vuông". Vậy nên họ không sinh con ở nhà. Trước khi đi sinh, người mẹ Kinh chuẩn bị đủ mọi thứ như: áo, tã lót, khăn, dầu xoa bóp, phấn, nón len, bình thủy và những thứ khác cho em bé... Nên khi vừa sinh con xong thì người mẹ đã có sẵn mọi thứ cần thiết để các y tá dễ bề chăm sóc cho đứa bé. Đó cũng là một thông lệ, một thói quen tốt của người Kinh đã có từ lâu rồi. Người Kinh còn chu đáo chuẩn bị sẵn phong bì "lót túi" cho các y công, y tá để cả mẹ và con được chăm sóc một cách tận tình chu đáo. Đó là sự thể hiện vô cùng thực tế của câu " tiền thương mến thương" !? - Đối với người dân tộc: Trong các làng của người dân tộc, thường có một cô mụ làng (mẹ truyền con nối), nên khi bà mẹ sinh con tại nhà
  • 22. 22 mình thì đã có cô mụ làng tới nhà đỡ đẻ cho. Nếu gặp cô mụ làng biết cách lo cho trẻ một cách hợp vệ sinh thì đứa bé được an toàn. Nhưng cũng có lúc, đứa bé có thể bị nhiễm trùng rốn rồi chết, nếu cô mụ làng theo tập tục xưa, lấy một thanh tre tước mỏng thiếu vệ sinh để cắt rốn cho đứa bé. Về phía người mẹ, cũng có những trường hợp sau khi sinh bị băng huyết mà chết. Người dân tộc không thích tới bệnh viện để sinh con. Chỉ khi nào họ gặp vấn đề quá khó khăn thì lúc đó mới tới trạm xá hoặc bệnh viện. Nhưng có những làng ở trong các vùng xa xôi nên họ không tới kịp trạm xá hoặc bệnh viện. Đôi khi không có cách nào khác thì người mẹ bị chết hoặc là đứa con không sống được. Điều này rất đáng thương, tội nghiệp và thật là đau xót. Giúp những thai phụ sinh khó tại các làng Vì thấy những cái chết không đáng phải chết như thế, nên sau này chúng tôi hết sức cố gắng và đã mua được 2 chiếc xe cứu thương để giúp đỡ cho những trường hợp cấp cứu: Một chiếc phục vụ vùng Gia Lai và một cho vùng Kontum. Sẵn sàng chạy đến các làng xa để chuyên chở thai phụ, hoặc bệnh nhân đến các bệnh viện cấp cứu. Trước kia ở vùng Kontum có các linh mục như cha Simon Bình, ngài có chiếc xe chuyên chở cấp cứu cho các bệnh nhân nghèo đi bệnh viện, nếu có bà mẹ sinh con khó, khi có giáo dân nào đó báo cho biết thì ngài sẵn sàng và nhanh chóng chở bà mẹ sinh khó tới nơi cần thiết có đủ phương tiện để giúp cho họ được "mẹ tròn con vuông". Thời trước năm 1975, Đức Giám Mục Kontum là Đức Cha Phaolô Kim cũng thường xuyên dặn dò các linh mục trong việc phải giúp đỡ các bà mẹ dân tộc sinh đẻ gặp khó khăn. Nên các linh mục ở các vùng như Đak Tô hoặc các vùng xa xôi, một khi có vấn đề như thế thì các linh mục
  • 23. 23 người Pháp cũng như người Việt luôn luôn sẵn sàng nhanh chóng đưa các bà mẹ sinh khó tới bệnh viện cho kịp lúc. Trước khi làm linh mục, khoảng năm 1970. Đức Cha Kim có lần nói với tôi: “Làm linh mục ở Paris thì anh chỉ lo ban các Bí tích, lo dạy giáo lý, đi thăm viếng mục vụ các gia đình. Như vậy là tốt lắm rồi ! Còn như anh làm linh mục ở Kontum, ngoài những việc đó ra, anh còn phải biết: Cho thuốc cho người bệnh, phải biết sửa xe đạp, phải biết quay nổ máy phát điện, và…thậm chí là phải biết đỡ đẻ nửa !! Cha Simon Bình và chiếc xe cứu thương huyền thoại của ngài
  • 25. 25 Nhưng theo thói quen, người dân tộc vẫn thích sinh con ở nhà hơn, nên họ dễ gặp nguy hiểm khi "vượt cạn". May mà nhờ có các linh mục và các sơ ở các nơi trong giáo phận kịp thời giúp đỡ được nhiều trường hợp khẩn cấp, đã cứu được người mẹ và cứu luôn cả đứa con. Có một điều chúng tôi nghe được là ngay chính người Kinh khi đến bệnh viện cũng phải có "bao thư" để được tiếp đón một cách niềm nở và được giải quyết nhanh chóng. Nếu có bao thư thì gặp chuyện tưởng chừng như bế tắc lắm thì cũng được giải quyết. Có một y sĩ người dân tộc, người này từng giúp đỡ cho nhiều bà mẹ trong làng, nói với tôi rằng: - Bây giờ người dân tộc cũng muốn tới bệnh viện để sinh con nhưng họ ngại một điều là không có tiền để tới bệnh viện. Mặc dù trên nguyên tắc thì người dân tộc nghèo được miễn phí khi đến bệnh viện, nhưng cái "chế độ bao thư" không thể thiếu ấy đúng là làm khổ cho người nghèo. Chỉ mong sao các linh mục ở các nơi, nhất là các nữ tu ở những vùng lân cận đến chăm sóc cho các bà mẹ mang thai mà nghèo đói, cố gắng giúp đỡ cho họ có đủ phương tiện để "vượt cạn" khi họ tới ngày sinh con. Đây là điều chúng tôi mong ước cho các bà mẹ dân tộc, nhất là những bà mẹ nghèo. Như đã kể trên, người Kinh trước khi sinh con thì họ sắm sửa chuẩn bị đầy đủ các thứ, nhưng người dân tộc thì không. Vì họ quá nghèo nên không có tiền để sắm sửa chuẩn bị như người Kinh, nếu có tới được bệnh viện thì họ chỉ đi tay không, chẳng mang theo thứ gì cả. Họ bị những người y tá trong bệnh viện trách móc, đôi khi còn la mắng hoạnh họe họ nữa. Có những nhân viên y tá phục vụ trong bệnh viện khoa sản mặt nặng, mày nhẹ, cằn nhằn người mẹ dân tộc những câu đại loại như:
  • 26. 26 - Tại sao không có tã lót? Tại sao không có khăn, áo cho đứa bé? Bệnh viện làm gì có sẵn những cái này... Vì những câu cằn nhằn như thế nên những người mẹ dân tộc rất e ngại và lòng đầy mặc cảm. Trong khi đó nếu sinh con tại làng thì người mẹ được cô mụ làng tới tận nhà đỡ đẻ mà không phải tốn tiền. Có những câu chuyện nếu kể ra đây nghe thì thật là đau lòng. Nhưng tôi nghĩ rằng dù có đau lòng cách mấy thì cũng nên kể ra cho mọi người biết, không phải là để cầu xin lòng thương xót, nhưng cũng để cho người đọc biết rõ hơn về cuộc sống của người dân tộc, nhất là những người đàn bà dân tộc nghèo mang thai. Có rất nhiều chuyện cảm động và đau lòng, nhưng tôi chỉ kể một câu chuyện điển hình như sau: Có một em bé được nằm chữa trị trong bệnh viện, sức khỏe em ngày một khá hơn, nhưng cha mẹ của em thì hết tiền, cuối cùng không còn đồng nào để ăn hằng ngày, nên đành phải bồng con đi về mặc dù đứa bé chưa hết bệnh. Không biết sau khi về làng bệnh của em có nặng trở lại hay không? Em bé có vượt qua cái chết để được sống hay không? Tôi vô cùng bức xúc về những câu chuyện đại loại như thế. Chính điều này làm cho tôi nghĩ rằng: Trong vai trò của người linh mục hay của một tu sĩ nam, nữ thì đôi khi chúng ta vẫn còn nhiều thiếu sót. Chúng ta lo cho các công tác mục vụ, lo ban các phép Bí tích, lo xây dựng nhà thờ... Thế nhưng chúng ta lại ít khi nghĩ tới hoàn cảnh sinh sống của người nghèo. Nhất là những người dân tộc nghèo, như vậy là chúng ta chưa làm tròn trách nhiệm với chức năng thiêng liêng trong ơn gọi của mình.
  • 27. 27 Trạm Xá Cao Thượng ở Kon Jơdreh – Tỉnh Kontum Trước tình cảnh đó, Hội Ái Hữu và Truyền Giáo Kontum (KMF: www.giupkontum.org) cùng với anh em Cựu Chủng Sinh Kontum đã thành lâp một trạm xá ở Kon Jơdreh, Kontum để khám bệnh và phát thuốc miễn phí cho người nghèo. Cho đến giờ này, đây là trạm xá miễn phí quy mô và hiệu quả nhất vì có đội ngũ Y, Bác sĩ chuyên môn thường trực từng ngày. Chờ khám bệnh cho con cái ở trạm xá Kon Jơdreh
  • 28. 28 II. Nuôi con - Đối với người Kinh: Thời trước, người Kinh có quan niệm rằng "trời sinh voi sinh cỏ", nên ông bà ta thời đó sinh rất nhiều con. Tuy là sinh nhiều con nhưng vẫn nuôi dạy tốt hơn bây giờ nhiều. Đến thời nay thì người Kinh ngại nuôi con nên sinh rất ít. Họ áp dụng câu "Dù gái hay trai, chỉ hai là đủ", nên gia đình người Kinh chỉ sinh từ 1 đến 2 đứa con mà thôi. Vì vậy mà họ nuôi con khá đầy đủ, nhưng có một điều đáng lo ngại là vì có ít con nên họ cưng chiều con cái, làm cho con cái họ dễ hư hỏng. Về dinh dưỡng thì người Kinh cho con mình ăn những thứ thức ăn đầy chất bổ dưỡng, uống những loại sữa tốt, nên có những đứa trẻ con tôi thấy nó mập quá xá cỡ, ú na ú nần, mà mập quá như thế cũng không tốt. Người Kinh nuôi con rất kỹ, nghe con ho vài tiếng, thấy con bú ít một chút, hôm nào sờ đầu con cảm thấy trán hâm hấp nóng là họ vội vàng bồng con đi bác sĩ hoặc đưa con đến bệnh viện ngay. Vì vậy số người Kinh đưa con đi khám bệnh ở phòng khám của các bác sĩ tư rất nhiều, còn người dân tộc thì rất hiếm, họa hoằng lắm mới có một vài người đưa con đến khám. Người Kinh thường xem tin tức trên đài truyền hình, hoặc đọc báo, lên mạng Internet, qua đó họ thường theo dõi để biết chỗ nào có vá môi sứt, chích ngừa bệnh này, bệnh nọ... v.v...và v.v... Cũng nhờ thường xuyên theo dõi tin tức, thông báo, nên người Kinh lo cho con cái khá là chu đáo. - Đối với người dân tộc: Khác với người Kinh: "dù gái hay trai chỉ hai là đủ", người dân tộc lại quan niệm như ông bà người Kinh của chúng ta ngày trước "trời sinh voi sinh cỏ", vì thế nên họ sinh con một cách vô tư. Họ làm theo câu nói tuy có vẻ đùa nhưng rất thật: " Dù gái, dù trai có thai là.. đẻ!". Họ không
  • 29. 29 thèm “kiêng cữ”… Vì đẻ nhiều, nhà nghèo lại đông con nên cơm ăn bữa đói bữa no, có bữa còn không có cái gì để mà ăn. Thế nhưng người dân tộc vẫn chấp nhận cảnh nhà đông con, và họ rất vui vì có nhiều con. Các nhà trong làng cũng vui lòng cho nhà nào có con đông, phải sống chen chúc chật chội được qua ở nhà của mình. Có một lần tôi tới thăm một gia đình nọ. Nhà có hai người con, ông chồng đau phải nằm bệnh viện 2 tuần, tôi hỏi bà vợ: - Trong 2 tuần bà đi nuôi chồng trong bệnh viện, thế thì 2 đứa con của bà ở nhà nó sống ra làm sao? Bà mẹ hồn nhiên trả lời: - Làng cho nó ăn đó chớ! Điều này cho tôi thấy tinh thần cộng đồng của người dân tộc rất tốt, không những biết lo cho những người trong làng khi gặp khó khăn, mà còn cho con cái của người đó được ăn cơm, ngủ nhờ. Đôi khi họ còn tình nguyện chăm sóc cho heo, gà... của người đó nữa. Như khi thấy là người vợ phải nuôi chồng trong bệnh viện 2 tuần mà ruộng lúa bị cỏ rác mọc tùm lum, mùa màng tới nơi cần phải gặt, thì người ở trong làng cũng tổ chức đi gặt lúa cho gia đình đang gặp khó khăn đó. Khi nghe nói 2 đứa con người bệnh ở trong làng không nổi lửa nấu cơm, bếp núc lạnh tanh, thì nay chúng ăn cơm ở nhà này, mai chúng lại qua ăn cơm ở nhà khác, và nhà nào cũng vui vẻ cho chúng ăn cơm. Tôi rất lấy làm cảm động và nhận thấy rằng về điều này thì người dân tộc sống tốt hơn người Kinh của chúng ta nhiều. Họ biết chia sẻ và sẵn lòng giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn. Khi người dân tộc bị bệnh, mặc dù họ rất muốn đến bệnh viện hoặc tới phòng khám của các bác sĩ tư để khám và được chữa bệnh, nhưng vì:
  • 30. 30 Họ không có tiền. Làng họ ở xa xôi. Họ không biết tiếng Việt hoặc biết rất ít. Đó là những lý do mà người dân tộc rất ngại không dám đến bệnh viện hay phòng mạch của bác sĩ tư. Có một điều thật đáng thương cho người dân tộc nhưng cũng thật đáng trách đối với những người Kinh, ấy là có những người Kinh bán hàng, bán thuốc trị bệnh quá thời hạn sử dụng cho người dân tộc. Khi người dân tộc bị bệnh họ đã đến đó để mua thuốc về uống, chẳng những bệnh không hết, trái lại còn bị nặng hơn. Vì vậy nên người dân tộc rất ngại và thiếu niềm tin ở nơi người Kinh. Nhưng thật may mắn là bây giờ ở trong một số làng của người dân tộc có những y sĩ cũng là người dân tộc. Nên mỗi khi bị bệnh, họ thường tìm đến các y sĩ trong làng, hay là những y, bác sĩ tình nguyện của giáo phận Kontum ở trong Ban Caritas chẳng hạn. Tại những nơi này họ được đón nhận, được chăm sóc và được chữa trị trong tinh thần bác ái. Các nữ tu trong giáo phận đã làm việc này rất tốt.
  • 31. 31 Người dân tộc không được tiếp xúc nhiều với những phương tiện truyền thông như người Kinh, nhất là họ không biết đọc chữ Việt là bao nhiêu. Vậy nên họ không thể theo dõi để biết được những thông tin quan trọng về bệnh tật, về những điều cần thiết khác liên quan đến đời sống, đến sức khỏe của con cái họ. Đó là một sự thiệt thòi rất lớn cho người dân tộc trong việc nuôi con của mình theo phương pháp hiện đại ngày nay. Những điều tốt đẹp từ các nhà trẻ mồ côi mang tên Vinh Sơn ở Kontum. Giáo phận Kontum chúng tôi có đến 6 nhà mồ côi có tên gọi là Vinh Sơn 1, Vinh Sơn 2, Vinh Sơn 3, Vinh Sơn 4, Vinh Sơn 5, Vinh Sơn 6. Tất cả 6 nhà mồ côi này đều nằm trong Thành phố Kontum, do các Yă (nữ tu Dòng Ảnh Phép lạ, Dòng nữ tu người dân tộc) phụ trách. Giáo dân người dân tộc thuộc tỉnh Kontum là 135.000 người, trong khi giáo dân người Kinh chỉ có 30.000 người mà thôi. Các huyện như huyện Đak Glei, Ngọc Hồi, Tu Mơrông, Đak Hà thuộc các vùng xa. Ở những nơi xa xôi
  • 32. 32 này các làng đa số là nghèo. Về vật chất như cơm ăn áo mặc cũng đã khó khăn thiếu thốn, rồi khi sinh con, chăm sóc con, đến khi nó đau yếu bệnh tật, thì người dân tộc nghèo không biết phải làm sao để chữa bệnh cho con. Đó chính là nỗi lo lắng vô cùng to lớn của các người làm cha mẹ. Các Yă trong giáo phận Kontum cũng hiểu được điều đó, nên cố gắng giúp đỡ cho các gia đình dân tộc nghèo. Khi những cha mẹ người dân tộc, nhất là những cha mẹ người dân tộc Công giáo thấy đứa con của mình khó nuôi, mà có nuôi thì cũng không thể cho con cái của mình đi học. Họ thường nhờ cậy, gởi gắm con mình vào ở trong các nhà Vinh Sơn để được các Yă chăm sóc. Các nhà Vinh Sơn đều ở gần bệnh viện, lại có nhiều trạm xá, có các Yă làm việc ở trong đó nữa. Những khi có em nào ho, ỉa chảy, cảm sốt... thì các Yă lo cho nó uống thuốc. Một khi con của họ được các Yă nhà Vinh Sơn chăm sóc kỹ lưỡng thì các em sống mạnh khỏe, ít bị bệnh Cô nhi viện Vinh Sơn 5
  • 33. 33 Cô nhi viện Vinh Sơn 6 Về vấn đề học hành của các em cũng thế; các nữ tu trông coi các nhà Vinh Sơn đã tận tình trong việc chăm sóc việc học hành cho các trẻ em người dân tộc. Các Nhà Vinh Sơn ở Kontum cũng giống như một nhà trẻ. Nơi đó, các nữ tu nuôi trẻ từ nhỏ cho tới lớn, đồng thời các em cũng được một số nhà hảo tâm giúp đỡ về thực phẩm, ăn uống hằng ngày, về áo quần cho các em được ấm áp trong mùa đông, nhất là về hệ thống nước lọc, nước uống được bảo đảm vệ sinh sạch sẽ. Vì các em trong các nhà Vinh Sơn ngay từ lúc nhỏ đã được chăm sóc tốt về sức khỏe, được ăn uống tương đối đầy đủ, nên các em khỏe mạnh, ít đau yếu. Như thế cũng bớt đi phần lớn gánh nặng cho xã hội. Khi khôn lớn các em lại trở về làng, lập gia đình và phục vụ lại cho những người khác.
  • 34. 34 III. Dạy con - Đối với người Kinh: Khi những đứa con lớn lên, tùy theo độ tuổi, cha mẹ người Kinh lo tìm nhà trẻ nào tốt hoặc tìm trường mẫu giáo "ngon lành" cho con mình vào học. Ở thành phố Pleiku có trường mẫu giáo nổi tiếng của các sơ dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, nhưng khó gởi con vào học trường này lắm vì số trẻ em được nhận vào có giới hạn trong khoảng bao nhiêu đó mà thôi, quá con số đưa ra là không được. Vậy nên những con em được vào học trong những trường đó, thường là con nhà giàu có, hoặc là con em của các cán bộ. Những người này tìm mọi cách để gởi con mình vào trường mẫu giáo nói trên, vì ở trong đó các em được chăm sóc về nhiều mặt như: về sức khỏe, về cách nói năng, về cách cư xử, cũng như về vấn đề ăn uống là phải đầy đủ các chất dinh dưỡng cho các em... Mọi thứ đều được tính toán từng ly từng tí để giúp cho các em phát triển. Trong khi đó thì người dân tộc hầu như không có được sự may mắn này như người Kinh. Dễ dầu gì được lọt vào các trường có "tầm cỡ" như vậy kia chứ ! Với người Kinh thì "thương cho roi cho vọt", mỗi lần con cái làm điều gì cho cha mẹ giận là coi như đứa con bị cha mẹ đánh mắng om xòm. Người Kinh dạy dỗ con cái có kỷ luật từ lúc con còn nhỏ. - Đối với người dân tộc: Người dân tộc không bao giờ đánh con, cũng không bao giờ mắng nhiếc con cái. Đây là điều rất dễ thương của những cha mẹ người dân tộc. Nhưng có một cái sai nơi người dân tộc là hễ con cái đòi cái gì thì cũng chiều theo ý nó. Trẻ muốn mua cái gì thì cha mẹ phải mua cho nó, nếu không có sẵn tiền để mua thì lấy gạo đem đổi.
  • 35. 35 Người dân tộc quan niệm về việc sinh con, nuôi con và dạy con như thế nào? Điều đơn giản nhất đối với họ là hễ có thai là đẻ, đẻ ra thì nuôi, nuôi sống đầy đủ hay không thì tính sau. Nhưng đối với họ thì dạy con là công việc khó khăn nhất. Tôi có nuôi và lo cho một em người dân tộc được ở trong nhà tôi từ lúc nó mới học lớp 6 cho tới khi em đó thi đậu tú tài (tốt nghiệp cấp 3). Sau đó em tiếp tục đi học cao hơn và trở thành Y Sĩ Đông Y, rồi em kiên trì học nữa và trở thành Y Sĩ Tây Y. Sau đó em về làng mình để phục vụ những người trong làng và các làng chung quanh làng của em. Em rất giỏi, rất có tình thương yêu đồng bào dân tộc của mình. Có một điều đáng khâm phục ở nơi em, ấy là em còn phụ trách về y tế lưu động nữa. Người dân tộc không chịu đi khám bệnh nơi bệnh viện hay trạm xá vì làng của họ ở xa, thế nên nếu muốn tốt cho họ, muốn chữa bệnh cho họ thì em phải tới nhà của họ. Em còn phải phụ trách nhà trẻ ở trong làng của mình. Các em xem lễ sốt sắng
  • 36. 36 Thế là cha của em trong làng tổ chức một cái lễ gọi là Lễ Báo Hiếu. Tôi được mời tới dự buổi lễ đó, trong buổi lễ người ta mặc cho tôi cái áo của người dân tộc và còn tặng cho tôi một cái “băn” (khăn choàng) của người dân tộc nữa. Cha của em nói với tôi trước mặt dân làng: - Người dân tộc chúng tôi sinh con dễ hơn nuôi con, nuôi con dễ hơn dạy con. Vợ chồng tôi sinh con, mà người nuôi dạy con tôi là cha Đông. Đối với người dân tộc chúng tôi thì dạy con là điều khó khăn nhất, mà cha Đông đã nuôi và dạy con tôi thành người nên bây giờ nó là con của cha Đông. Vậy nên: Điều khó khăn nhất đối với người dân tộc là việc dạy dỗ con cái. Trở ngại lớn nhất cho các học sinh người dân tộc là vấn đề về sách giáo khoa: Các sách giáo khoa toàn là bằng chữ Việt, thầy cô dạy học giảng bài toàn là bằng tiếng Việt. Chúng tôi mở được một số nhà giữ trẻ trong các làng. Điều thuận lợi trong các nhà trẻ của chúng tôi (như đã đề cập ở trên) là các cô giữ trẻ người dân tộc dạy trẻ em người dân tộc. Trong khi đó các cô dạy trẻ người Kinh dù có bằng cấp sư phạm, có rành tâm lý gì đi nữa thì khi nuôi dạy trẻ em người dân tộc, cao lắm chỉ một tháng mà thôi, sau đó các nhà trẻ vắng ngắt. Bởi vì các trẻ em người dân tộc không tới nhà trẻ nữa mà ở nhà hết trơn, có nói cách gì hay có năn nỉ cách mấy nó cũng không chịu đi. Các em người dân tộc nào may mắn được nuôi dạy trong các nhà giữ trẻ tại làng, do tôi hay do các linh mục, các nữ tu mở ra thì chỉ chừng 2 hoặc 3 năm là các em sẽ biết ít nhiều tiếng Kinh, biết kỷ luật của nhà trường... nên dễ dàng khi vào lớp 1. Điều đáng mừng và đáng khích lệ cho các nhà trẻ của chúng tôi là các cô giáo dạy lớp 1 rất thích
  • 37. 37 nhận các trẻ em người dân tộc đã ở trong nhà trẻ của chúng tôi. III. Về việc học hành. - Đối với người Kinh: Khi các con của người Kinh đến độ tuổi đi học thì cha mẹ lo tìm trường mẫu giáo nào tốt để gởi con mình vào đó. Rồi khi con đến tuổi vô lớp 1 thì cha mẹ lo sắm sửa đủ mọi thứ như áo quần, cặp xách, sách giáo khoa, tập vở, đồ dùng học tập... Nói chung là không thiếu một thứ gì. Nhà nào giàu thì mua cho con đồ thật tốt, nhà nào thiếu hụt thì cũng ráng đi vay nơi này, đi mượn nơi khác để mua sắm cho con mình. Họ không để cho con cái của mình bị thua kém ai. Điều dễ dàng và thuận tiện cho các em người Kinh khi đi học là các em học sách giáo khoa bằng tiếng Việt, thầy cô giáo cũng là người Việt. Ngoài giờ học ở trường ra các em còn được đi học thêm, khi về nhà thì cha mẹ kiểm tra bài vở của con mình, vì cha mẹ người Kinh hầu như ai cũng có trình độ văn hóa khá. Đó chính là những điều kiện thuận tiện và rất có lợi cho các em học sinh người Kinh. - Đối với người dân tộc: Người dân tộc có nhiều sắc tộc với những tiếng nói khác nhau, trong khi đó sách giáo khoa vẫn hoàn toàn là tiếng Việt, thầy cô giáo cũng là người Việt. Nếu không chuẩn bị một chút ít vốn liếng tiếng Việt cho các em dân tộc, thì các em rất lúng túng khi vào lớp 1. Nhưng được một điều là các em học tiếng Kinh rất nhanh, nhất là những em đã từng được ở trong các nhà trẻ. Tuy nhiên theo sự suy nghĩ của tôi thì các trẻ em người dân tộc vẫn chịu nhiều thiệt thòi trong việc học hành, vì tiếng Việt đối với người dân tộc không phải là tiếng mẹ đẻ. Thêm một điều này nữa: Cha mẹ của các em hầu hết không biết chữ nên không thể nào kiểm tra bài vở cho
  • 38. 38 con cái, hoặc là giúp cho con cái trong việc học hành. Với lại người dân tộc vốn đã nghèo nên không có tiền cho con mình đi học thêm. Với ba cái không: Không biết chữ. Không biết đọc. Không biết viết. Là những yếu tố tạo nên sự thiệt thòi cho các em. Tôi được người ta kể cho nghe một chuyện như thế này: Trong một buổi lễ rửa tội cho những người dân tộc ở một làng nọ, có rất nhiều người cầm bảng tên của mình đưa lên cao để linh mục kêu tên mình lên mà làm phép rửa tội. Nhưng vì không biết chữ nên họ cầm bảng tên của mình lộn ngược, lộn xuôi, ngang, dọc, làm vị linh mục đó phải xoay tấm bảng sao cho đúng vị thế mới đọc được tên của họ. Thật là tội nghiệp, đáng thương cho người dân tộc vì họ không biết chữ nên không biết phải cầm bảng tên của mình sao cho đúng. Như thế chúng ta thấy rằng con cái của người dân tộc chịu nhiều thiệt thòi khi đi học. Các em học cấp 1 mà đạt được trung bình thì cũng đáng mừng lắm rồi. Bây giờ thì Nhà Nước cũng đã có mở trường cho các em người dân
  • 39. 39 tộc. Chỉ mong sao các cô giáo, thầy giáo có được một tấm lòng biết tận tình thương yêu các em, lo cho các em, chứ cứ đua nhau chạy theo thành tích, thì đôi khi các em được lên lớp nhưng trình độ học vấn, sổ điểm của các em không ngang tầm với sức học thực sự. Cho nên có em lên tới lớp 5 là không học được nữa vì bị mất căn bản. Có những em dù có bằng tiểu học (còn gọi là bằng tốt nghiệp cấp 1), nhưng khi viết một câu văn cũng không viết được vì không rành chữ Việt, đọc tiếng Việt cũng không xong. Về phía Giáo hội thì rất nhiều lần tôi cũng đã xin các linh mục, các tu sĩ nam nữ ở các nơi, nếu có điều kiện, và có thể được hãy giúp đỡ cho các em học sinh dân tộc, tạo điều kiện cho các em có cơ hội học thêm các môn học, nhất là môn tiếng Việt, vào buổi sáng hay buổi chiều gì đó tùy theo thời khóa biểu của trường, lớp em đang theo học, rồi cho các em được một bữa ăn no tại nhà của các nữ tu mà em đang được học thêm, do các sơ phụ trách. Các em nhỏ tại nhà nội trú làng phong Dakkia, Kontum
  • 40. 40 Lớp dạy hè cho các em học sinh dân tộc Có nhiều nơi các linh mục, các nữ tu đã sốt sắng đáp ứng lời kêu xin tha thiết của tôi, nên họ đã tổ chức những nhà nội trú để các em được ở lại.
  • 41. 41 Đáng buồn và đáng tiếc là có những nơi lại gặp khó khăn, vì người ta làm khó không cho các em được ở trong nhà nội trú do các sơ hay các linh mục tổ chức. Tôi không biết lý do làm sao? Mục đích của Hội Thánh là chỉ muốn làm cho con người được thăng tiến mà thôi, một khi muốn con người thăng tiến thì nhất định phải tạo cho các con em người dân tộc có nhiều cơ hội và điều kiện để các em được học hành tới nơi tới chốn. Đừng vì bệnh thành tích, cũng đừng vì e ngại sợ ảnh hưởng đến chỗ này chỗ nọ, rồi vô tình dẫn đến vô tâm, làm cản trở công việc tốt đẹp của các linh mục, các nữ tu đầy thiện chí lo cho các em người dân tộc. Tôi rất buồn vì điều này, nhưng nói thì biết nói với ai bây giờ? Thôi thì có buồn, có thương các em người dân tộc thì cũng đành chịu vậy, nếu làm được điều gì tốt cho các em thì tôi làm. Mỗi năm vào dịp nghỉ hè tôi thường vận động những sinh viên Công giáo tình nguyện đi tới giúp ở các làng dân tộc. Mục đích là để tập trung các em lại, dạy cho các em tập nghe và tập nói tiếng Việt, giúp các em chuẩn bị bài vở cho năm học tới. Những sinh viên Công giáo tình nguyện này còn đi vận động các nơi để xin sách giáo khoa cho các em. Đây là việc làm đầy tính nhân văn, một việc làm tốt đẹp, đem đến cho các em người dân tộc những lợi ích thiết thực. Có những nơi chính quyền địa phương vui vẻ, nhiệt tình hưởng ứng và đón nhận. Nhưng thật đáng buồn và đáng ngạc nhiên khi có những nơi khác thì người ta lại làm khó, đòi hỏi phải có các thứ giấy phép này nọ của Nhà Nước thì mới cho phép hoạt động. Vậy thì... các sinh viên tình nguyện muốn làm công tác tốt cho các em dân tộc đành cuốn gói ra đi, ai về nhà nấy mà trong lòng thì rất buồn, ngậm ngùi xót xa, vì không thể thực hiện được lòng mong ước của mình!
  • 42. 42 Cha Đông (ngồi giữa) với các đệ tử của ngài Đôi lời tâm sự Cũng như các em sinh viên Công giáo tình nguyện, tôi cũng rất buồn về điều này. Thật sự thì người dân tộc chịu rất nhiều thiệt thòi về việc dạy dỗ con cái, còn các em dân tộc thì chịu thiệt thòi trong việc học hành. Tôi là một linh mục cao tuổi rồi, nhưng tôi vẫn nhận nhiệm vụ phụ trách về ban Bác ái xã hội của Caritas Kontum. Cuộc đời linh mục của tôi gắn bó với những người dân tộc, nhất là những người dân tộc nghèo, những người bị bệnh phung cùi và các thứ bệnh khác. Sự gắn bó đó làm cho tôi đau với nỗi đau của họ, hầu như không lúc nào mà tôi không nghĩ tới họ. Tôi cũng là linh mục Tổng Đại Diện Giáo Phận Kontum, tôi thường hay kêu gọi các anh em linh mục của mình, các tu sĩ nam nữ ở những nơi khác, hoặc là nơi mình đang sinh hoạt và phục vụ, vì ở những nơi đó có thể cũng gặp phải nhiều khó khăn về các vấn đề như: - Thứ nhất là khó khăn về tiền bạc: Nếu một khi gặp sự thiếu thốn về tiền bạc, nhưng vì tạo điều kiện học hành cho
  • 43. 43 các em, thì chúng ta cần vận động những người có thành tâm thiện chí giúp đỡ để lo cho các em. - Thứ hai là khó khăn về phía chính quyền: Đây là điều nhức nhối hết sức. Các vị có chức quyền ở trong xã, trong thôn thường tạo ra những khó khăn để làm cản trở công việc Bác Ái Xã Hội. Tôi thật sự ngạc nhiên hết sức khi có người nói với tôi là: nếu tôi muốn làm công việc từ thiện thì phải làm đơn xin phép. Thật quá mỉa mai! Tôi vừa buồn cười lẫn tức cười, khi thấy người ta đói gần chết, muốn cho người ta chén cơm ăn để cứu đói mà phải làm đơn xin phép trình lên các cấp..sao? Một chính quyền thương dân và lo cho dân, thì phải biết khuyến khích những người làm việc tốt cho dân của mình, chứ sao lại bắt phải xin phép ? Nhưng vì tình thương đối với người dân tộc nên tôi luôn xin các linh mục, các tu sĩ nam nữ hãy cố gắng hết sức để làm cho người ta hiểu rằng: công việc của mình làm là phục vụ cho cộng đồng, cho con người mà thôi. Cho nên nếu có gặp khó khăn thì xin đừng nản lòng chùng bước. Đức Thánh Cha Phanxicô đã bảo chúng ta rằng: "Hãy mở cửa ra, hãy lên đường, hãy làm việc tốt. Đừng sợ !” Vậy chúng ta hãy can đảm làm việc tốt. Nếu vì làm việc tốt mà chúng ta gặp phải những khó khăn, những trở ngại thì chúng ta hãy cố gắng vượt qua. Gíá trị của đời người không phải là cái quyền hành mình nắm trong tay, mà chính là tấm lòng yêu thương, phục vụ của mình đối với những người nghèo khổ, những trẻ em dân tộc chịu lắm thiệt thòi. Thiên Chúa đã dạy chúng ta phải biết yêu thương trẻ em và bênh vực những con người nghèo khó. Một khi đã yêu thương thì phải phục vụ họ. “ Phục vụ là cho không, phục vụ là quên mình, phục vụ không đòi đền đáp, phục vụ
  • 44. 44 ân nghĩa không chờ. Phục vụ là cho không, phục vụ là quên mình, phục vụ là cho không, phục vụ vì Chúa Kitô” (Bài ca phục vụ - Lm Mi Trầm) Rất mong là tất cả chúng ta hãy nghe lời Chúa dạy, Ngài luôn luôn thiết tha kêu mời, nhắc nhở chúng ta rằng: " Hãy thương yêu người nghèo khổ và hãy giúp đỡ họ, vì đó là kho tàng hạnh phúc của chúng ta trên Nước Trời." Lạy Chúa là Đấng từ bi nhân hậu. Ngài rất thương yêu người nghèo khổ bệnh tật. Ngài luôn dạy chúng con phải biết yêu thương giúp đỡ người nghèo khó. Xin cho chúng con luôn một lòng vâng theo ý Chúa, vui sống để phục vụ những người nghèo khổ, noi theo gương sáng của mẹ Têrêxa Calcutta. CHƯƠNG BA THÀNH QUẢ LÀ SỰ ĐƠM HOA KẾT TRÁI.
  • 45. 45 Theo sự suy nghĩ của tôi thì khi chúng ta làm bất cứ công việc gì cũng đều mong cho công việc đó được thành công tốt đẹp. Ví dụ như khi ta trồng một vườn hoa, một vườn cây ăn trái, hay xây căn nhà, vẽ những bức tranh v.v... Chúng ta đều mong rằng vườn hoa sẽ cho ta những đóa hoa thắm tươi, thơm ngát, vườn cây ăn trái sẽ kết những hoa trái thật ngon ngọt, căn nhà sẽ vững chắc, những bức tranh thật sống động... Trong công việc giáo dục cũng thế, khi chúng ta làm công việc nuôi dạy trẻ có nghĩa là chúng ta đang trồng người. Trồng người rất khó, nó không đơn giản, dễ dàng như khi ta trồng cây, vì con người có tâm hồn, biết tư duy, là một nhân vị, một bản thể riêng biệt, không ai giống ai. Khi ta làm công việc nuôi dạy các trẻ em người Kinh hay người dân tộc, chúng ta cũng mong đạt kết quả tốt đẹp là được nhìn thấy các em nên người, sống có ích cho xã hội. Đề cập đến tính cách của các trẻ em người dân tộc, từ lâu tôi đã nhận ra được một điều là các em có khá nhiều ưu điểm. Đối với tôi những ưu điểm này được xem như là những thành quả của sự đơm hoa kết trái từ những giá trị tinh thần truyền thống. I. Giá trị nền văn hóa truyền thống của người dân tộc Riêng về phía người dân tộc, thì kết quả hoa trái đạt được của việc giáo dục không phải có được từ nhà trường, nhưng là do những nét văn hóa truyền thống rất đặc biệt mà người dân tộc đã có từ lâu đời. Một lần tôi và một số người Kinh ở Sài gòn đến thăm một làng dân tộc nọ, các em dân tộc đang đi ngoài đường vừa thấy chúng tôi vào làng liền đưa tay lên vẫy chào, vui vẻ cười tươi như hoa. Có những em đang ở trong nhà nhưng khi nhìn thấy chúng tôi, các em cũng vội vàng chạy ra khoanh tay cúi đầu chào rất lễ phép. Những người từ Sài gòn lên trố mắt nhìn tôi đầy ngạc nhiên. Họ trầm trồ khen ngợi sự niềm nở, vui vẻ dễ thương và rất lễ phép của các em.
  • 46. 46 Họ nói với tôi: - Điều này cha tìm cho ra ở Sài gòn thì chắc chắn là khó lắm, ngay cả ở trong các xứ đạo cũng rất hiếm. Tôi cũng có nhận xét như họ. Ngay các xứ đạo của người Kinh ở tại Pleiku cũng đã khó tìm thấy những nụ cười vui vẻ, đầy thành ý nhiệt tình khi chào khách, như cung cách của người dân tộc. Với những đức tính có sẵn của người dân tộc như: lễ phép, vui vẻ, nhiệt tình, ngay thẳng, thật thà... thì đó chính là giá trị của nền văn hóa truyền thống mà người dân tộc được thừa hưởng từ xa xưa, đời nọ nối tiếp đời kia. Những đức tính này được xem như là một qui luật tất yếu của họ. II. Phải biết nhìn nhận và tôn trọng giá trị tinh thần của người dân tộc. Chúng ta cho rằng người dân tộc ngu dốt, không văn minh nên đã xem thường họ, thậm chí có những người còn khinh miệt họ nữa. Chúng ta không chịu nhìn nhận những ưu điểm của người dân tộc: Đó là tấm lòng của họ đối với nhau, đối với khách, là tính tình chân thật, đơn sơ hòa nhã. Những đức tính này của họ rất đáng quí và đáng cho chúng ta trân trọng. Họ hơn hẳn chúng ta về điều đó.
  • 47. 47 Đây chính là những hoa trái mà người dân tộc có được từ nền văn hóa truyền thống và từ tấm lòng của họ nữa. Như tôi vừa tâm sự ở trên, cuộc đời linh mục của tôi từ lâu đã có sự gắn bó mật thiết với người dân tộc, nhất là những người dân tộc nghèo mà còn bị bệnh nữa. Tôi chạnh lòng xót xa khi nhìn thấy sự đau đớn tuyệt vọng trong đôi mắt của những người bị vướng vào bệnh phong cùi. Tôi suy nghĩ và tự hỏi rằng: Sự gắn bó này phải chăng là cơ duyên của tôi? Có phải chính vì sự gắn bó từ mối cơ duyên này mà tôi luôn thao thức trăn trở, luôn tìm đủ mọi cách để giúp đỡ cho người dân tộc, và phải chăng đây là "mối duyên tình" của chúng tôi?
  • 48. 48 Tôi tin rằng chính Thiên Chúa đã tạo nên mối duyên tình này cho chúng tôi, cũng như Ngài đã tạo nên mối cơ duyên cho các vị Thừa sai thuở trước. III. Các trẻ em dân tộc và những việc chúng tôi làm. Tôi rất ưu tư khi thấy các trẻ em dân tộc chịu nhiều thiệt thòi, tôi hết sức xót xa khi thấy cuộc sống của các em bị thiếu thốn đủ mọi thứ. Và tôi luôn tâm niệm rằng: chúng ta cần phải làm điều gì đó để có thể đem lại cho các em người dân tộc những lợi ích dù thật nhỏ nhoi, nhất là làm vơi bớt những thiệt thòi mà các em đang phải gánh chịu. Điều đáng thương là các em không ý thức về những điều thiệt thòi đó. Với những lo lắng và nỗi ưu tư luôn canh cánh trong lòng, tôi băn khoăn tự hỏi "chúng ta cần phải làm gì cho trẻ em người dân tộc?" Và đây là những công việc mà chúng tôi đã làm để trả lời cho câu hỏi của chính tôi: 1. Mở các khóa học bổ túc văn hóa. Tôi thường mở các khóa học bổ túc văn hóa cho các em dân tộc, nhất là trong những tháng hè, các em sẽ tập
  • 49. 49 trung tới nhà sinh hoạt của giáo xứ tôi. Tại đây các em được: Lớp học hè tại GX Kon Duh, Kontum - Chuẩn bị về việc học hành trong năm học tiếp theo. - Học thêm về giáo lý, đạo lý làm người theo cách nhìn của Tin Mừng. Có một số các em người Kinh cũng theo học với các em dân tộc. - Các em được học về các nhân vật trong Cựu Ước như học biết về ông Abraham, ông Moisen, Vua Đavit… Có sự khác biệt nhau giữa các em người dân tộc và các em người Kinh sau mỗi lần làm bài kiểm tra: Với các em người dân tộc, khi làm bài các em có những tâm tình sâu lắng, có sự suy nghĩ sâu sắc, bài viết của các em hơn hẳn bài làm của những em người Kinh cùng một độ tuổi. Nhất là khi các em phát biểu cảm tưởng của mình trong thời gian 1, 2 tháng ở trong nhà tôi, các em viết về
  • 50. 50 những người phục vụ cho các em, lời và ý của em diễn tả rất hay, đầy tình cảm thật dễ thương, làm cho người đọc rất xúc động. Trong khi những em người Kinh viết thì không hay bằng. Vậy kết quả của sự "đơm hoa kết trái" mà các em người dân tộc có được là từ đâu? và do đâu? Câu trả lời là: Ngay chính ở nơi người dân tộc đã có truyền thống tốt đẹp như thế rồi. Do được các Linh mục, các nữ tu dạy cho các em những vấn đề liên quan đến nền giáo dục Kitô giáo, về nhân văn, đạo nghĩa làm người... Các em người dân tộc tiếp thu nhanh những điều được học qua sự dạy dỗ của các linh mục, các nữ tu và xem những điều học được như là một "cái gì đó" vô giá, rất cần được gìn giữ. Còn các em người Kinh thì không như vậy. 2. Tổ chức các khóa sinh hoạt tập thể: Mỗi khi có tổ chức sinh hoạt tập thể, ngoài những trò chơi ra, thường thì bao giờ cũng hát lại những bài hát cũ, rồi sau đó sẽ tập những bài hát mới. Người dân tộc có tính cộng đồng, nên đối với các em người dân tộc khi sinh hoạt tập thể, các em thích tập bài hát mới và thuộc rất nhanh. Cũng như khi tập những điệu múa gọi là dân vũ, các em tập cũng nhanh. Cho các em dân tộc một cái dĩa VCD tập về dân vũ có hình ảnh, các em đem về làng của mình, nếu có máy thì sẽ mở máy ra và thế là các em trong làng cùng xem, cùng hát và cùng nhảy múa với nhau. Trong khi đó các em người Kinh, nếu có cho nó thì nó cũng đem về nhà nhưng rồi liệng (ném) ở đâu đó, dù cái đĩa đó hát bằng tiếng Việt. Nói đâu cho xa, ngay cả chính tôi cũng không thuộc một câu nào, còn các em dân tộc hát hết bài này tới bài khác, làm cho tôi khi nghe cũng cảm thấy rất vui cái lỗ tai. Thật tình mà nói, mỗi khi tôi mở các khóa sinh hoạt như thế này cũng tốn rất nhiều tiền, nhưng tôi lại cảm thấy bằng
  • 51. 51 lòng với những gì mình đã bỏ ra để lo cho các em. Làm cho các em nhỏ vui là niềm hạnh phúc của tôi. Vì đó là những hoa trái, là những kết quả có được từ một truyền thống lâu đời, và từ cách giáo dục theo tinh thần của Tin Mừng mà các linh mục, các nữ tu đã dày công dạy dỗ và lo lắng cho các em. Chính những yếu tố tốt đẹp đó đã làm nên tính cách đặc biệt, dễ thương nơi những người dân tộc. Tôi luôn thiết tha mong muốn các linh mục, các sơ hãy tiếp tục lo cho các em về vấn đề này. Người dân tộc có những điều kiện để phát triển tinh thần, đời sống cộng đồng tốt hơn người Kinh. Chẳng hạn như sinh hoạt cồng chiêng: muốn tham gia bao nhiêu người cũng được, từ 30 đến 40 người cũng tốt. Ai có cồng chiêng cứ việc đem ra cùng nhau đánh, cùng nhau nhảy, cùng nhau ca hát, vui vẻ cả làng. Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã được Unesco công nhận là: Di sản văn hóa phi vật thể. N goài những ưu điểm nói trên của người dân tộc, thì cũng không làm sao tránh khỏi những điều đáng buồn và đáng tiếc. Xã hội ngày càng thay đổi, đời sống của con người
  • 52. 52 ngày càng đổi thay, và vì thế nên người dân tộc cũng không thoát ra khỏi qui luật của sự đổi thay đó. Ngày xưa các làng dân tộc thường hay đem quân đi đánh nhau, dân làng này đánh với dân làng nọ. Thời nay thì họ không có đánh nhau nữa, thế nhưng những người ở trong làng với nhau thì họ lại cãi cọ rồi đánh lộn nhau. Nguyên nhân nhiều nhất là từ việc uống rượu bia, uống rượu nhiều làm cho họ dễ nổi nóng rồi sinh sự gây gổ với nhau vì những chuyện không đâu, mà đánh nhau vì gái cũng có. Ngày xưa người dân tộc chỉ uống rượu ghè do họ làm ra, loại rượu này rất nhẹ. Nhưng từ khi người Kinh đưa nhau lên Tây Nguyên sống gần với người dân tộc, mở quán xá buôn bán "lung tung xèng", đủ các thứ thượng vàng hạ cám... trong đó nhiều nhất là rượu bia, đồ nhậu. Bây giờ thì người dân tộc bắt chước người Kinh uống các thứ rượu mạnh, như là rượu đế chẳng hạn. Rượu càng mạnh thì người uống càng dễ bị say xỉn, mà đã say xỉn thì mất hết lý trí. Hễ ra đường là quậy làng phá xóm, mà về nhà thì đánh đập vợ con. Đó là một tệ nạn hết sức nhức nhối không phải chỉ cho gia đình và xã hội mà thôi đâu, mà nó còn ảnh hưởng không tốt đối với Giáo hội. Các linh mục và các tu sĩ nam nữ đã cố gắng hết sức để vận động làm sao cho người dân tộc bỏ bớt rượu, nhưng sự cố gắng này kết quả xem ra chẳng được là bao nhiêu, bởi vì "ở bầu thì tròn, ở ống thì dài". Lời khuyên bảo của các linh mục, của các tu sĩ nam nữ không hấp dẫn, không lôi cuốn bằng lời mời gọi của rượu bia! VI. Kết luận từ những thành quả có được. Tôi là linh mục, đã sống đời sống linh mục được 43 năm rồi. Tôi nhận thấy, những hoa trái mà ta cho rằng có được từ kết quả của việc giáo dục trong gia đình, hay trong học đường của người Kinh và người dân tộc có sự khác biệt nhau:  Với người dân tộc:
  • 53. 53 Những kết quả hoa trái thu hái được từ sự giáo dục nơi người dân tộc có nhiều hơn. Mặc dù họ không có bằng cấp, không có những điều kiện để đời sống của họ được văn minh, nhưng người dân tộc có một tấm lòng biết chia sẻ, cùng với những tình cảm chân thật và đầy tính nhân văn. Trong những lần tổ chức các buổi lễ sinh hoạt cộng đồng thì những buổi lễ của người dân tộc có phần nghiêm trang, đạo đức, trật tự hơn, và nhất là họ chịu khó im lặng để lắng nghe.  Với người Kinh: Không phải là tôi kỳ thị, vì tôi cũng là người Kinh mà. Tôi cũng không thiên vị người dân tộc mà có thành kiến với người Kinh đâu. Tôi chỉ công bằng khi đưa ra những nhận xét có tính khách quan mà thôi. Theo tôi nhận thấy nếp sống của người Kinh có nhiều điều kiện tiếp cận nền văn minh kỹ thuật, nên đời sống của họ được nâng cao với những tiện nghi vật chất đầy đủ. Thường thì phần đông người Kinh có trình độ học vấn khá, có những người có bằng cấp cao, có người mà địa vị trong xã hội thì "hét ra lửa". Thế nhưng đáng tiếc là người Kinh thiếu tính cộng đồng trong sinh hoạt, ít có sự đoàn kết. Ai cũng muốn làm quan để ra lệnh cho người khác. Tóm lại thì đây cũng là nhận xét của rất nhiều người đã từng sống lâu năm với người dân tộc trên vùng đất Tây Nguyên này. Mong sao những người Kinh cũng có được những nét văn hóa dễ thương, tốt đẹp như của người dân tộc. Chúng ta là những người Kinh, xin hãy mở rộng tâm hồn để yêu thương anh em dân tộc, và hãy dang rộng đôi tay nâng đỡ những con người kém may mắn hơn chúng ta, nhất là những trẻ em người dân tộc đang phải chịu nhiều thiệt thòi. CHƯƠNG BỐN
  • 54. 54 NGƯỜI DÂN TỘC CÒN MANG RẤT NHIỀU BỆNH Câu "Sinh Lão Bệnh Tử" đã có từ ngàn xưa. Con người khi Sinh ra thì cũng không qua khỏi được chữ Gìà, chữ Bệnh và cuối cùng là chữ Chết! Luận về chữ Bệnh, đối với người Kinh hay người dân tộc thì không có gì khác nhau. Thế nhưng người Kinh lại có một câu thành ngữ với hàm ý ví von rất hay, ấy là câu: "Nhà giàu đứt tay ăn mày đổ ruột". Chúng ta có thể phân tích câu này với 2 ý nghĩa: Thứ nhất - Nhà giàu chỉ mới bị bệnh nhẹ thôi mà đã ba chân bốn cẳng vội vàng lo thuốc men chữa trị, bởi vì họ giàu, họ có sẵn tiền. Còn nhà nghèo thì sao? vì không có tiền chữa trị ngay, nên bệnh càng lúc càng nặng, đến khi
  • 55. 55 chịu hết nổi rồi lúc đó họ mới chạy vạy lo tiền để đi chữa bệnh. Thứ hai - Nhà giàu chỉ mới bị "đứt tay" có chút xíu mà đã kêu la ầm ĩ, rên rỉ xuýt xoa, y như là bị đau đớn ghê lắm. Cầm bằng như "ăn mày bị đổ ruột" vậy đó. Cái đau vì bị đứt tay của nhà giàu bằng cái đau của người nghèo khi bị đổ ruột! Người Kinh khi vừa mới chớm bệnh, nhờ có nhiều điều kiện dễ dàng nên chữa trị liền. Trong nhà của người Kinh thường có một tủ thuốc. Trong tủ thuốc lúc nào cũng có sẵn các thứ thuốc để trị những bệnh thông thường như: nóng sốt, cảm, ho, tiêu chảy, đau bụng... Nhưng người dân tộc thì không được như thế. Nên khi họ bị bệnh, lúc đầu bệnh chỉ nhẹ thôi nếu có thuốc uống thì bệnh sẽ khỏi, nhưng vì họ không có thuốc, cũng không có tiền mua thuốc để uống nên bệnh lúc đầu tuy nhẹ, càng để lâu ngày bệnh của họ càng nặng, càng khó chữa lành. A. Nguyên nhân người dân tộc mang nhiều bệnh. Như tôi đã nói sơ qua ở trên, sở dĩ người dân tộc thường bị nhiều thứ bệnh, ấy là vì họ không được chữa trị ngay từ lúc mới phát bệnh, cả người lớn và trẻ em đều như nhau, nhất là những người già, hầu như họ không hề đi kiểm tra sức khỏe. Về điều này ta có thể so sánh sự khác nhau giữa người Kinh và người dân tộc. Về phía người Kinh: Người Kinh có nhiều điều kiện để chữa bệnh khi họ mới vừa phát hiện mình bị bệnh, đó là: Họ có tiền, hoặc dù thiếu tiền thì họ sẽ đi vay mượn để có tiền chữa bệnh cho con, cho người nhà, khi họ biết con mình hay người nhà bị bệnh. Người Kinh thường đưa con đi khám sức khỏe định kỳ, kể cả người lớn cũng vậy.
  • 56. 56 Người Kinh khá chu đáo trong việc gìn giữ sức khỏe cho con em mình. Họ theo dõi sát sao các lịch trình chích ngừa cho trẻ em, và ghi nhớ kỹ để đến ngày thì đưa con mình đi chích ngừa. Người Kinh ăn uống hợp vệ sinh nên ít bị bệnh đường ruột, ít bị sán lãi. Nếu con họ bị lãi thì họ biết cách cho con mình uống thuốc xổ lãi. Về phía người dân tộc: Người dân tộc không có thói quen chăm sóc bản thân cũng như chăm sóc sức khỏe cho mình nên họ dễ bị bệnh. Người dân tộc không có ý niệm gì về các loại bệnh như: sốt bại liệt, lên sởi, uốn ván, lao, siêu vi B... (những bệnh này thường phải chích ngừa cho trẻ em) nên họ cũng không theo dõi lịch trình chích ngừa cho con cái của họ. Trong vấn đề ăn uống, họ cũng không biết gìn giữ vệ sinh cho đúng. Vì vậy người dân tộc rất dễ mắc bệnh nhiễm trùng, nhất là bị sán lãi. Nên ta thấy bụng của các em người dân tộc rất to, tay chân khẳng khiu, da mặt xanh xao, tái mét. Tiền bạc là yếu tố chính. Vì không có tiền nên khi người nhà bị bệnh, cần có tiền chữa bệnh thì họ phải bán con bò, mà đối với người dân tộc thì con bò là cả một gia tài. Nhiều khi phải bán luôn cả đất, nhưng muốn bán đất nhanh thì bán cho người Kinh mới nhanh có tiền. Mà người Kinh khi biết một người dân tộc đang cần tiền chữa bệnh cho người nhà thì họ ép giá để mua hết sức rẻ so với giá trị thật của lô đất đó. Điều đáng thương cho người dân tộc là những lúc đó vì quá cần tiền nên họ đành phải bán cả lúa non, cà phê non để có tiền chữa bệnh cho người nhà, cho con của mình. Làm suốt năm không đủ ăn thế mà phải bán lúa non, cà phê non thì coi như họ phải chịu đói cả năm.
  • 57. 57 Điều này thật đáng thương cho người dân tộc, đây cũng là vấn đề làm cho tôi nhức nhối cả tâm can. B. Những việc làm của các linh mục, các tu sĩ nam nữ để giúp đỡ người dân tộc. Trước tình trạng đáng thương của người dân tộc như thế, các linh mục, các tu sĩ nam nữ trong Giáo Phận Kontum đã cố gắng rất nhiều để giúp đỡ họ. Chính nhờ quyết tâm lo lắng giúp đỡ họ, nên mỗi khi có chương trình chích ngừa thì các linh mục, các nữ tu vận động, hướng dẫn họ đưa con đi chích ngừa, cho con cái được xổ lãi. Nhờ vậy mà hiện nay tình trạng bệnh tật của con cái họ cũng bớt đi khá nhiều. Có ba yếu tố quan trọng làm cho người dân tộc gặp nhiều khó khăn và trở ngại khi muốn đưa người nhà đến bệnh viện để chữa bệnh, đó là: Yếu tố tiền bạc: Tiền bạc là vô cùng cần thiết khi phải đến bệnh viện. Một khi người thân bị bệnh mà trong nhà không có tiền thì sẽ gặp nhiều khó khăn trở ngại, vì mọi thứ cần thiết đều phải mua, từ ấm nước sôi, ly sữa, chén cháo, bông băng, những viên thuốc v.v... đều đòi hỏi phải có tiền để mua. Nếu có Bảo Hiểm Y Tế thì còn đỡ, nếu không thì đó là cả một vấn đề, tốn kém rất nhiều. Thật tội nghiệp và đáng thương cho những người dân tộc nghèo. Khó khăn nhất cho họ là việc đầu tiên khi đến bệnh viện thì phải có tiền lót tay. Lúc đó mới dễ dàng tiếp cận với các nhân viên của các cơ sở y tế và được các nhân viên y tế vui vẻ đón tiếp. Đây là điều hết sức nhức nhối. Thật đáng trách đối với những người có chức năng trong ngành y tế và rất đáng thương cho những người dân tộc nghèo! Nhiều linh mục và các tu sĩ nam nữ đã vận động, kêu gọi những nhà hảo tâm, các vị mạnh thường quân người Kinh giúp đỡ cho các trường hợp người dân tộc phải bán lúa non, cà phê non để có tiền đưa người nhà đi bệnh viện
  • 58. 58 điều trị... Có nhiều người Kinh rất tốt, họ cũng thương người dân tộc nên khi được vận động là họ sẵn lòng chia sẻ ngay. Tôi rất trân trọng: Các linh mục, các tu sĩ nam nữ đã làm rất tốt công việc này. Đây chính là tình thương, là sự phục vụ và là những hành động đúng theo Tin Mừng của Chúa. Những nhà hảo tâm, những vị mạnh thường quân người Kinh đã hưởng ứng lời kêu gọi, nhiệt tình đóng góp tiền bạc để giúp đỡ cho người dân tộc gặp khó khăn, hoạn nạn. Các trạm xá lưu động cũng như các trạm xá tại chỗ đã tạo điều kiện thuận lợi, để giúp cho người dân tộc bồng con của mình hoặc đưa người nhà của mình tới những nơi đó chữa bệnh. Từ trên Đak Tô, Kon H'ring cho tới Kon Jơdreh và các nơi trong thành phố Kontum, các trạm xá nói trên đều khám miễn phí cho các trẻ em hoặc cho các bệnh nhân người dân tộc. Nếu người dân tộc có chút ít tiền bạc muốn trả thì các trạm xá ấy chỉ lấy phần nào tượng trưng cho tiền thuốc men, và lấy đúng giá của thuốc trong thời hạn còn sử dụng được. Lợi dụng sự không hiểu biết của người dân tộc nên nhiều người Kinh bán cá, bán mắm bên đường lại kiêm luôn nghề "dược sĩ" bán thuốc tây quá hạn từ năm nảo cho người dân tộc! Nhiều khi mua về uống thì tiền mất tật mang! Có nhiều người bồng con tới Bệnh Viện, mặc dù họ có Bảo Hiểm Y Tế, nhưng Bảo Hiểm chỉ cấp phát những loại thuốc thông thường. Còn những loại đặc trị thì phải bỏ tiền ra mua. Nếu không có tiền thì đành chịu thua, cho dù con họ bị bệnh nặng. Lại thêm một điều nhức nhối nữa rất tội nghiệp cho người dân tộc nghèo.
  • 59. 59 Chờ khám bệnh tại phòng Y tế nhà thờ Chính Tòa Kontum Có những em bé bị bệnh tim hay bị phỏng chẳng hạn, như trường hợp em Y Nôn ở KonPlong bị phỏng rất nặng. Mặc dù ngành y tế địa phương rất tận tình, tận lực chữa trị, nhưng vì em bị phỏng quá nặng nên phải đưa xuống bệnh viện Qui Nhơn, ở đó có Trung Tâm Da Liễu Trung Ương. Tôi có nhiều người quen làm Bác sĩ trong đó, họ điện thoại hỏi tôi: - Linh mục có đỡ đầu được cho em này không? Nếu không thì trường hợp này chắc là khó rồi. Ý họ muốn nói là ca phỏng của em quá nặng, cần có những loại thuốc đặc trị và một chế độ dinh dưỡng đặc biệt, phải có người chăm sóc riêng. Nhưng cha mẹ của em Y Nôn này quá nghèo, không có một đồng xu dính túi. Không thể đứng yên nhìn em bị chết, nên tôi đã vận động những người hảo tâm, những đoàn thể tài trợ giúp đỡ em để bệnh viện chữa trị bệnh phỏng cho em. Bây giờ thì em Y Nôn đã được mạnh khỏe rồi.
  • 60. 60 Không được tiếp đón: Bây giờ người nghèo dù là người Kinh hay người dân tộc đều rất e ngại khi phải đến bệnh viện, nhất là người dân tộc. Vì khi đưa người nhà đến bệnh viện, họ không được ai hướng dẫn phải làm gì để nhập viện, không biết thủ tục hành chánh cần phải có những giấy tờ gì, nếu có giấy tờ đem theo thì cũng không biết nộp ở đâu. Người dân tộc rất sợ sự lạnh lùng vô cảm của những người làm việc trong bệnh viện. Lập trường của tôi luôn đi với câu: Người ta có thể CHO mà không THƯƠNG, mặc dù câu Lương y như từ mẫu rất hay, nhưng cũng có câu gieo cái gì thì gặt cái nấy. Một khi không có tiền thì biết gieo cái gì đây ! Vấn đề giao tiếp: Hầu hết người dân tộc không biết tiếng Kinh. Nếu người nào biết thì cũng bập bẹ chút ít mà thôi, nhất là những người ở trong các làng xa xôi thì hầu như hoàn toàn không biết tiếng Kinh. Như tôi đã nói trong bài trước, trong đất nước Việt Nam có đến 54 sắc tộc nói các thứ tiếng khác nhau, nhưng tiếng phổ thông là tiếng Kinh. Đó là ngôn ngữ chính, tất cả mọi giao dịch hay các thứ giấy tờ, các văn bản hành chánh...v.v... đều bằng tiếng Kinh. Đặc biệt là người dân tộc không biết buôn bán vì họ không biết cân đo đong đếm, mà chỉ biết đem sản phẩm do họ làm ra để trao đổi các thứ họ cần như: mắm, muối chẳng hạn. Vì không biết tiếng Kinh nên ngại đi chợ, ngại đến những nơi có nhiều người Kinh, nhất là ngại phải vào bệnh viện. Các bệnh viện bây giờ có rất ít Y, Bác sĩ là người dân tộc. Người dân tộc chỉ biết nói tiếng mẹ đẻ của mình mà thôi. Cho nên khi người dân tộc đem con tới bệnh viện, cha mẹ không biết tiếng Kinh thì không thể trả lời những câu hỏi của Y, Bác sĩ. Và như thế, nhiều khi đến bệnh viện chữa bệnh cũng chẳng đi đến đâu, chẳng đạt được kết quả gì, dễ đưa đến tình trạng là thầy thuốc tỏ ra khó chịu còn bệnh nhân thì tủi thân.
  • 61. 61 Thường thì khi nào bệnh quá nặng người dân tộc mới chịu đến bệnh viện, riêng người già càng ngại đi bệnh viện. Lý do họ nêu ra nghe thật tội nghiệp đáng thương, như là: họ không có tiền, cũng không muốn phiền lụy đến con cái, để cho con cái phải bận tâm, phải đi nuôi bệnh rồi nương rẫy không ai làm... Vì những lý do đó mà người dân tộc già chịu đau nằm nhà chờ chết. Thế nhưng sau đó nếu người nhà bán được bò, lúa, cà phê non... nhất định đưa họ đi bệnh viện thì bệnh của họ đã nặng quá rồi, khó mà cứu chữa. Người dân tộc già mà bị bệnh thì họ đành cam chịu, chọn lựa ở nhà chờ chết hơn là đến bệnh viện để chữa trị. Đối với người dân tộc thì phải ở trong bệnh viện để chữa bệnh là cả một vấn đề khó khăn, chẳng hạn như họ không chấp nhận nổi cái mùi trong đó, họ cũng không thể đi vệ sinh chung trong cái "phòng" đó, vì "không đi được". Nên họ thường lén ra ngoài rồi kiếm bờ rào nào đó mà "đi" cho thoải mái, và "đi ngoài" như thế đối với họ thật là sướng !... Mong sao mà các linh mục cũng như các tu sĩ nam nữ ở những vùng xa xôi tận tình giúp đỡ, lo cho người dân tộc được tới bệnh viện chữa trị một khi họ bị bệnh. C. Những việc chúng tôi đã làm, đang làm và tiếp tục làm cho người dân tộc. Tổ chức thành lập nhóm Thiện nguyện. Chẳng hạn như ở bệnh viện tỉnh Gia lai có Dòng nữ tu Mến Thánh Gía Qui Nhơn. Những nữ tu này làm công việc phục vụ từ thiện, nấu cơm miễn phí cho những người nghèo đi nuôi bệnh. Mỗi ngày nấu chừng 200 phần cơm như thế. Ở bệnh viện Kontum chúng tôi cũng có một nhóm gồm nhiều anh chị em với nhiều tôn giáo khác nhau. Những anh chị em này lo bữa cơm từ thiện cho người nghèo tại Bệnh viện tỉnh Kontum.
  • 62. 62 Chúng tôi đóng góp thêm tiền bạc cho những công việc gọi là "Bếp ăn từ thiện" này, chẳng hạn như cộng đoàn Đồng Tâm ở gần bệnh viện tỉnh Gialai, năm 2013 đã chi ra 388 triệu tiền cơm cho người nghèo. Bệnh viện tỉnh Kontum ít hơn, lý do là số người phục vụ ít nên số tiền chi ra chỉ khoảng 80 triệu. Mua xe cứu thương Xe cứu thương Caritas Kontum Chúng tôi đã mua một chiếc xe cứu thương để phục vụ cho những người dân tộc nghèo ở trong các làng xa thuộc tỉnh Gia Lai. Nhưng một chiếc xe cứu thương thì không thể nào phục vụ cho nổi, vì ở tỉnh Kontum cũng rất cần. Miền Tây Nguyên có rất nhiều làng dân tộc, bởi chính đây là vùng đất của họ, mà người dân tộc nghèo thì quá nhiều, nhiều ghê lắm. Nên chúng tôi cũng đã mua thêm một xe cứu thương nữa để phục vụ cho những người dân tộc nghèo trong tỉnh Kontum. Sau 1 năm, nhờ vào sự hoạt động tích cực của chiếc xe cứu thương, chúng tôi đã cứu sống được 36 trường hợp
  • 63. 63 "thập tử nhất sinh", tốn khoảng 150 triệu đồng (chỉ tính miền Gia lai) Một điều đáng mừng là các làng dân tộc bây giờ, những làng nào ở gần trụ phát sóng của xã thì đều có tần sóng của điện thoại. Người anh em dân tộc ở Gia Lai có đội ngũ giáo phu, gọi là Kokhul. Các giáo phu có nhiệm vụ nắm bắt những người trong làng bị các bệnh phải cấp cứu, như: đau ruột thừa hoặc nghi rằng đau ruột thừa, có người mẹ nào sinh khó, người nào bị tai nạn... chẳng hạn, người giáo phu sẽ điện thoại cho linh mục của mình, hoặc cho các nữ tu phục vụ ở trong các làng đó. Một khi chúng tôi nhận được điện thoại cấp cứu liền tức tốc hẹn gặp nhau ở một địa điểm nào đó dễ và gần nhất để đón xe cứu thương của chúng tôi, sau đó đến nhà người bệnh để chở người bệnh đến nơi cần phải đến để chữa trị cho họ. Chiếc xe cứu thương của chúng tôi không những đưa người bệnh đi cấp cứu tại bệnh viện mà còn làm thêm nhiệm vụ chuyển viện cho những bệnh nhân nghèo, từ BV Pleiku chuyển tới BV Qui Nhơn, từ Pleiku chuyển về Sài gòn. Những trường hợp chuyển viện như thế xe chúng tôi đi miễn phí, cũng có những người có tấm lòng, họ đưa chúng tôi chút ít tiền gọi là phụ chi phí tiền xăng dầu, vậy đó! Thật lòng mà nói, chúng tôi cũng cần mọi người tiếp sức với chúng tôi trong những công việc này. Như thế chúng tôi mới có thể phục vụ tốt hơn cho những người nghèo, như Chúa luôn luôn nhắc nhở và dạy chúng ta noi theo đường lối của Chúa là: yêu thương và phục vụ người nghèo. Mong ước có được mạng lưới y tế lưu động. Điều mà lòng tôi luôn mong ước là chúng ta có được một mạng lưới y tế lưu động. Và mạng lưới này sẽ là của các giáo dân và do các giáo dân phục vụ. Chúng tôi là những người tu hành, thời giờ chúng tôi phải đến chỗ này chỗ kia trong các làng dân tộc còn không đủ để đi cho hết.