SlideShare una empresa de Scribd logo
1 de 95
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ THU THẢO
VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI
TRƢỜNG HIỆN NAY Ở HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ
NỘI: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC
Hà Nội - 2020
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ THU THẢO
VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC
BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG HIỆN NAY Ở HUYỆN ĐÔNG ANH,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Tôn giáo học
Mã số: 60 22 03 09
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG: NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN THỊ KIM OANH TS. NGUYỄN THÚY THƠM
HàNội - 2020
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả điều tra trong luận văn là
trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được công bố trên
bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày ..... tháng ..... năm 2020
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thu Thảo
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 4
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC
BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG ....................................................................................... 14
1.1. Một số khái niệm căn bản ............................................................................... 14
1.2. Cơ sở lí luận về vai trò của Phật giáo đối với vấn đề bảo vệ môi trường ...... 17
1.2.1. Cơ sở lí luận về vai trò của Phật giáo đối với vấn đề bảo vệ môi trường
tự nhiên .............................................................................................................. 17
1.2.2. Cơ sở lí luận về vai trò của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trường xã hội .. 25
Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................................ 34
Chƣơng 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ MÔI TRƢỜNG TẠI HUYỆN ĐÔNG ANH
VÀ THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI
TRƢỜNG Ở HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY .35
2.1. Một số vấn đề về môi trƣờng tại huyện Đông Anh hiện nay .................... 35
2.1.1. Một số vấn đề về môi trường tự nhiên ..................................................... 35
2.1.2. Một số vấn đề về môi trường xã hội ........................................................ 40
2.2. Thực trạng về vai trò của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trƣờng ở
huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội hiện nay .................................................. 45
2.2.1. Thực trạng về vai trò của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trường tự nhiên . 45
2.2.2. Thực trạng về vai trò của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trường xã hội .. 56
Tiểu kết chƣơng 2: ............................................................................................... 62
Chƣơng 3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT
HUY VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG
Ở HUYỆN ĐÔNG ANH HÀ NỘI ......................................................................... 64
3.1. Một số vấn đề đặt ra trong việc phát huy vai trò của Phật giáo đối với
việc bảo vệ môi trƣờng ........................................................................................ 64
3.1.1. Một số vấn đề đặt ra trong việc phát huy vai trò của Phật Giáo đối với
vấn đề bảo vệ môi trường tự nhiên .................................................................... 64
3.1.2. Một số vấn đề đặt ra trong việc phát huy vai trò của Phật giáo đối với
việc bảo vệ môi trường xã hội ........................................................................... 70
2
3.2. Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của Phật giáo đối với vấn đề
bảo vệ môi trƣờng ở huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội .................................... 74
3.2.1. Khuyến nghị đối với các cấp chính quyền........................................................... 74
3.2.2. Khuyến nghị đối với Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam huyện
Đông Anh và Tăng Ni trên địa bàn huyện........................................................................ 76
3.2.3. Khuyến nghị đối với các tín đồ Phật tử và người dân huyện Đông Anh. 77
Tiểu kết chƣơng 3.......................................................................................................................... 77
KẾT LUẬN ............................................................................................................................................ 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................ 81
PHỤ LỤC
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
Bảo vệ môi trường tự nhiên, xây dựng môi trường xã hội tốt đẹp là một trong
những nhân tố quan trọng hàng đầu thúc đẩy xã hội phát triển về mọi mặt. Tại Việt
Nam, cùng với quá trình đi lên của đất nước, vấn đề môi trường là một trong những
mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội, được xem là một trong những chiến lược
quốc gia, được Đảng và nhà nước quan tâm sâu sắc. Nhận thức được tầm quan trọng
đó, các tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng luôn nỗ lực hết mình, chú trọng
đến vấn đề chung tay xây dựng môi trường tự nhiên và môi trường xã hội trong quá
trình đồng hành cùng dân tộc. Các tôn giáo, trong đó có Phật giáo đã tham gia ký
kết “ Chương trình phối hợp về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu
giai đoạn 2015 – 2020”. Sau 4 năm thực hiện, đã thu được nhiều kết quả. Với tinh
thần nhập thế sâu sắc, Phật giáo là sợi dây liên kết vô hình tạo nên mối quan hệ tốt
đẹp giữa con người với thiên nhiên, với cộng đồng xã hội.
Về môi trường tự nhiên, đạo Phật xây dựng thói quen ứng xử với môi trường
tự nhiên theo lối tích cực và lành mạnh.Với tinh thần từ bi, cứu khổ cứu nạn và
những triết lí mang tính khoa học như thập nhị nhân duyên, tứ diệu đế, nhân quả...
Phật giáo hình thành nên thế giới quan, giúp con người hiểu được bản chất của thiên
nhiên, mối liên hệ giữa con người với tự nhiên, hướng con người đến những giá trị
sống cao đẹp.
Việc xây dựng môi trường xã hội cũng được Phật giáo quan tâm đặc biệt,
trong Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã nêu rõ phương châm hoạt động
của Giáo hội: “Lý tưởng giác ngộ chân lý, hòa hợp chúng, hòa bình và công bằng xã
hội của giáo lý đức Phật nhằm phục vụ Dân tộc, Tổ quốc và nhân loại chúng sinh, là
tôn chỉ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoạt động
theo phương châm “ Đạo Pháp- Dân tộc- Chủ nghĩa Xã hội”, trên cơ sở kính
ngưỡng, phụng hành Giáo pháp, giới luật Phật chế và tuân thủ Pháp luật nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”[10, Tr 4]. Thông qua tinh thần từ bi, coi trọng
4
mối quan hệ bình đẳng giữa con người với con người, Phật giáo hun đúc việc xây
dựng môi trường xã hội một cách bền vững.
Đông Anh được biết đến là mảnh đất giàu truyền thống văn hoá, gắn liền với
thủ đô nghìn năm Thăng Long Hà Nội; nằm bên bờ sông Hồng, với vị trí thuận lợi
nằm ở cửa ngõ thủ đô, có bề dày truyền thống lịch sử văn hoá, Phật giáo du nhập
vào Đông Anh từ những ngày đầu mới hình thành, luôn đồng hành cùng với vùng
đất địa linh nhân kiệt này. Các thế hệ chư tôn đức tăng ni, tu sĩ, cư sĩ tại huyện luôn
nỗ lực phối hợp với các cấp chính quyền trong công cuộc vận động người dân thực
hiện tốt công tác bảo vệ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội bằng nhiều hình
thức khác nhau.
Trong bối cảnh đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, “với vị trí quan trọng của Thủ
Đô, Đông Anh là huyện đang được Trung Ương, Thành phố Hà Nội quy hoạch phát
triển thành khu đô thị hiện đại phía Bắc sông Hồng, nhiều dự án về kinh tế, văn hóa-
xã hội đã và đang được triển khai. Các dự án này tạo cho Đông Anh có cơ hội phát
triển đa dạng cả về kinh tế, văn hóa, xã hội trong những năm tiếp theo [1, Tr 266].
Cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, đời sống nhân
sinh sẽ có nhiều biến đổi theo chiều hướng ngày càng đa dạng, con người phải đối
mặt với nhiều vấn đề và áp lực trong cuộc sống, môi trường cũng sẽ thay đổi tiêu
cực. Trước thực trạng như vậy, tinh thần nhập thế của Phật Giáo huyện Đông Anh
cũng cần có những định hướng và phương thức mới. Cần hạn chế những mặt tiêu
cực, những vấn đề mà người ta thường thấy còn tồn tại ở Phật Giáo trước đây, phát
huy những mặt tích cực theo định hướng của Đảng và nhà nước nhằm xây dựng
hình ảnh Phật Giáo đứng vững trong lòng người dân huyện. Với nền tảng và sức
ảnh hưởng của Phật Giáo trên địa bàn huyện, cùng với sự phối hợp của Ban Trị sự
Phật Giáo Huyện Đông Anh và các Chùa trên địa bàn, Phật Giáo sẽ phát huy được
vai trò và sức mạnh của mình trong vấn đề bảo vệ môi trường, đồng hành cùng tiến
trình đi lên của huyện nói riêng và của nước ta nói chung.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vai trò của Phật Giáo với môi trường
tại Việt Nam, tuy nhiên chưa có một công trình nào liên quan trực tiếp đến vai trò
5
của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trường tại huyện Đông Anh. Với những lí do
trên đây, tôi chọn đề tài “Vai trò của Phật Giáo đối với việc bảo vệ môi trường hiện
nay ở huyện Đông Anh Thành Phố Hà Nội, thực trạng và những vấn đề đặt ra” làm
đề tài nghiên cứu luận văn của mình. Hy vọng luận văn sẽ góp phần nhỏ bé vào việc
áp dụng giáo lí Phật Giáo trong việc bảo vệ môi trường tại huyện Đông Anh nói
riêng và tại Việt Nam nói chung.
2. T nh h nh nghiên c u
Bảo vệ môi trường tự nhiên, xây dựng môi trường xã hội tốt đẹp là một trong
những vấn đề được các tôn giáo, trong đó có Phật giáo quan tâm sâu sắc. Thông qua
quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, chúng tôi được tiếp cận với nguồn tài liệu phong
phú về Phật Giáo và vai trò của đạo Phật đối với những vấn đề này. Tuy nhiên, để đi
sâu vào nghiên cứu và tập trung vào đề tài chúng chia thành những nhóm tài liệu
sau:
Thứ nhất các công trình liên quan đến hật giáo iệt Nam nói chung , hật giáo
huyện ông nh nói riêng và quan đi m, ảnh hưởng của hật iáo đối với môi trường tự
nhiên, môi trường xã hội
Trước hết phải kể đến tác phẩm “ Lịch sử Phật Giáo Việt Nam” (gồm 3 tập)
của tác giả Lê Mạnh Thát xuất bản vào năm 2006 [24], [25], [26], trên cơ sở tổng
hợp những tài liệu và khắc phục những hạn chế lịch sử về quan điểm và phương
pháp luận nghiên cứu của một số công trình trước đây, tác giả đem đến cho người
đọc cái nhìn tổng quát về sự xuất hiện của Phật Giáo tại Việt Nam, cách thức tiếp
thu tư tưởng, sự nhận thức Phật Giáo của nhân dân và vai trò của Phật Giáo trong sự
nghiệp đấu tranh và duy trì bản sắc truyền thống văn hoá Việt Nam. Ngoài ra còn
một số tác phẩm như “Việt Nam Phật giáo sử luận” của Nguyễn Lang [34],[35];
“Tư tưởng Phật giáo Việt Nam” của Nguyễn Duy Hinh. Những công trình trên cung
cấp một cách khá toàn diện về lịch sử và đặc điểm Phật giáo Việt Nam. Về Phật
Giáo Thăng Long Hà Nội, theo chúng tôi có liên quan mật thiết đến Phật Giáo
huyện Đông Anh, có thể kể đến một số tác phẩm như “Đời sống tôn giáo tín ngưỡng
Thăng Long” của tác giả Đỗ Quang Hưng, xuất bản năm 2010, [7] cuốn
6
sách gồm có 3 phần trong đó ở Phần 2 tác giả đã khái quát về những đặc điểm và
vai trò của Phật Giáo tại Thăng Long- Hà Nội qua các giai đoạn và đúc kết lại bằng
những đặc điểm của Phật Giáo Thăng Long, Hà Nội. Tác giả đã nêu lên ba luận
điểm quan trọng như sau: “thứ nhất, Thăng Long là nơi mà Phật Giáo Bắc Tông, bộ
phận quan trọng nhất của Phật Giáo Việt Nam xuất hiện và phát triển rực rỡ với
nhiều lĩnh vực có ý nghĩa tiêu biểu nhất; thứ hai Phật giáo Việt Nam nói chung sớm
được Việt hóa, trở thành một bộ phận quan trọng của hệ ý thức của các nhà nước
phong kiến độc lập. Đồng thời có những đóng góp quyết định cho việc hình thành
nền văn minh Đại Việt. Trong đó, dù Phật giáo bác học hay Phật giáo dân gian đều
có vai trò riêng của mình. Trong quá trình ấy, vị trí của Phật giáo Thăng Long- Hà
Nội được xem là cái nôi, nơi trải nghiệm và đúc kết nhất là những thế kỉ đầu tiên
của nền độc lập; thứ ba, Phật Giáo Lý- Trần là triều đại đã giải quyết mẫu mực mối
quan hệ giữa tôn giáo và chính trị tạo nên một truyền thống Phật Giáo nhập thế tiêu
biểu nhất. Kinh thành Thăng Long và Phật Giáo Thăng Long cũng là nơi nuôi
dưỡng và phát triển truyền thống đó” [7, Tr 93]. Ngoài ra, Phật Giáo Thăng Long
còn được đề cập ít nhiều trong các công trình nghiên cứu chung về Phật Giáo thời
Lý, Phật giáo Hà Nội như cuốn sách “Phật Giáo đối với tín ngưỡng của người Việt
thời Trần” của tác giả Nguyễn Thúy Thơm [37], bên cạnh đó phải kể đến cuốn sách:
kỷ yếu Chùa Diên Phúc với 1000 năm Thăng Long, Hà Nội, Nxb Lao Động 2010,
của viện nghiên cứu truyền thống và phát triển [64], cuốn sách khái quát về sự du
nhập và phát triển của Phật Giáo tại huyện Đông Anh và một số xã trên địa bàn
huyện ngược theo dòng lịch sử, đặc biệt là dưới tiều đại nhà Lý.
Về các kinh kệ, tài liệu liên quan đến giáo lí và quan niệm của Phật Giáo về
xây dựng môi trường (bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội): kinh
Pháp cú, kinh trường A Hàm, có những kinh đề cập đến sự răn dạy của đức Phật về
xây dựng lối sống đạo đức và mối quan hệ giữa con người với con người, ngoài ra
việc xây dựng nền tảng đạo đức và bảo vệ môi trường được đức Phật đề cập đến
trong các kinh: kinh trung bộ, kinh trường A Hàm, kinh Trung A Hàm, Kinh Tăng
Nhất Hàm, Kinh Pháp Cú, Kinh Kim Cang.... Trong nghiên cứu này
7
chúng tôi đề cập đến kinh điển như một thước đo để đánh giá quan điểm của đức
Phật trong việc nhìn nhận mối liên hệ giữa con người với con người,con người với
tự nhiên và xã hội.
Bên cạnh kinh điển đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề Phật giáo
chung tay bảo vệ môi trường. Tiêu biểu là các cuốn sách: Phật giáo và môi trường
của tác giả Thích Nhật Từ và Thích Đức Thiện [51]. Các tác giả đã thu thập từ các
bài tham luận được trình bày tại hội thảo quốc tế về: “Quan điểm Phật giáo hướng
đến thành tựu đạt được những Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên Hiệp
Quốc” đã diễn ra trong ngày Đại lễ Phật Đản Vesak của Tổ chức Liên Hiệp Quốc
năm 2014 (The United Nations Day of Vesak 2014) tại Việt Nam. Cuốn sách này
liên quan đến những khía cạnh cốt yếu của vấn đề: Hưởng ứng Phật giáo đối với
việc nóng lên Toàn cầu và Bảo vệ Môi trường. Các tác giả nhìn lại những chính
sách trước đây và đưa ra nguyên nhân vì sao những giải pháp quá khứ không mang
lại hiệu quả. Tác giả Thích Giác Duyên (2012) có cuốn sách “ tìm hiểu về Phật Giáo
với sự lành mạnh” .
Bên cạnh đó còn một số bài viết riêng rẽ công bố trên các tạp chí như: Tạp
chí nghiên cứu tôn giáo, Tạp chí triết học, nghiên cứu lí luận... cũng đề cập nhiều
đến vấn đề Phật Giáo với môi trường. Về thực tiễn tại Việt Nam, có bài viết “Phật
giáo với bảo vệ môi trường ở Việt nam”, tạp chí nghiên cứu tôn giáo, số 9 (123),
2014, tr. 12- 19, Ngô Văn Trân.[31] Bài viết góp phần làm rõ giá trị của Phật Giáo
của Phật giáo với bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Theo ông, tiếng nói đạo đức về
môi trường của Phật Giáo Việt Nam sẽ góp phần lay chuyển tâm thức của tín đồ và
quần chúng tín đồ Phật Giáo theo hướng tích cực, phù hợp với đạo đức môi trường
trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa. Ngoài ra, có thể kể đến bài viết “Phật giáo
với mục tiêu phát tri n bền vững và bảo vệ môi trường” của Thượng tọa Thích Huệ
Thông , theo Tác giả “ cả cuộc đời Đức Phật là một nhân chứng sống động của một
con người sống chan hòa, luôn tôn trọng, yêu thương muôn loài để gìn giữ và bảo
vệ sự cân bằng sinh thái. Đức Phật cũng chính là một nhà lãnh đạo, tiên phong đầu
8
tiên trên thế giới nhận thức đầy đủ và đúng đắn mối quan hệ mật thiết, không thể
tách rời giữa vạn vật sinh linh.”
Đề cập đến vấn đề vai trò của Phật Giáo đối với môi trường xã hội phải kể
đến quyển sách “đạo đức Phật Giáo với đạo đức con người Việt Nam” của tác giả
Đặng Thị Lan [6], góp phần nghiên cứu chuyên sâu về đạo đức Phật Giáo và sự ảnh
hưởng của nó đến với đạo đức và môi trường xã hội tại Việt Nam, cuốn sách gồm 4
chương, đề cập đến những vấn đề cơ bản của đạo đức Phật Giáo, mối liên hệ giữa
đạo đức Phật Giáo và đạo đức truyền thống Việt Nam, và những đề xuất, giải pháp
nhằm phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của đạo đức Phật
Giáo nhằm hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam hiện nay. Ngoài ra những giáo
lí và tư tưởng cao đẹp của Phật Giáo cũng được thể hiện thông qua cuốn sách
“những nét văn hóa của đạo Phật” của Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam. [55]
Chúng tôi cũng tìm hiểu về tinh thần nhập thế và sự áp dụng những giáo lí của đạo
Phật vào cuộc sống hiện đại thông qua các tác phẩm: “Phật Giáo trong thời đại
chúng ta” – nhiều tác giả [40], hay tác phẩm “Phật giáo nhập thế và các vấn đề xã
hội đương đại” [64] của Viện Trần Nhân Tông, các tác phẩm trên đã đề cập đến sự
gắn bó tốt đẹp của Phật Giáo và dân tộc thể hiện qua nhiều khía cạnh như phong tục
tập quán, ngôn ngữ tư duy, duy thức học Phật Giáo... và những vấn đề đặt ra nhằm
phát huy nét đẹp của Phật Giáo trong quá trình xây dựng môi trường xã hội tại Việt
Nam. Một trong những tác phẩm thể hiện cụ thể những ảnh hưởng của Phật Giáo
đối với xã hội có thể kể đến đó là: Tôn giáo trong mối quan hệ văn hoá và phát
triển, Nxb Khoa học xã hội của tác giả Nguyễn Hồng Dương. [32]
Để hiểu thêm cặn kẽ về những ảnh hưởng của Phật Giáo đến đời sống xã hội
của người Việt Nam, chúng tôi nghiên cứu chuyên sâu về những triết lí thông qua
các tác phẩm Con người với giáo lý mười hai nhân duyên, của tác giả Phạm Đình
Nhân (2012) [42], Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới do Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
biên soạn, Kinh Pháp Cú Thí Dụ- Việt dịch Thích Minh Quang, Phật thuyết đại thừa
Vô Lượng Thị Trang Nghiêm bình đẳng giác kinh, Những Lời Phật Dạy- Trích Lục
các bài Giảng trong Kinh điển Pali của Tỳ Khưu Bodhi
9
Thứ hai, các tài liệu nhằm tìm hi u rõ hơn về các khái niệm chuyên ngành ,
thực trạng các vấn đề xã hội và môi trường tại huyện ông nh
Bàn về vấn đề môi trường, trước hết phải kể đến cuốn sách: Cơ sở khoa học
môi trường (2001)- NXB đại học Quốc Gia Hà Nội của tác giả Lưu Đức Hải, tác giả
đã đưa ra các giải pháp nhằm bảo vệ môi trường và quản lí dân số, lương thực, năng
lượng và phát triển bền vững. Cuốn sách sinh thái nhân văn và phát triển bền vững
của GS. Lê Trọng Cúc (2016), NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội. Nội dung của sách
đề cập đến các mối quan hệ mang tính hệ thống giữa xã hội loài người và môi
trường thiên nhiên. Tác giả Võ Quý có Cuốn sách Môi trường và đa dạng sinh học
(2016) - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội (Tuyển chọn các công trình nghiên cứu của
ông) đề cập nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn mang tính thời đại về môi trường và
đa dạng sinh học, giúp người đọc hình dung bức tranh cụ thể về diễn biến của vấn
đề môi trường ở nước ta. Bên cạnh các sách còn một số bài viết của các tác giả đăng
trên các tạp chí, kỷ yếu hội thảo chuyên ngành. Điển hình như bài viết: sinh thái
nhân văn và phát triển bền vững: nghiên cứu ở Việt Nam của Phan Thị Anh Đào và
Lê Trọng Cúc đăng trên Kỷ yếu Hội thảo Khoa học: Sinh thái nhân văn và phát
triển bền vững, năm 2017. Trong đó, tác giả đi sâu vào phân tích thực trạng và giải
pháp nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường, khủng hoảng sinh thái tại Việt Nam.
Về thực trạng các vấn đề xã hội và môi trường tại huyện Đông Anh không
thể bỏ qua cuốn sách địa chí Đông Anh xuất bản năm 2016, NXB Chính Trị Quốc
Gia, đây được xem như một bộ bách khoa toàn thư về Đông Anh. Qua đây chúng tôi
có được một cái nhìn tổng quan nhất về mọi mặt từ điều kiện tự nhiên đến kinh tế,
chính trị, văn hoá xã hội về của vùng đất giàu văn hoá ngoại thành thủ đô.
Nghiên cứu cụ thể hơn về thực trạng môi sinh và xã hội tại huyện Đông Anh,
có “Báo cáo tổng kết công tác bảo vệ môi trường” của Phòng Tài Nguyên và môi
trường, huyện Đông Anh [45], [46] Đây là những tài liệu cung cấp một cách chính
xác và cụ thể nhất các số liệu thống kê liên quan đến môi trường trên địa bàn huyện.
10
Ngoài những công trình theo hai cụm chủ đề kể trên, nhằm tìm hiểu về cơ sở
lí luận cũng như, xu hướng phát triển và sự phát huy vai trò của Phật giáo trong thời
gian tới, chúng tôi nghiên cứu các tài liệu liên quan đến vấn đề tôn giáo và chính
sách tôn giáo của Đảng và nhà nước ta cũng như của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Trước hết phải kể đến cuốn sách “tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công
tác tôn giáo được xuất bản năm 2003, cuốn sách được viết nhân hội thảo kỉ niệm
112 năm ngày sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh, là kết quả nghiên cứu của nhiều nhà
tác giả nổi tiếng, nêu lên những vấn đề lí luận và thực tiễn rút ra từ việc nghiên cứu
tư tưởng và đường lối Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo cũng như vấn
đề đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc, bên cạnh đó, chúng tôi cũng tìm hiểu cuốn
sách: “những điều cần biết về hoạt động tôn giáo ở Việt Nam” của tác giả Hà Văn
Núi [12], tác giả đã nêu lên chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước ta về tôn
giáo dựa trên việc vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Trong đó tác giả cũng đã nêu
rõ “cần phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và vai trò tích cực, tiến bộ
của các tôn giáo phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”. Để có cái nhìn tổng
quan và hiểu rõ cặn kẽ về cơ cấu tổ chức cũng như nguyên tắc hoạt động của các
cấp Giáo hội, trong đó có Phật Giáo huyện đông Anh, chúng tôi đã tìm hiểu Hiến
Chương của Giáo Hội Việt nam được thông qua lần thứ VIII, nhiệm kì 2017- 2022.
Trong đó, điều 11 quy định rõ hệ thống tổ chức của Giáo hội Phật giáo Việt Nam
cấp quận, huyện thị xã trực thuộc, chương VII từ điều 37 đến điều 42, nêu rõ về
giáo hội Phật Giáo Việt Nam cấp quận, huyện, thị xã về thành viên, các ban, cơ cấu
hoạt động....
Những công trình trên đây ít nhiều đều có liên quan đến đề tài nghiên cứu, đề
cập đến các khía cạnh khác nhau của vấn đề nghiên cứu. Tuy nhiên một công trình
nghiên cứu chuyên sâu về Phật giáo với vấn đề bảo vệ môi trường ở một vùng cụ
thể (huyện Đông Anh) thì chưa có. Luận văn sẽ góp phần vào lấp đầy chỗ trống
trên.
11
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên c u
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn chỉ ra thực trạng về vai trò của Phật
giáo đối với việc bảo vệ môi trường ở huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội hiện nay,
chỉ ra những vấn đề đặt ra, từ đó đưa ra những khuyến nghị nhằm phát huy vai trò
của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện Đông Anh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ:
+ Khái quát chung các vấn đề lý luận về quan niệm của Phật giáo đối với
việc bảo vệ môi trường và các vấn đề thực tiễn về những vấn đề môi trường hiện
nay của huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội
+ Chỉ ra thực trạng về vai trò của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trường
hiện nay ở huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội
+ Chỉ ra những vấn đề đặt ra về vai trò của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi
trường ở huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội và đưa ra một số khuyến nghị nhằm
phát huy vai trò của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trường ở huyện Đông Anh
hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên c u
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của Phật giáo huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội đối với việc bảo
vệ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian huyện Đông Anh, Hà Nội
- Thời gian: giai đoạn hiện nay (từ năm 2010 đến nay)
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên c u
5.1. Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về tôn giáo, các
công trình nghiên cứu về tôn giáo của các Khoa học trong và ngoài nước.
12
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp như: phương pháp luận, phương pháp
nghiên cứu liên ngành của tôn giáo học: phân tích, tổng hợp, so sánh; đặc biệt chúng
tôi sử dụng phương pháp của nhân học tôn giáo (điền dã, khảo sát thực địa tại huyện
Đông Anh với các công cụ chính là quan sát tham dự, phỏng vấn sâu, thảo luận
nhóm...) để nghiên cứu đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình khoa học khảo cứu có tính hệ thống và chuyên sâu về vai
trò của Phật giáo đối với đời sống người dân ở một huyện cụ thể trên lĩnh vực môi
trường (bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội). Khẳng định sự đóng
góp của Phật giáo đối với huyện Đông Anh nói riêng, đất nước nói chung trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cung cấp những luận cứ, luận
chứng cụ thể nhằm phát huy những giá trị văn hoá tôn giáo tốt đẹp, khắc phục
những hạn chế còn tồn đọng trong giai đoạn hiện nay. Luận văn có thể làm tài liệu
tham khảo cho công tác giảng dạy, nghiên cứu, học tập tôn giáo, hoặc cho việc
hoạch định chính sách của các nhà nghiên cứu.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung chính
của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
13
Chƣơng 1.
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC
BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG
1.1 Một số khái niệm căn bản
Trước khi đi tìm hi u về quan niệm của hật giáo đối với việc bảo vệ môi
trường, chúng ta tìm hi u một số khái niệm căn bản
* Môi trường
Chương trình môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) năm 1980 đã đưa ra khái
niệm về môi trường: “môi trường là tập hợp các yếu tố vật lý, hóa học, sinh học,
kinh tế- xã hội bao quanh và tác động tới đời sống và sự phát triển của một cá thể”.
Trong tuyên ngôn của UNESCO (1981) môi trường được định nghĩa như sau
“Môi trường của con người bao gồm toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống
do con người tạo ra xung quanh mình, trong đó con người sinh sống và bằng lao
động của mình đã khai thác các tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo nhằm thoả
mãn các nhu cầu của con người".
Bách khoa toàn thư về môi trường (1994) định nghĩa: “môi trường là tổng thể
các thành tố sinh thái tự nhiên, xã hội, nhân văn và các điều kiện tác động trực tiếp
hay gián tiếp lên phát triển, lên đời sống và hoạt động của con người trong thời gian
bất kỳ”.
Bách khoa toàn thư Philip- Philip Encyclopedia 2008, trang 304 có ghi: “Môi
trường có nghĩa là tổ hợp các yếu tố vật chất và sinh học xung quanh một sinh vật.
Môi trường bao gồm các yếu tố vô sinh (phi sinh vật) như nhiệt độ, đất, không khí
và bức xạ và hữu sinh (sinh vật) như thực vật, vi sinh vật và động vật.”
Dưới góc nhìn của một nhà khoa học môi trường nổi tiếng tại Mỹ G.Tyler
Miler trong tác phẩm khoa học và môi trường cho rằng, “môi trường là tất cả các
hoàn cảnh bên ngoài tác động lên một cơ thể sinh vật hoặc một cơ thể nhất định
đang sống; là mọi vật bên ngoài một cơ thể nhất định”
14
Theo tác giả S.V.Kalesnik trong tác phẩm các quy luật địa lí chung của trái
đất định nghĩa "Môi trường (được định nghĩa với môi trường địa lí) chỉ là một bộ
phận của trái đất bao quanh con người, mà ở một thời điểm nhất định xã hội loài
người có quan hệ tương hỗ trực tiếp với nó, nghĩa là môi trường có quan hệ một
cách gần gũi nhất với đời sống và hoạt động sản xuất của con người"
Trong cuốn sách “ môi trường và tài nguyên Việt Nam” đã khái lược như sau
"Môi trường là một nơi chốn trong số các nơi chốn, nhưng có thể là một nơi chốn
đáng chú ý, thể hiện các màu sắc xã hội của một thời kì hay một xã hội". [xem 36]
Theo khoản 1 điều 3, luật bảo vệ môi trường do Quốc hội Việt Nam ban
hành vào năm 2014: “ Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất
nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời
sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên.” [xem 47]
Theo Tác giả Võ Quang Hiền: “môi trường bao gồm môi trường tự nhiên và
môi trường xã hội có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc sống con người. Nó
có thể được tạo lập xung quanh con người, chi phối đời sống con người, đảm bảo sự
tồn tại và phát triển của con người” [ 66, Tr 191]
Qua đó có thể thấy được rằng, có nhiều định nghĩa khác nhau về môi trường.
Tuy nhiên, dù đứng dưới góc độ nào thì môi trường cũng do nhiều yếu tố hợp thành,
trong đó có thể phân thành hai nhóm chính: một là các yếu tố sinh vật và phi sinh
vật, hệ sinh thái hình nên môi trường tự nhiên, tiếp theo đó chính là các yếu tố chính
trị, kinh tế, văn hóa và mối quan hệ giữa con người với cá nhân, cộng đồng... hình
thành nên môi trường xã hội. Trong đó, con người nằm ở vị trí trung tâm, có tác
động tích cực hay tiêu cực đến môi trường cũng như bị chi phối và chịu sự tác động
của môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Như vậy, về nội dung của thuật ngữ môi trường không thể hiểu hạn hẹp rằng
đó chỉ là môi trường đất đai, nước, không khí hay hệ sinh thái mà thuật ngữ này bao
hàm cả trên bình diện xã hội. Môi trường là không gian sống, tập hợp những yếu tố
và những mối quan hệ ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày của con người,
tồn tại và có sự tác động to lớn đối với hoạt động của con người trong mọi giai đoạn
15
phát triển của xã hội, bao gồm hai thành tố căn bản đó là môi trường tự nhiên và
môi trường xã hội, hai yếu tố này tồn tại song song và có ảnh hưởng qua lại, tác
động lẫn nhau.
* Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học,
sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động
của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí, động, thực
vật, đất, nước... Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà
cửa, trồng cấy, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản
cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải, cung cấp cho
ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm phong phú. [xem 66]
* Môi trường xã hội
Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ giữa con người với con người,
định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức
mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho con người khác với sinh vật khác
Môi trường xã hội là môi trường mà con người là nhân tố trung tâm, tham gia và chi
phối môi trường. Môi trường xã hội bao gồm: chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục,
thể thao, lịch sử... xoay quanh con người và con người lấy đó làm nguồn sống, làm
mục tiêu cho mình [44, Tr 255].
* Bảo vệ môi trường
Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành,
sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi
trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác,
sử dụng hợp lý và “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo
bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của
con người và sinh vật”.[xem 47]
* ai trò theo từ điển Tiếng Việt, vai trò là tác dụng, chức năng của ai hoặc
cái gì trong sự hoạt động, sự phát triển chung [60, Tr 1400]
16
* ai trò của Phật iáo đối với việc bảo vệ môi trường:
Là vai trò của Phật giáo trong việc chung tay xây dựng môi trường tự nhiên
sạch đẹp, môi trường xã hội văn minh được thể hiện qua những hoạt động thiết thực
tại một địa bàn nhất định.
1.2 . Cơ sở lí luận về vai trò của Phật giáo đối với vấn đề bảo vệ môi
trƣờng
1.2.1 . Cơ sở lí luận về vai trò của Phật giáo đối với vấn đề bảo vệ môi
trường tự nhiên
ạo Phật góp phần hình thành nhận thức về thế giới quan, mối liên hệ giữa
con người và thế giới tự nhiên thông qua thuyết duyên khởi
Thuyết duyên khởi hay còn có nhiều tên gọi khác nhau như nhân duyên sinh,
hay còn gọi là thập nhị nhân duyên... là một trong những triết lí cơ bản và nền tảng
của giáo dục Phật Giáo, hình thành và phát triển thế giới quan của Đạo Phật. Thuyết
này chỉ rõ mọi sự vật, sự việc, hiện tượng hình thành nên thế giới đều nằm trong
mối liên hệ mật thiết với nhau, chúng là nguyên nhân của một yếu tố này và là kết
quả của một yếu tố khác, tạo thành một chuỗi gồm 12 yếu tố, không có thành phần
nào đứng lẻ loi một mình và tác động một cách riêng lẽ, độc lập mà không phụ
thuộc vào các thành phần khác.
Mười hai thành phần của thập nhị nhân duyên được sắp xếp theo thứ tự nhất
định. Trong Tương Ưng bộ Kinh khái quát “như vậy này các Tỷ-kheo, vô minh
duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ
duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên
sanh; sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy là toàn bộ
khổ uẩn này tập khởi.” [17,Tr 244], đây gọi là duyên khởi. Các yếu tố như vô minh,
hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử được gọi là 12 chi
phần tạo nên vòng tròn “ thập nhị nhân duyên”. Mỗi chi phần được xác định như
một mắt xích trong sợi dây liên kết ràng buộc lẫn nhau giữa các thành phần, chúng
tuân theo quy luật nhân quả, không tự xuất hiện, cũng không tự mất đi.
17
Trong tác phẩm “con người với giáo lí mười hai nhân duyên”, từ việc nghiên
cứu chuyên sâu và cặn kẽ về giáo lí này, tác giả Phạm Đình Nhân đã từng đề cập
đến ba hình thức quán chiếu “12 nhân duyên” theo chiều thuận mà theo chúng tôi
chính những phép quán chiếu này giúp chúng ta có thể hình thành nên thế giới quan
của Phật Giáo từ đó đưa đến những liên hệ với việc bảo vệ môi trường. Trong ba
phép quán chiếu theo chiều thuận, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến phép quan sát
trạng thái sinh khởi của mười hai nhân duyên từ trong quá khứ xa xôi, tức vô thủy
kiếp về trước. Theo đó, tác giả khẳng định: “Từ vô thủy do vô minh mê mờ, các
vọng động từ từ sinh khởi tức hành. Đây là nói về trạng thái của mười hai nhân
duyên từ vô thủy, do vô minh vọng động tạo tác mà có thế giới và chúng sinh và cứ
như thế, tiếp tục sinh khởi cho đến ngày nay và mãi mãi về sau...” [42, Tr 27]. Hòa
Thượng Thích Thanh Kiểm cũng đã từng đề cập đến trong tác phẩm: “ Lịch Sử Phật
giáo Ấn Độ” rằng: “Đức Thế tôn người đã quan sát thế giới theo hai dạng thức khác
nhau, tức là hiện thực thế giới quan và lý tưởng thế giới quan. Cũng theo đó, thế
giới quan hiện thực được hình thành dựa trên ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức).
Tuy nhiên, ngũ uẩn thì nương vào nhân duyên mà kết hợp hay ly tán” [19, Tr 28].
Từ đây chúng ta có thể rút ra kết luật về sự hình thành của thế giới theo đạo Phật.
Nguồn gốc của con người, của mọi loài chúng sinh hữu tình và vô tình, đều dựa trên
quy luật nhân duyên.
Nguyên lí này thể hiện mối tương quan giữa con người với vạn vật xung
quanh. Nói cách khác, lý duyên khởi giúp ta thấy rõ mối tương quan sinh diệt của
vạn hữu vũ trụ, không có một pháp nào có thể hiện hữu độc lập, thế giới này tồn tại
như một mạng lưới “nhân duyên sinh” vĩ đại, trong đó tất cả các sự vật, sự việc,
hiện tượng đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong tác phẩm “ Đạo Phật và
môi trường” , tác giả Thích Nhuận Đạt đã khẳng định lý duyên khởi “ cái này có
nên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sinh cho thấy mối quan hệ nội tại trong sự
sinh tồn của sự vật. Mối quan hệ giữa con người với con người, mối quan hệ giữa
con người với thiên nhiên đều ảnh hưởng lẫn nhau, một sự vật hưng thịnh thì tất cả
đều hưng thịnh, một sự vật suy vong thì tất cả đều suy vong. Phá hoại thiên nhiên
18
và đối lập với thiên nhiên thì nhất định khiến cho nhân loại tự chuốc lấy sự diệt
vong” [54, Tr 30] . Con người cũng như vạn vật trong vũ trụ luôn nương tựa và ảnh
hưởng lẫn nhau, tạo nên một bản đại hoà tấu, nếu thiếu đi một bản hòa tấu đó sẽ
không toàn vẹn nhưng nếu không có tất cả thì sự tồn tại của một thứ cũng không
thể, đó là lẽ dĩ nhiên. Con người không thể tồn tại riêng lẽ, mà phải phụ thuộc vào
thiên nhiên, sinh khởi đồng thời cùng với sự ra đời của mọi chúng sinh, nương vào
thế giới tự nhiên để sinh sống và tồn tại. Con người cũng không thể tự mình quyết
định hay thay đổi bất cứ một quy luật tự nhiên nào của vũ trụ.
Theo Phật Giáo, chỉ cần vô minh đoạn trừ thì vòng tròn nhân duyên sẽ bị phá
vỡ. Như vậy, cuộc sống của con người đang đắm chìm trong sự vô minh khiến cho
chúng ta bị trói buộc trong vòng biến hóa vô tận, chỉ khi nào con người đoạn trừ
được vô minh thì con người mới hướng đến con đường giải thoát, giác ngộ. Vì
không hiểu rõ thực tướng của các pháp (con người và thế giới) mà con người luôn
đề cao cái tôi, đắm chấp vào tự ngã của mình , từ đó trở nên tham ái và chấp thủ là
những động lực khiến cho những hành động của thân, khẩu, ý trở nên tiêu cực
Cái hay của giáo lí mười hai nhân duyên đó là sự kết tinh của trí tuệ và nhân
bản, khi người Phật tử tại gia hay xuất gia, người am hiểu giáo lí mười hai nhân
duyên, sẽ diệt trừ được vô minh và ái là cái nhân của hiện tại tạo tác cho cái quả của
đời sau. Chúng ta phải thấy rõ được cội nguồn của vô minh, cần phải bù đắp những
gì đã cướp đoạt của thiên nhiên bằng những hành động thiết thực dù nhỏ nhất. Diệt
trừ vô minh hiện tại như thế nào? Đức Phật đã từng dạy: “nhất thiết duy tâm tạo”,
có nghĩa là tất cả đều do tâm mà ra. Nếu tâm ta trong sạch và sáng suốt, hạnh phúc
sẽ theo ta như bóng với hình.
Phật giáo giúp con người đề cao trách nhiệm, lối sống hài hoà với thiên
nhiên thông qua giáo lí nhân quả
Giáo lí nhân quả hay sự tương quan giữa nguyên nhân và kết quả là một
trong những nguyên lí, làm nền tảng cơ bản của giáo dục Phật Giáo. Theo đó, mọi
hành động là nhân sẽ có kết quả hay hậu quả của nó. Giống như vậy, mọi hậu quả
đều có nhân của nó. Luật ấy dạy rằng người làm việc lành, dữ hoặc vô ký sẽ
19
nhận lấy hậu quả tương đương. Người lành được phước, người dữ bị khổ. Hòa
Thượng Tịnh Không đã từng khẳng định: “Mọi sự vật trên thế gian đều phải chịu sự
chi phối của luật nhân quả. Vạn vật đều giả ảo và vô thường nhưng luật nhân quả lại
là một chân lí vĩnh cữu và bất biến. Nhân và quả có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Nhân trở thành quả và quả này lại trở thành một nhân khác. Từ chuỗi nhân quả bất
tận này chúng ta có thể thấy một hành động nguyên nhân không thể kết thúc trọn
vẹn và một nghiệp quả không phải là quả độc nhất. Sự phối hợp nhân quả tạo ra một
chu trình tàn nhẫn đó là vòng luân hồi sinh tử” [48, tr 159].
Thuyết nhân quả gần với khái niệm “nghiệp” trong Phật Giáo. Theo Phật
Giáo: con người là chủ nhân của nghiệp và là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiên cứu cụ thể
qua các kinh điển của đạo Phật, chúng ta có thể thấy được rằng tất cả mọi loài động
vật đều bị chi phối bởi nghiệp lực, nhưng lại có sinh mệnh độc lập, tự chủ giống con
người, cùng chung sống trong cùng một thế giới với con người, có thể tu tập để giải
thoát. Đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ, trải qua dòng lịch sử hơn 26 thế kỉ từ khi
giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập ra Phật giáo, giáo lí của Ngài luôn thể hiện tình
yêu thương đến muôn loài chúng sinh.
Theo đạo Phật, nếu người nào có tâm từ sẽ được sinh về cõi lành, còn nếu
ngược lại, sẽ sinh về cõi xấu, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Trong trích lục các bài giảng
trong kinh điển Pali có câu: “con đường đưa đến đoản mạng là sát sinh, tàn nhẫn,
hay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loại chúng
sinh. Nhưng ở đây, này thanh niên, có người đàn bà hay đàn ông, từ bỏ sát sinh,
tránh xa sát sinh, bỏ trượng, bỏ kiếm biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến
hạnh phúc tất cả chúng sinh. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy
sau khi thân hoại mạng chung người ấy được sinh vào thiện thú, thiên giới”.[49, Tr
225]
Nhờ hiểu được mối tương quan giữa ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai con
người nhận thức được không phải ngẫu nhiên mà ngày nay chúng ta đang phải gánh
chịu những hậu quả của thiên tai, động đất, lũ lụt làm thiệt hại đến người, vật chất
và tinh thần. “Mạng lưới nhân quả này đã liên kết mọi sự vật cả về thời gian lẫn
20
không gian nên không chỉ mọi sự vật tồn tại trong hiện tại lệ thuộc lẫn nhau mà tất
cả mọi sự vật trong quá khứ cũng như tương lai đều liên quan đến nhau” [6, Tr 86].
Đạo Phật bồi dưỡng cho con người tình yêu thương và sự thấu hiểu những việc làm
mà mình đã gây tổn hại đối với thiên nhiên. Mặt khác, với luật nhân quả là cơ sở để
con người xác định hành vi, trau dồi những tư tưởng, ý niệm chân chính.
Mặc dù, những nguyên tắc đạo đức hàng ngày luôn hướng thiện, và trừng trị
kẻ ác, những kẻ lợi dụng, chiếm đoạt thiên nhiên, nhưng hầu hết chúng chỉ là hành
động tức thời như: xử phạt hành chính, xử phạt về dân sự mà chưa giải quyết được
tận gốc rễ của vấn đề. Tại một số nước phát triển, những việc làm nhỏ ảnh hưởng
tiêu cực đến môi trường như việc xã rác bừa bãi hay khạc nhổ cũng bị xử phạt. Tuy
nhiên, tại một số quốc gia, việc kiểm soát những hành vi nhỏ nhặt này hầu như
không có. Vậy vấn đề đặt ra là làm sao để thay đổi được từ bên trong, cái mà đức
Phật gọi là “ý” trong tam nghiệp: thân, khẩu, ý. Ý thay đổi thì thân cũng làm những
điều tốt đẹp cho môi trường, miệng nói những lời hay ý đẹp để vận động người khác
cùng làm theo mình.
Trong Kinh Tăng Chi II, trang 7 có câu: “con người là chủ nhân của nghiệp,
là kẻ thừa tự nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm
tựa”, mọi sự vật trên thế giới, kể cả con người tồn tại không bao giờ lìa bỏ hai chữ “
nhân quả”. Cũng như vậy, từ nhận thức về mối tương quan đó, hành động của con
người cần phải tích cực và phù hợp với những chuẩn mực môi trường nhất định,
thậm chí là phải tích cực hơn trong việc cải tạo môi trường để tạo nên một môi
trường trong lành, tốt đẹp hơn.
Phật Giáo cho rằng, trên thế gian này, không có một điều gì xảy ra đối với một
người mà không có nguyên nhân “Ta chỉ thấy biểu hiện trước mắt cái quả đang trổ mà
không thể thấy được tất cả các nguyên nhơn vi tế đã sinh quả ấy, vì nhơn không phải
hoàn toàn phát sanh trong hiện tại mà có thể rải rác gieo trồng tự vô lương kiếp.” [ 43,
Tr 297]. Vì vậy, người am hiểu Phật pháp sẽ không vì tâm cầu danh cầu lợi mới làm
những hành động tốt mà họ làm thực sự vì tình thương yêu, vì khởi tâm hoan hỷ, thấu
hiểu được nỗi trắc ẩn của muôn vạn vật, muôn vạn chúng sinh.
21
Nếu như thuyết duyên khởi khái quát nên thế giới như một mạng lưới “nhân
duyên sinh” vĩ đại, nói lên mối quan hệ chặt chẽ, nương vào nhau mà tồn tại của các
sự vật, hiện tượng, thì thuyết nhân quả giúp con người điều chỉnh đạo đức, hành vi
của con người. “Không phải một cách ngẫu nhiên mà đức Từ phụ Thích-ca Mâu-ni
lại dạy về luật nhân quả trong hầu hết các kinh điển, và mỗi lời dạy của Ngài đều
hàm chứa vô số ý nghĩa, song cũng không ngoài mục làm cho tất cả chúng sinh đều
nhận ra được mối quan hệ giữa nhân duyên đời trước và quả báo đời sau của mình.
Bởi một khi đã nhận hiểu được mối quan hệ đó, thì dù chúng ta làm việc gì, nói lời
gì, cũng đều sẽ phải nghĩ đến kết quả tốt hay xấu mà nó mang lại. Như vậy sẽ tuyệt
đối không có sự làm liều, nói ẩu, để rồi phải chịu hậu quả đau khổ trong hiện tại và
tương lai.” [50, Tr 5]
Theo giáo lí nhà Phật, nhân nào quả nấy, không bao giờ nhân quả tương phản
hay mâu thuẫn nhau. Nói cách khác, nhân quả bao giờ cũng đồng một loại. Một
nhân không thể sinh được quả, mà phải được sự trợ giúp của nhiều duyên khác, thí
dụ, tại một số nơi con người chịu hậu quả của việc hạn hán như ngày nay không
phải do một nguyên nhân mà là sự tích tụ của nhiều yếu tố như: chặt phá rừng, xây
dựng nhiều nhà máy, khu công nghiệp, chất thải từ phương tiện giao thông... Biết
được điều đó con người đều cẩn thận trong mọi hành động của mình, chung tay vì
cuộc sống của vạn vật, họ cần biết rằng hành động của họ làm ra tuy không lớn
nhưng là một trong những nhân tố cấu thành sự ô nhiễm chung của xã hội. Càng
giảm đi nhiều nhân tố tiêu cực gây ô nhiễm môi trường thì bài toán khó của toàn xã
hội sẽ trở nên đơn giản hơn.
Phật giáo giúp con người hi u được nguyên nhân và tìm ra biện pháp đ hạn
chế ô nhiễm môi trường thông qua giáo lí tứ diệu đế
Giáo lí Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ đế, là bài Pháp đầu tiên mà Đức Phật
thuyết Giảng cho 5 anh em ông Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển, bao gồm bốn
chân lí sự thật khổ đau của con người là Khổ- tập- diệt- đạo
Khủng hoảng sinh thái, thiên tai, lũ lụt, hạn hán, ô nhiễm môi trường... là
những biểu hiện của môi trường tự nhiên có liên quan chặt chẽ đến khái niệm khổ
22
đế trong chân lí "tứ đế" của đạo Phật. Do những hành vi cố ý, không làm chủ được
hành động của mình, làm tổn thương đến thiên nhiên mà con người phải gánh chịu
những hậu quả mất cân bằng, đảo lộn cân bằng sinh thái, ô nhiễm môi trường, suy
thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên. Khổ là gì? Là khi con người sống trên trái đất
này đang phải gánh chịu những hậu quả do chính con người gây ra. Không ít nơi tuy
cuộc sống vật chất đầy đủ nhưng con người đang phải sống cùng với bầu không khí
bị ô nhiễm trầm trọng. Nạn chặt phá rừng gia tăng khiến con người phải chịu những
hậu quả của lũ lụt, hạn hán, lũ quét, bão, họ phải đối mặt với những cảnh tượng
thương tâm. Đem đến sự an vui cho muôn loài đòi hỏi con người ý thức về giá trị
bình đẳng của mọi loài sinh vật. Ta cần hiểu rằng đó không chỉ là nỗi khổ của ta mà
là nỗi khổ của muôn vạn chúng sinh. Những loài động vật quý hiếm đang ngày đêm
bị rình rập, vì phục vụ cho lợi ích của con người mà bao chúng sinh chịu đau khổ
hàng ngàn con gấu bị giam cầm để hút mật, hàng triệu cá mập bị giết để lấy vây,
loài tê giác hay voi bị giết chỉ để lấy sừng, lấy ngà, nhiều động vật trở tuyệt chủng
vì mất đi môi trường sống, những cánh đồng đang xanh tươi bỗng chốc trở nên tàn
lụi chỉ vì nhu cầu vật chất của những kẻ muốn chiếm đoạt thiên nhiên, cướp đi cơ
hội sống của muôn loài.
Giáo lí đạo Phật đã chỉ ra nguyên nhân của mọi sự khổ đau trên cuộc đời này
thông qua “tập đế- nguyên nhân của khổ” – đây được xem như cội nguồn căn
nguyên xuất phát từ bản thân mỗi con người, được xem như “tam độc” là tham lam,
sân hận và si mê.
Tâm tham tạo nền móng vững chắc cho những ham muốn dục lạc về vật chất
và tinh thần. Phật giáo cho rằng mọi khổ đau của con người đều bắt nguồn từ sâu
thẳm bên trong tâm thức, đó chính là lòng tham. Nó làm cho con người cố bám víu
vào các sự vật, sự việc, hiện tượng để đáp ứng lòng khao khát tham ái không bao
giờ dừng, không bao giờ thỏa mãn. Tác giả Lê Văn Tâm đã từng đề cập : “Tính
tham dục ngày càng nhanh, ngày càng nhiều và ngày càng mới” đã cổ vũ và thúc
đẩy sự phát triển lòng tham ái, khiến con người xa rời nếp sống tỉnh thức, xa rời và
đối nghịch với thiên nhiên, đã xô con người vào sự phá hoại những nhân tố mà
23
mình dựa vào để sinh tồn và phát triển” [40, Tr 160]. Nếu chúng ta chỉ quan tâm
đến lợi ích kinh tế trước mắt mà không chú ý đến việc xây dựng một nền đạo đức
môi trường, hoàn thiện nhân cách và hành vi ứng xử với thiên nhiên thì sự phát triển
đó sẽ trở nên lệch lạc, không bền vững.
Bên cạnh đó, những nỗi khổ của con người là do sân hận và si mê. Sân hận
chính là những cảm xúc giận dữ, phiền não gây ra những đau khổ thân thể và tâm trí
cùng với những hành động hung hãn. Chính điều đó làm cho tâm tham lam ngày
càng ngự trị trong tâm thức mỗi con người, phát khởi nên những hành động trái với
quy luật tự nhiên nhằm chỉ để đáp ứng “cái tôi vị kỉ” của họ.
Sự thật cao quý thứ ba mà đức Phật đề cập đến đó chính là diệt đế - sự chấm
dứt của khổ đau, đây được xem như là giải thoát luận hay lý tưởng luận của Phật
Giáo. Diệt đế hay con gọi là niết bàn, được xem như một trạng thái tối cao của hạnh
phúc, an bình và tự do để trải nghiệm trong cuộc sống hiện tại này. Nếu đoạn trừ
lòng tham con người chẳng cần tạo ra ác nghiệp, không chịu cảnh sinh tử luân hồi.
Liên hệ với vấn đề bảo vệ môi trường, con người cần phải đoạn triệt được lối sống
thỏa thích, phí phạm mà không biết tiết kiệm trong việc sử dụng nguồn tài nguyên
thiên nhiên, sản xuất vượt quá nhu cầu cần thiết.
Chân lí thứ tư đó chính là đạo đế: là con đường là phương pháp đoạn trừ đau
khổ để đưa đến niết bàn, đó chính là phương thức nhằm áp dụng giáo lí Phật Giáo
trong việc bảo vệ môi trường. Chân lí này đòi hỏi về một trách nhiệm về đạo lí làm
người, giúp hạn chế những nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường, là một trong
những phương châm sống của người tu học Phật pháp.
Liên hệ với vấn đề đạo đế chúng tôi cũng nghiên cứu nhằm làm rõ vai trò của
kinh tế học Phật Giáo đối với việc điều chỉnh thói quen của con người, tạo nên một
nền kinh tế bền vững lấy phương châm và mục tiêu bảo vệ môi trường làm mục
đích. Trong bài tham luận: “ Phật Giáo với văn hóa tiêu dùng thời cách mạng công
nghiệp” được in trong kỷ yếu hội thảo tại Đại Lễ Phật Đản VeSak Liên Hợp Quốc
năm 2019, tác giả Trương Văn Chung đã từng đề cập đến ba nguyên lí của kinh tế
học Phật Giáo trong đó, nguyên lí thứ ba được tác giả nhấn mạnh về vai trò của Phật
24
Giáo đó chính là hướng con người vào con đường trung đạo, đó là một trong những
nhân tố quan trọng giúp con người giảm thiểu nhu cầu và tham vọng tiêu dùng thái
quá trước những cám dỗ của nền kinh tế thị trường.
1.2.2 . Cơ sở lí luận về vai trò của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trường
xã hội
Trong kinh sách Phật giáo, ta tìm thấy nhiều quan niệm về các vấn đề của
môi trường xã hội như xây dựng xã hội công bằng, văn minh; xây dựng mối quan hệ
giữa các cá nhân trong xã hội…
Phật iáo góp phần xây dựng xã hội công bằng, văn minh thông qua giáo lí
bình đẳng
Sống trong một xã hội bất bình đẳng, xuất thân từ giai cấp cao quý, tuy nhiên
Đức Phật chính là người đem lại triết lí bình đẳng thực sự cho nhân loại, sự bình
đẳng ấy không chỉ giới hạn ở con người mà đó là sự bình đẳng đối với tất cả mọi
loài chúng sinh, mối quan hệ bình đẳng giữa con người được diễn tả một cách khái
quát và cụ thể thông qua mối quan hệ giai cấp và mối quan hệ nam nữ.
Mối quan hệ giữa bình đẳng về giai cấp được khái quát cụ thể trong các kinh
điển Phật Giáo. Con người khi sinh ra không ai là cao quý hơn ai, mà theo đức Phật
là do hành vi mà con người trở thành bậc phạm trí hay kẻ bần tiện. “Theo Phật giáo,
mọi sai biệt trên thế giới này đều tùy thuộc vào các nhân duyên mà sinh khởi; cũng
vậy, sự khác nhau về địa vị, hoàn cảnh giàu sang hay nghèo khổ, ngu dốt hoặc
thông minh... tất cả đều hoàn toàn do hành vi tạo tác của mỗi con người chứ không
phải do tự nhiên hay được sắp đặt theo bất kỳ một thông lệ hoặc quy định nào. Trên
tinh thần này, sự phân chia giai cấp trở thành phi lý và vô nghĩa.” [8, Tr 10]. Đức
Phật dạy rằng chúng ta không nên phân biệt mình với người khác. Ngài luôn có một
cái nhìn cảm thông với những người chịu nhiều đau khổ, không đồng tình với quan
niệm của giai cấp Bà La Môn cho rằng họ là giai cấp tối thượng còn các giai cấp
khác là hạ liệt. Trong kinh điển Pali, tư tưởng bình đẳng được khái quát một cách cụ
thể: “ dù là người khatti- ya, vessa, sudda hay bà la môn – tất cả bốn giai cấp nếu sát
sinh, lấy của không cho, có tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lời, nói ác khẩu,
25
nói lời phù phiếm, có tham tâm, có sân tâm, có tà kiến; sau khi thân hoại mạng
chung đều sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Ở đây, này Assalãyana, do luận
cứ gì hay do thẩm quyền gì của các bà la môn và các vị ấy lại nói: “ chỉ có giai cấp
bà la môn là tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt... là con cháu thừa tự của Phạm
Thiên?”[49, Tr 188] . Như vậy, bình đẳng trong đạo Phật không phải là một sự hình
dung trừu tượng mà được cụ thể hóa rõ ràng, là nhịp cầu hướng con người đến chân,
thiện, mỹ. Dưới ánh sáng tâm linh Phật pháp, cùng cái nhìn của một đấng giác ngộ,
giác tha, mọi sự phân biệt giai cấp đều trở nên vô nghĩa. Trong tổ chức giáo hội của
mình, Đức Phật đã dung nạp những hàng đệ tử thuộc nhiều thành phần khác nhau,
không phân biệt giai cấp, nghề nghiệp hay địa vị xã hội. Chữ “ Tăng đoàn” trong
Phật giáo “ là tiếng gọi tắt của hai chữ “ Tăng Già” có nghĩa là “ hòa hợp chúng”, ý
nghĩa là một nhóm người có tính cách hòa hợp và cùng ở chung với nhau”[8, Tr 9].
Như vậy có thể thấy được điểm quan trọng và cốt yếu của các đệ tử Phật Giáo là
phải sống dựa trên tinh thần hòa hợp, muốn làm được điều đó, việc cốt yếu quan
trọng chính là các đệ tử của Phật phải biết san sẻ, đoàn kết, không có tâm phân biệt,
kiêu ngạo, vì lợi ích chung của tập thể.
Bình đẳng giữa nam và nữ là một trong những vấn đề cũng được Đức Phật
quan tâm sâu sắc, ngài luôn có cái nhìn cảm thông đối với người phụ nữ. Về mặt
giáo đoàn, Phật giáo cho phép người nữ xuất gia, khi đã thọ đủ giới pháp thì được
gọi là tỳ khiêu ny, họ được xem là một bộ phận cấu thành của tăng đoàn Phật Giáo.
Về phương diện chứng đắc, người nữ nếu tu hành tinh tấn, giữ gìn giới luật, thì
cũng có thể đạt đến giác ngộ, giải thoát, khi ngài A Nan hỏi Phật: "Không biết nữ
nhân sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình ... có thể chứng được quả Dự lưu, quả Nhất lai,
quả Bất lai hay quả A la hán không?": Đức Phật đã trả lời :"Này Ananda, sau khi
xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong pháp và luật do Như Lai thuyết
giảng, nữ nhân có thể chứng được dự lưu quả, nhất lai quả, bất lai quả hay a la hán
quả"[16, Tr 114].
Đặc biệt, giá trị của người phụ nữ được thể hiện qua tình mẫu tử thiêng liêng,
đề cao vai trò, thiêng chức của người mẹ đã sanh dưỡng, sánh vai cùng với cha
26
trong cuộc đời của con để nuôi con khôn lớn, thành người, như trong kinh “Vu Lan
Báo Hiếu”
“Tình mẹ thật sâu nặng
Thương con nào nhạt phai
Quả ngọt không tiếc nuối
Nuốt đắng nào chua cay
Thương con càng sâu đậm
Sầu bi tăng thêm ngày
Miễn sao con no ấm
Đói khát chẳng nguôi ngoai” [15, Tr 36]
Trái ngược hoàn toàn với quan điểm không xem trọng nữ giới trong gia đình
của đạo Bà La Môn, Phật Giáo đề cao giá trị của người phụ nữ. Trong kinh Thiện
Sanh, để mối quan hệ giữa vợ chồng được êm đẹp, người chồng nên lấy năm điều
mà yêu thương, tôn trọng vợ làm kim chỉ nam để đem đến giá trị hạnh phúc hôn
nhân đích thực, người vợ cũng đáng được tôn trọng, yêu thương: “Một là yêu
thương vợ. Hai là không khinh rẻ. Ba là sắm các thứ chuỗi ngọc, đồ trang điểm. Bốn
là tôn trọng quyền tự do cá nhân. Năm là xem vợ như chính mình” [49, Tr 167].
Người vợ, người mẹ hay thậm chí là con dâu không còn bị phân biệt, đối xử nữa,
mà thay vào đó họ có quyền và nghĩa vụ thiêng liêng, cao cả. Có lẽ, hiếm có một
tôn giáo nào mà sự cảm thông và tôn trọng người phụ nữ được thể hiện rõ ràng và
cụ thể như trong Phật Giáo, điều đó tạo nên giá trị yêu thương và vun đắp cho
những giá trị đạo đức tốt đẹp của đạo Phật.
Từ triết lí bình đẳng, Phật giáo điều chỉnh và tạo nên các mối quan hệ cân
bằng trong xã hội, đó chính là một trong những nền tảng quan trọng giúp Phật giáo
góp phần xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; xây dựng mối quan hệ gia
đình trở nên tốt đẹp.
Khi con người hiểu được sự bình đẳng trong Phật giáo và áp dụng nó vào
cuộc sống thường nhật thì mọi sự phân biệt, kì thị sẽ dần tan biến từ việc phân biệt
các giai cấp, thành phần xã hội, lớn hơn là phân biệt chủng tộc, quốc gia. Sẽ không
27
còn tình trạng người bóc lột người, bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo,
nước lớn ức hiếp nước bé, sử dụng những âm mưu thủ đoạn thôn tính lẫn nhau,
không còn những cuộc đấu tranh giữa các chủng tộc, phân biệt màu da, tôn giáo...
Trong xã hội mỗi người có một vai trò và vị trí khác nhau, nhưng đều quan trọng và
cần thiết “Tâm không còn một điểm vị kỷ, hành giả đã vượt lên khỏi mọi hình thức
chia rẽ riêng tư. Không bị giam hãm trong những tư tưởng hẹp hòi, không chịu ảnh
hưởng của tinh thần đấu tranh giai cấp, quốc gia, chủng tộc, tôn giáo, hành giả nhìn
tất cả mọi người là bạn đồng hành trong đại trùng dương mà ta gọi là đời sống muôn
loại vạn vật” [43, Tr 604].
ạo Phật góp phần xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa mọi người thông qua
tứ vô lượng tâm
Tứ là bốn, vô lượng tâm là tâm rộng lớn mênh mông, phủ trùm tất cả chúng
sanh, không thể nào suy lường, tính toán được... càng trau dồi tâm thì nó càng rộng
lớn và sự hiểu biết của ta càng phát triển. Từ đó ta mới thực hiện tâm vô ngã. Vô
lượng tâm còn có nghĩa là đẳng tâm, là tâm bình đẳng (xem người và vật như nhau)
[61, Tr 96] Tứ vô lượng tâm hay còn gọi là “từ, bi, hỉ, xả” là một trong những nền
tảng cơ bản của đạo đức Phật Giáo có giá trị giáo dục sâu sắc đối với cuộc sống của
con người, điều chỉnh thái độ và hành vi của người tu sĩ cũng như cư sĩ tại gia nhằm
xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
+ Tâm từ:
Giúp mọi người biết yêu quí và tôn trọng nhau hơn, không chỉ những người
tốt với ta mà cả những người tạo nên nghịch cảnh cho chúng ta, tâm từ giúp cho
cuộc sống trở nên hòa hợp, hạn chế các tệ nạn xã hội. “ Từ vô lượng là lòng mến
thương vô cùng tận của chúng ta đối với tất cả chúng sanh từ con người đến con vật,
cây cỏ. Lòng từ ban rải khắp tất cả thì ta sẽ tránh (vô tình) gây đau khổ cho chúng
sanh và đem lại cho chúng sanh cái vui chân thật [ 61, Tr 99]. Cách nhìn của mỗi
chúng ta về người khác là một cái nhìn chủ quan, tâm từ hướng con người đến một
cái nhìn toàn diện về người khác, biết chấp nhận những khiếm khuyết của đối
phương. Theo Đạo Phật hận thù không hóa giải được hận thù, chỉ có bao dung và từ
28
bi mới hóa giải được hận thù. Trong Kinh Phạm võng giới bồ tát, giới đem sân, đem
đánh trả đánh có ghi : “nếu Phật tử, không được đem giận trả giận, đem đánh trả
đánh....Nếu xuất gia bồ tát không có lòng từ bi cố báo thù , nhẫn đến cố báo thù cho
trong hàng lục thân, Phật tử này phạm “Khinh Cấu Tội” [ 20, Tr 48, 49]. Cốt lõi của
lòng từ thực sự là cho đi không cần đền đáp.
+ “Tâm Bi” :
Có thể được xem như một trong những nhân tố tỉnh thức tâm hồn của con
người, giúp chúng ta thương xót trước những cảnh khổ đau của hết thảy mọi loài
chúng sinh , đặc tính của tâm bi là ý thức chủ động của con người muốn giúp người
khác thoát ra khỏi cảnh khổ, “bi vô thượng là lòng thương vô bờ bến trước nỗi khổ
của chúng sanh. Người có lòng bi không đành lòng ngồi yên trước nỗi khổ của
chúng sanh. Đành rằng sự đau khổ của thế nhân là cái duyên nhân quả nhưng lòng
bi không cho phép chúng ta làm ngơ” [61, Tr 119]
Thấy khổ đau mà chưa xót thương thời không phải là người có “tâm bi”, xem
đó là một bài học giúp chúng ta trưởng thành hơn, là mong muốn cho mọi người
đều được hạnh phúc, thoát khỏi khổ đau. Tâm bi khiến người ta không vô cảm trước
những hoàn cảnh khốn khó, không tự quá đề cao cái tôi cá nhân, mà sống hòa nhập
vì người khác. Giáo dục Phật giáo đưa con người đến cách phát “Tâm Bi” là liều
thuốc vô cũng hữu hiệu khi mà văn bệnh “vô cảm”, “trầm cảm” trở thành một hiện
tượng phổ biến trong xã hội hiện nay. Nó được xem như một phương tiện thiết yếu
hữu hiệu đem đến sự an lạc, hạnh phúc của xã hội. Tâm bi chính là nhân lành của sự
che chở, yêu thương. Con người không có tâm bi thì xã hội sẽ trống vắng đi sự đồng
cảm, cũng như thiếu vắng đi tình thương của: cha con, vợ chồng, người thân, bạn
bè, đồng nghiệp, và kể cả đối với những người xa lạ. Phát khởi tâm bi trong Phật
Giáo là một trong những điều không chỉ người tu học Phật pháp mà còn nhiều thành
phần khác trong xã hội quan tâm. Bởi lẽ, rèn luyện được tâm Bi con người sẽ tạo
nên được mối quan hệ tốt đẹp, cảm thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn, những mối quan
hệ đó không chỉ bao gồm những người thân thích mà thậm chí là cả những người lạ,
người không ưa thích ta.
29
+ Tâm “hỷ”:
Là một trạng thái tâm thức của chính bản thân ta, cảm thấy vui trước niềm
vui của nhân thế, khi người khác đạt được thành công ta cũng cảm thấy hạnh phúc,
khi đó niềm vui sẽ được nhân lên gấp nhiều lần. Trong xã hội hiện đại ngày nay,
tâm hỷ giúp con người tạo nên mối quan hệ hòa hợp, thúc đẩy nhau cùng phát triển,
người có tâm hỷ sẽ không cảm thấy phiền não, không ganh ghét và đố kị với người
khác mà cảm thấy sự thành công của người khác chính là động lực để bản thân mình
cố gắng hơn. Tâm hỷ còn được thể hiện trên nhiều khía cạnh khác của đời sống xã
hội, từ việc tán thán công đức từ thiện, bố thí, cúng dường, xây nhà...của người
khác, góp công sức của mình vào những công việc thiện nguyện của người khác,
đồng thời phải luôn cân nhắc bản thân không “ hỷ” theo các ác pháp như sát sanh,
trộm cắp, tà dâm, nói dối, hại người.... có như vậy thì xã hội sẽ ngày càng
phát triển, đoàn kết, hạn chế căn bệnh ích kỉ, nhỏ nhen
+ Tâm “Xả” :
Là trạng thái của tâm thức khi đã buông bỏ những điều không tốt, không bám
víu hay chấp nệ vào bất cứ điều gì, đây được xem là một trong những điều khó thực
hành nhất nhưng cũng vô cùng cần thiết đối với những tín đồ Phật Giáo. Nói một
cách dễ hiểu, xả là cảm thấy bình thản trước sự khen chê, hay coi thường, phỉ báng,
trước mọi thăng trầm của thế sự, hay nói theo cách nhân thế đó là “tâm bất biến
trước dòng đời vạn biến”. Đời sống của Đức Phật là một gương sáng về tâm “xả”
cho những ai còn chưa biết buông bỏ, tâm còn vọng động. “ Như gió thổi ngang
màng lưới mà không bị vướng trong lưới, tuy sống giữa chợ người, ta không nên
luyến ái những những lạc thú huyền ảo và vô thường của đời. Như hoa sen từ bùn
dơ nước đục, vượt lên bao nhiêu quyến rũ của thế gian, ta phải sống trong sạch, luôn
luôn yên tính và an vui” [43, Tr 62]. Tâm xả có ý nghĩa thiết thực đối với đời sống
của con người, giúp con người giữ vững chánh kiến, tự tin không sợ hãi lo âu và là
chìa khóa giúp con người thành công trong cuộc sống, vượt qua chông gai, cám dỗ
và không vướng bận vào những mối quan hệ, thị phi không đáng có.
30
ạo Phật tạo nên môi trường xã hội tốt đẹp thông qua thập thiện nghiệp
Thập thiện nghiệp là một trong những chân lí của đạo Phật nhằm điều chỉnh
hành vi của người học Phật và tu Phật, theo Phật giáo con người hữu phúc hay bất
hạnh là tùy vào nghiệp thiện hay nghiệp ác mà bản thân họ đã tạo tác ra. Mười điều
công đức được đề cập đó là: bố thí, trì giới, rèn luyện tinh thần, lễ độ, phục vụ tha
nhân, hồi hướng công đức, hoan hỷ với những công đức của người khác, thuyết
giảng và dạy pháp, nghe pháp, trau dồi chánh kiến. Làm mười thiện nghiệp trên
không những đem lợi ích cho chính mình mà còn đem lại lợi ích cho những người
khác tạo nên sự hài hòa trong xã hội. Sau đây, chúng tôi xin được mạn phép đề cập
đến một số vấn đề trong thập thiện nghiệp liên quan trực tiếp đến các Phật tử tại gia
nói chung và những người trong xã hội nói riêng.
+ “Bố thí”:
Hay còn được hiểu là sự cho, quyên tặng, đem cái của mình san sẻ với người
khác. Người học Phật và am hiểu Phật Pháp biết rằng việc bố thí nhằm tạo phước
đức cho chính bản thân và gia đình mình, đó là hành động giảm thiểu lòng tham-
một tâm bất thiện ngăn trở sự phát triển tâm linh. Thay vì sự ích kỉ, ta nên san sẻ lợi
ích cho người khác, đem hạnh phúc nhân rộng ra cho nhiều người, nhất là những
người có hoàn cảnh khó khăn, những số phận bất hạnh hơn. Khi bố thí ta không chỉ
thể hiện lòng nhân từ như một nghĩa cử cao đẹp của thân mà bằng cả tấm lòng, sự
chân thành và con tim, khối óc, khi cho đi. Vì sao nói như vậy? “Bố thí” trong Phật
giáo không chỉ giới hạn là việc đem đến vật chất cho người khác mà sự bố thí được
hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm 7 hành vi được ghi chép trong nhiều kinh điển: bố thí
bằng vẻ mặt, hay con gọi là “nhan thí” được thể hiện thông qua nụ cười, nét mặt vui
tươi, niềm nở, chân thành với người khác; hai là bố thí bằng lời nói hay còn gọi là:
“ngôn thí” được thể hiện thông qua sự ngợi khen, khích lệ, động viên và an ủi người
khác khi gặp khó khăn, hoạn nạn; ba là bố thí bằng tấm lòng hay còn gọi là “tâm
thí” thể qua sự thành tâm, tấm lòng rộng mở, dùng tâm từ để đối đãi với người khác;
bốn là “nhãn thí” hay còn gọi là ánh mắt, cái nhìn, nhìn người khác bằng thiện chí
và thân thương, không soi mói, để ý những việc không nên để ý; năm là “thân thí”
tức là việc làm, hành động của thân giúp đỡ người khác khi thấy họ gặp khó
31
khăn, sáu là “tọa thí” hay là chỗ ngồi, có nghĩa là nhường chỗ cho người khác,
người già, trẻ nhỏ, người tàn tật, hiến tặng bộ phận trên thân thể mình để giúp đỡ
người khác; bảy là “ phòng thí” được hiểu là cho người an nghỉ khi họ cần với tấm
lòng thiết tha. Từ đó ta có thể thấy được rằng bố thí trong Phật Giáo là một khái
niệm bao hàm rộng lớn, đối với việc “từ thiện” ta có thể thực hiện chúng vào một
thời điểm nào đó khi có đủ điều kiện về vật chất và nhân lực, còn với việc “bố thí”
có thể được thực hiện ở bất cứ một thời gian nào, bất kì một địa điểm nào, và dường
như chúng cần phải được trau dồi, rèn luyện để trở thành một thói quen, một nếp
sống của sự cho đi để tìm cầu hạnh phúc.
+ Trì giới:
Giới trong Phật Giáo hay còn gọi là giới luật, là những quy tắc đạo đức,
chuẩn mực mà đức Phật đề ra nhằm điều chỉnh hành vi của các đệ tử xuất gia và cư
sĩ tại gia. Đức Phật từng dạy rằng: “giới luật là thọ mạng của Phật Pháp, giới luật
còn thì Phật Pháp còn, giới luật mất thì Phật Pháp cũng suy vong”. Tuy nhiên, đối
với mỗi đối tượng thì số giới phải thụ là khác nhau trong đó, hàng đệ tử tại gia khi
quy y tam bảo, phải thụ ngữ giới (năm giới).
Ngũ giới chính là năm nguyên tắc sống của người Phật tử tại gia, cũng là
yếu tố đem lại hạnh phúc cho cá nhân, gia đình và xã hội bao gồm: không giết hại
mạng người, không nói dối, không trộm cắp, không tà dâm, không say rượu. Thực
hiện ngũ giới là một trong những biểu hiện nhằm hướng đến một xã hội lí tưởng, có
giá trị đích thực đối với đời sống xã hội hiện đại, đặc biệt trong xã hội ngày nay khi
sự suy thoái về đạo đức xã hội đang là một vấn đề cấp thiết, nó rèn luyện cho con
người tính tôn trọng sự công bằng, tôn trọng tính mạng, tài sản, nhân phẩm của
người khác, tôn trọng sự thật, biết tiết chế hành vi của mình trong đời sống hàng
ngày. Nếu áp dụng ngũ giới vào cuộc sống hiện đại, đời sống của mỗi cá nhân trong
mối quan hệ với các thành viên trong gia đình và trong một xã hội sẽ trở nên tốt
đẹp, tràn đầy sự an lạc và hạnh phúc.
+ Lễ độ:
Một trong những vấn đề được Phật Giáo đề cập cụ thể đó chính là bổn phận
làm người “lễ độ” đối với những bậc trên, những người lớn hơn mình. Đại sư Ấn
32
Quang từng nói “cần phải làm tròn bổn phận làm người rồi mới có thể nói đến việc
học Phật. Nếu đối với việc hiếu đễ, trung tín, lễ nghĩa, liêm sỉ không làm được một
việc gì, thì dù suốt ngày thờ Phật cũng vô ích, uổng công! Phật giáo bao quát cả
pháp thế gian và xuất thế gian, nên đối với người làm cha làm mẹ thì nói đến lòng
từ ái; đối với người làm con làm cháu thì nói đến việc hiếu thảo, dạy mọi người phải
làm tròn bổn phận của mình rồi sau mới có thể tu pháp xuất thế gian”. Đạo Phật có
thể được khẳng định là một trong những tôn giáo chú trọng đến nhiều mối quan hệ
trong một gia đình, như quan hệ giữa vợ chồng, cha mẹ với con cái, quan hệ anh em
và với bề trên...
Trong mối quan hệ giữa con cái với cha mẹ, sự lễ độ được biểu hiện qua
lòng hiếu thảo, sự kính yêu của con cái được thể hiện trong nhiều kinh văn vủa Phật
Giáo như kinh Tịnh Phạn Vương Niết Bàn, Kinh Tâm Địa Quán, Kinh Bản Sự,
Kinh Vu Lan Báo Hiếu... có thể nói “lễ độ” trong Phật giáo được hiểu theo một
nghĩa rộng bao gồm tâm thức đến hành động và lời nói. Tâm nghĩ về điều thiện,
hành động cư xử mang đến niềm vui, hạnh phúc cho cha mẹ, lời nói chất chứa sau
đó là niềm yêu thương và sự cung kính. Kinh Bản Sự có nói:
“Giả sử dùng hai vai
Trọn đời cõng cha mẹ
Thường cung kính cúng dường
Chưa thể đáp ân sâu”
Từ sự lễ độ với cha mẹ, anh em, bà con, quyến thuộc, ta còn rèn luyện để lan
tỏa nó đến với mọi người xung quanh, “lễ độ” là dùng tâm khiêm nhường, nhẫn
nhịn, biết “kính trên nhường dưới” để mà đối đãi, kết hợp với hành động thiện ý, lời
nói ân cần giúp ta phát huy được bản tính thiện lành trong tâm thức chúng ta.
“Lễ độ” không chỉ là một hành vi ứng xử mà còn là lối sống, một nét văn hóa
nhân văn của Đạo Phật hướng đến cho người Phật tử cũng như nhiều thành phần
khác trong xã hội. Nếu một người làm được, nhiều người làm được thì xã hội này sẽ
trở nên có khuôn phép, không còn cảnh con cái đối xử tệ bạc với cha mẹ, anh em
đối xử với nhau không bằng tình nghĩa ruột thịt, bên cạnh đó cũng hướng đến việc
xây dựng những mối quan hệ tốt đẹp, bớt đi những hiềm thù không đáng có.
33
Tiểu kết chƣơng 1
Trong chương 1 chúng tôi đã trình bày một số khái niệm công cụ, cũng như
những vấn đề mang tính lí luận về quan niệm của Phật giáo đối với vấn đề môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Về quan niệm của Phật Giáo đối với việc bảo vệ môi trường tự nhiên: chúng
tôi đã tìm hiểu giáo lí thập nhị nhân duyên, tứ diệu đế, nhân quả.... đây được xem
như là những giáo lí căn bản, làm nền tảng cho giáo dục Phật Giáo, đã góp phần vào
việc thay đổi nhận thức của con người về thế giới quan và nhân sinh quan, hướng
con người đến con đường đúng đắn, an vui và hạnh phúc, có thái độ và hành vi tích
cực đối với môi trường tự nhiên; bên cạnh đó việc bảo vệ môi trường xã hội được
chúng tôi tìm hiểu thông qua tư tưởng bình đẳng, tứ vô lượng tâm, thập thiện
nghiệp.... những giáo lí này thể hiện tinh thần từ bi, cứu khổ cứu nạn và triết lí sống
vị tha, yêu thương chúng sinh muôn loài, đem đến giá trị cốt lõi của triết lí đạo Phật,
hướng con người đến sự rèn luyện đạo đức và trí tuệ, là nền tảng vững chắc giúp
con người biết điều chỉnh thói quen ứng xử trong mọi mối quan hệ xã hội, xây dựng
một cuộc sống văn minh.
Muốn thay đổi thói quen, trước hết phải thay đổi nhận thức đó là lẽ dĩ nhiên,
tuy nhiên đó không phải là điều đơn giản, hay nói sâu xa hơn nó phải bắt nguồn sâu
thẩm bên trong từ tâm thức của con người. Có thể thấy được rằng, với những triết lí
mang tính khoa học và nhân văn sâu sắc, Phật Giáo có một cái nhìn toàn diện đối
với vấn đề môi trường, xem trọng vấn đề bảo vệ môi trường, từ đó có vai trò to lớn
trong việc chung tay bảo vệ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, giúp con
người thay đổi từ nhận thức đến thói quen hành động, Phật giáo giúp con người
hình thành nên thế giới quan, thấy được vị trí của mình trong mối liên hệ với môi
trường sinh thái, nguồn tài nguyên thiên nhiên, cũng như thấy được mối quan hệ
giữa cá nhân với mọi người xung quanh cũng như cộng đồng xã hội.
34
Chƣơng 2.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ MÔI TRƢỜNG TẠI HUYỆN ĐÔNG ANH VÀ THỰC
TRẠNG VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG
Ở HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
2.1. Một số vấn đề về môi trƣờng tại huyện Đông Anh hiện nay
2.1.1. Một số vấn đề về môi trường tự nhiên
Đông Anh nằm trong châu thổ ven sông Hồng thuộc đồng bằng Bắc Bộ, bao
gồm 23 xã, 1 thị trấn. Tổng diện tích đất tự nhiên là 18.214,89 ha. Trong đó diện
tích đất nông nghiệp là 10.921,46 ha, chiếm 59,96% diện tích đất tự nhiên, diện tích
nhóm đất phi nông nghiệp chiếm 33,14%, diện tích đất chưa sử dụng chiếm 0,85 %
(kiểm kê năm 2015 của phòng Tài Nguyên môi trường huyện Đông Anh) [46, Tr 5]
Sông Hồng, sông Cà Lồ, sông Đuống ...được xem là ba con sông lớn, đóng
vai trò quan trọng trong hệ thống thủy văn của huyện, các con sông này vừa là ranh
giới tự nhiên phân chia Đông Anh với các quận huyện khác của nội thành Hà Nội,
với huyện Sóc Sơn, cũng là nguồn cung cấp nước sản xuất và sinh hoạt chính trên
địa bàn ; ngoài ra trên địa bàn huyện còn có nhiều các ao, hồ, đầm lớn....
Về nền nhiệt độ, vì Đông Anh thuộc vùng khí hậu nhiệt đới, nên biên độ biến
đổi nhiệt trong ngày khá lớn, lượng mưa trung bình năm khoảng trên 1600m, được
coi là một trong những nơi mưa vừa phải ở nước ta, mưa tập trung vào mùa hè
(chiếm 80 đến 90 %) [22, Tr 70]. Nhưng do chịu sự ảnh hưởng chung của khí hậu
cả nước, tại huyện thường có gió mưa lớn, mùa Đông thường có bão cũng gây ra
những trở ngại nhất định cho việc sản xuất và đời sống của nhân dân. Trong những
năm gần đây môi trường tự nhiên ở huyện Đông Anh trở thành một mối quan tâm lo
ngại không chỉ của người dân nơi chịu ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường mà còn
là mối quan tâm sâu sắc của các cấp chính quyền và các tổ chức trong đó có các tổ
chức tôn giáo. Qua nghiên cứu thực tiễn bằng cách phỏng vấn các cán bộ chuyên
trách về môi trường tại một số xã trên địa bàn huyện Đông Anh đồng thời thu thập
số liệu cũng như tham khảo một số tài liệu báo cáo tổng kết của Phòng Tài nguyên
35
môi trường huyện Đông Anh, chúng tôi đưa ra một số kết luận về vấn đề môi trường
trên địa bàn huyện như sau:
* Các thành phần môi trường chuy n biến theo hướng tiêu cực, đang đứng
trước nguy cơ ô nhiễm cao
Môi trường nước, đất, không khí tại huyện Đông Anh tuy chưa ô nhiễm đến
mức trầm trọng nhưng đều có dấu hiệu ô nhiễm nhẹ. Trong tương lai gần, khi Đông
Anh được chọn là địa bàn quan trọng thu hút đầu tư phát triển kinh tế với các khu
công nghiệp, trung tâm tài chính thương mại, du lịch, thể thao lớn ..... các thành
phần môi trường sẽ chịu nhiều sức ép.
- Thực trạng môi trường nước
Một lần được trò chuyện, phỏng vấn cùng chuyên viên phòng Tài Nguyên và
môi trường huyện Đông Anh chúng tôi biết được rằng, thông qua các cuộc họp và
báo cáo được nêu ra tại hội nghị toàn huyện về công tác bảo vệ môi trường cho
thấy, các khu vực sông và ao hồ, đầm trên địa bàn huyện Đông Anh tiếp nhận hàng
ngày hàng trăm nghìn m3
nước thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt đô thị và nước
thải từ đồng ruộng, các khu vực chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản. Ngoài ra, theo Ông,
một trong những nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm nguồn nước tại huyện đó chính là
nguồn chất thải rắn sinh hoạt của các đô thị, khu dân cư, nông thôn tập trung.
Theo điều tra phân tích mẫu nước thải sinh hoạt tại các kênh mương, cánh
đồng và cửa ra 3 lưu vực sông Hồng, Sông Đuống và Sông Cà Lồ cho thấy: “tuy
100% các hộ gia đình đã trang bị bể tự hoại tuy nhiên lượng nước thải sinh hoạt
khác tại các hộ gia đình vẫn chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn, hàm lượng các chất
hữu cơ và các chất lơ lửng vượt tiêu chuẩn cho phép ảnh hưởng trực tiếp đến môi
trường, gây hại đến môi trường thủy sinh, gây tắc cống nước, bồi lắng dòng kênh,
và ảnh hưởng đến tài nguyên thủy sinh.” [46; Tr 18, 19]
Dựa vào số liệu điều tra của phòng tài nguyên môi trường huyện Đông Anh,
sau khi phân tích mẫu nước mặt tại các ao, đầm và các sông thu được kết quả như
sau: nguồn nước mặt trên địa bàn huyện Đông Anh đang có dấu hiệu ô nhiễm, trong
đó một số sông có dấu hiệu bị ô nhiễm như sông Cà Lồ (đo tại điểm đầu xã Thụy
36
Lâm, điểm cuối xã Bắc Hồng); sông Hồng (đo tại xã Võng La) các chỉ tiêu quan
trắc vượt khỏi giới hạn cho phép; ngoài ra cũng có một số sông trên địa bàn huyện
các chỉ tiêu quan trắc nằm trong giới hạn cho phép của quy chuẩn, như sông Ngũ
Huyện Khê (đo điểm đầu xã Mai Lâm, điểm cuối xã Đông Hội), sông Hoàng Giang
(đo trên địa bàn các xã).[46, Tr 10, 11]
Vấn đề ô nhiễm môi trường nước tại huyện Đông Anh là một vấn đề nan giải
bởi lẽ nó để lại hậu quả cho thiên nhiên, bên cạnh đó, còn ảnh hưởng sâu sắc đến
người dân địa bàn lân cận “tại một số nơi trên địa bàn các xã Mai Lâm, Dục Tú,
Việt Hùng, huyện Đông Anh, Hà Nội từ nhiều năm nay tồn tại hàng chục nhà xưởng
đang ngày đêm xả nước thải trực tiếp ra môi trường, làm ảnh hưởng tới cuộc sống
người dân quanh khu vực, gây ô nhiễm môi trường sản xuất nông nghiệp” [xem 63]
- Thực trạng môi trường không khí
Hiện nay, khi các ngành công nghiệp ngày càng phát triển, ô nhiễm không
khí là một vấn đề đáng quan tâm lo ngại đối với môi trường đô thị, khu công nghiệp
và một số làng nghề. Ở huyện Đông Anh, các hoạt động chăn nuôi, công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, hoạt động sản xuất của làng nghề, giao thông vận tải, xây
dựng đô thị, hạ tầng kĩ thuật.... là những nguyên nhân chính dẫn đến việc ô nhiễm
không khí
Cũng theo chuyên viên phòng tài nguyên môi trường, thông qua việc điều
tra, phân tích không khí tại các tuyến đường khu dân cư, tuyến đường giao thông
chính, làng nghề trên địa bàn huyện Đông Anh cho thấy: không khí trên địa bàn
huyện Đông Anh đang có dấu hiệu ô nhiễm, tại một số nơi, chất lượng không khí
vẫn đang ổn định, theo điều tra của phòng Tài Nguyên “hiện trạng chất lượng môi
trường không khí tại các làng nghề và cụm công nghiệp có chứa thành phần các khí
gây ô nhiễm không khí như SO2, NO2, CO, bụi lơ lửng, tiếng ồn vẫn đang nằm
trong giới hạn cho phép của quy chuẩn so sánh” [45;Tr 15]. Tuy nhiên, tại một số
vùng trên địa bàn, nơi có các nhà máy và các xưởng, chất lượng môi trường không
khí bị ảnh hưởng nặng nề, vì không thể hoạt động công khai vào ban ngày, các cơ
37
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY

Más contenido relacionado

Similar a LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY

Ảnh hưởng của phật giáo đến lối sống của người việt nam hiện nay
Ảnh hưởng của phật giáo đến lối sống của người việt nam hiện nayẢnh hưởng của phật giáo đến lối sống của người việt nam hiện nay
Ảnh hưởng của phật giáo đến lối sống của người việt nam hiện nayMan_Ebook
 
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA N...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA N...LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA N...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA N...OnTimeVitThu
 
LUẬN VĂN: CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG CHỨC SẮC PHẬT GIÁO Ở TỈNH
LUẬN VĂN: CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG CHỨC SẮC PHẬT GIÁO Ở TỈNHLUẬN VĂN: CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG CHỨC SẮC PHẬT GIÁO Ở TỈNH
LUẬN VĂN: CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG CHỨC SẮC PHẬT GIÁO Ở TỈNHOnTimeVitThu
 
Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...
Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...
Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận án: Hoạt động an sinh xã hội của một số tôn giáo nội sinh - Gửi miễn phí...
Luận án: Hoạt động an sinh xã hội của một số tôn giáo nội sinh - Gửi miễn phí...Luận án: Hoạt động an sinh xã hội của một số tôn giáo nội sinh - Gửi miễn phí...
Luận án: Hoạt động an sinh xã hội của một số tôn giáo nội sinh - Gửi miễn phí...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
LUẬN VĂN: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
LUẬN VĂN: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAYLUẬN VĂN: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
LUẬN VĂN: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAYOnTimeVitThu
 
Hoạt động phước thiện của tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam
Hoạt động phước thiện của tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt NamHoạt động phước thiện của tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam
Hoạt động phước thiện của tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt NamDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình Dương - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình Dương  - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình Dương  - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình Dương - Gửi miễn phí qu...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận án: Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng g...
Luận án: Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng g...Luận án: Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng g...
Luận án: Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng g...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo trong xây dựng gia đình văn hóa - Gửi miễn p...
Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo trong xây dựng gia đình văn hóa - Gửi miễn p...Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo trong xây dựng gia đình văn hóa - Gửi miễn p...
Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo trong xây dựng gia đình văn hóa - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
LUẬN VĂN: PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI KHMER HUY...
LUẬN VĂN: PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI KHMER HUY...LUẬN VĂN: PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI KHMER HUY...
LUẬN VĂN: PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI KHMER HUY...OnTimeVitThu
 
Một số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tông
Một số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tôngMột số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tông
Một số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tôngMan_Ebook
 

Similar a LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY (20)

Tieu luan Phat giao
Tieu luan Phat giaoTieu luan Phat giao
Tieu luan Phat giao
 
Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với đạo đức thanh niên, HAY
Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với đạo đức thanh niên, HAYẢnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với đạo đức thanh niên, HAY
Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với đạo đức thanh niên, HAY
 
Ảnh hưởng của phật giáo đến lối sống của người việt nam hiện nay
Ảnh hưởng của phật giáo đến lối sống của người việt nam hiện nayẢnh hưởng của phật giáo đến lối sống của người việt nam hiện nay
Ảnh hưởng của phật giáo đến lối sống của người việt nam hiện nay
 
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA N...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA N...LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA N...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA N...
 
LUẬN VĂN: CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG CHỨC SẮC PHẬT GIÁO Ở TỈNH
LUẬN VĂN: CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG CHỨC SẮC PHẬT GIÁO Ở TỈNHLUẬN VĂN: CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG CHỨC SẮC PHẬT GIÁO Ở TỈNH
LUẬN VĂN: CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG CHỨC SẮC PHẬT GIÁO Ở TỈNH
 
Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...
Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...
Luận văn: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần c...
 
Quản lý công tác xã hội đối với người tâm thần tại tỉnh Thái Bình
Quản lý công tác xã hội đối với người tâm thần tại tỉnh Thái BìnhQuản lý công tác xã hội đối với người tâm thần tại tỉnh Thái Bình
Quản lý công tác xã hội đối với người tâm thần tại tỉnh Thái Bình
 
Luận án: Hoạt động an sinh xã hội của một số tôn giáo nội sinh - Gửi miễn phí...
Luận án: Hoạt động an sinh xã hội của một số tôn giáo nội sinh - Gửi miễn phí...Luận án: Hoạt động an sinh xã hội của một số tôn giáo nội sinh - Gửi miễn phí...
Luận án: Hoạt động an sinh xã hội của một số tôn giáo nội sinh - Gửi miễn phí...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Tôn Giáo Tại Tỉnh Bình Dương
Quản Lý Nhà Nước Về Tôn Giáo Tại Tỉnh Bình DươngQuản Lý Nhà Nước Về Tôn Giáo Tại Tỉnh Bình Dương
Quản Lý Nhà Nước Về Tôn Giáo Tại Tỉnh Bình Dương
 
Khóa luận Ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống xã hội, con người việt nam.docx
Khóa luận Ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống xã hội, con người việt nam.docxKhóa luận Ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống xã hội, con người việt nam.docx
Khóa luận Ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống xã hội, con người việt nam.docx
 
LUẬN VĂN: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
LUẬN VĂN: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAYLUẬN VĂN: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
LUẬN VĂN: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
 
Hoạt động phước thiện của tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam
Hoạt động phước thiện của tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt NamHoạt động phước thiện của tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam
Hoạt động phước thiện của tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam
 
Luận văn: Đạo đức môi trường ở sinh viên Trường ĐH Hải Dương
Luận văn: Đạo đức môi trường ở sinh viên Trường ĐH Hải DươngLuận văn: Đạo đức môi trường ở sinh viên Trường ĐH Hải Dương
Luận văn: Đạo đức môi trường ở sinh viên Trường ĐH Hải Dương
 
Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình Dương - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình Dương  - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình Dương  - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình Dương - Gửi miễn phí qu...
 
Luận án: Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng g...
Luận án: Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng g...Luận án: Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng g...
Luận án: Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng g...
 
Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo trong xây dựng gia đình văn hóa - Gửi miễn p...
Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo trong xây dựng gia đình văn hóa - Gửi miễn p...Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo trong xây dựng gia đình văn hóa - Gửi miễn p...
Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo trong xây dựng gia đình văn hóa - Gửi miễn p...
 
LUẬN VĂN: PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI KHMER HUY...
LUẬN VĂN: PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI KHMER HUY...LUẬN VĂN: PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI KHMER HUY...
LUẬN VĂN: PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI KHMER HUY...
 
BÀI MẪU khóa luận tốt nghiệp ngành triết học, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU khóa luận tốt nghiệp ngành triết học, 9 ĐIỂMBÀI MẪU khóa luận tốt nghiệp ngành triết học, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU khóa luận tốt nghiệp ngành triết học, 9 ĐIỂM
 
Một số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tông
Một số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tôngMột số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tông
Một số vấn đề trong triết học phật giáo trần nhân tông
 
60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc60.Khóa luận li hôn.doc
60.Khóa luận li hôn.doc
 

Más de OnTimeVitThu

Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công tyLuận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công tyOnTimeVitThu
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VNLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VNOnTimeVitThu
 
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...OnTimeVitThu
 
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...OnTimeVitThu
 
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...OnTimeVitThu
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bảnLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bảnOnTimeVitThu
 
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...OnTimeVitThu
 
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật BảnTiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật BảnOnTimeVitThu
 
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dínhTiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dínhOnTimeVitThu
 
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAOTIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAOOnTimeVitThu
 
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍOnTimeVitThu
 
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍOnTimeVitThu
 
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍOnTimeVitThu
 
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...OnTimeVitThu
 
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...OnTimeVitThu
 
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...OnTimeVitThu
 
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công tyLuận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công tyOnTimeVitThu
 
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần OnTimeVitThu
 
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...OnTimeVitThu
 
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...OnTimeVitThu
 

Más de OnTimeVitThu (20)

Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công tyLuận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VNLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
 
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
 
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
 
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bảnLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
 
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
 
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật BảnTiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
 
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dínhTiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
 
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAOTIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
 
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
 
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
 
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
 
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
 
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
 
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
 
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công tyLuận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
 
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
 
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
 
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
 

Último

BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 

Último (20)

BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 

LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ THU THẢO VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG HIỆN NAY Ở HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC Hà Nội - 2020 1
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ THU THẢO VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG HIỆN NAY Ở HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Tôn giáo học Mã số: 60 22 03 09 CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG: NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN THỊ KIM OANH TS. NGUYỄN THÚY THƠM HàNội - 2020 2
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả điều tra trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trên bất kỳ công trình nào khác. Hà Nội, ngày ..... tháng ..... năm 2020 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Thu Thảo 1
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 4 Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG ....................................................................................... 14 1.1. Một số khái niệm căn bản ............................................................................... 14 1.2. Cơ sở lí luận về vai trò của Phật giáo đối với vấn đề bảo vệ môi trường ...... 17 1.2.1. Cơ sở lí luận về vai trò của Phật giáo đối với vấn đề bảo vệ môi trường tự nhiên .............................................................................................................. 17 1.2.2. Cơ sở lí luận về vai trò của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trường xã hội .. 25 Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................................ 34 Chƣơng 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ MÔI TRƢỜNG TẠI HUYỆN ĐÔNG ANH VÀ THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG Ở HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY .35 2.1. Một số vấn đề về môi trƣờng tại huyện Đông Anh hiện nay .................... 35 2.1.1. Một số vấn đề về môi trường tự nhiên ..................................................... 35 2.1.2. Một số vấn đề về môi trường xã hội ........................................................ 40 2.2. Thực trạng về vai trò của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trƣờng ở huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội hiện nay .................................................. 45 2.2.1. Thực trạng về vai trò của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trường tự nhiên . 45 2.2.2. Thực trạng về vai trò của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trường xã hội .. 56 Tiểu kết chƣơng 2: ............................................................................................... 62 Chƣơng 3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG Ở HUYỆN ĐÔNG ANH HÀ NỘI ......................................................................... 64 3.1. Một số vấn đề đặt ra trong việc phát huy vai trò của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trƣờng ........................................................................................ 64 3.1.1. Một số vấn đề đặt ra trong việc phát huy vai trò của Phật Giáo đối với vấn đề bảo vệ môi trường tự nhiên .................................................................... 64 3.1.2. Một số vấn đề đặt ra trong việc phát huy vai trò của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trường xã hội ........................................................................... 70 2
  • 5. 3.2. Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của Phật giáo đối với vấn đề bảo vệ môi trƣờng ở huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội .................................... 74 3.2.1. Khuyến nghị đối với các cấp chính quyền........................................................... 74 3.2.2. Khuyến nghị đối với Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam huyện Đông Anh và Tăng Ni trên địa bàn huyện........................................................................ 76 3.2.3. Khuyến nghị đối với các tín đồ Phật tử và người dân huyện Đông Anh. 77 Tiểu kết chƣơng 3.......................................................................................................................... 77 KẾT LUẬN ............................................................................................................................................ 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................ 81 PHỤ LỤC 3
  • 6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết đề tài Bảo vệ môi trường tự nhiên, xây dựng môi trường xã hội tốt đẹp là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu thúc đẩy xã hội phát triển về mọi mặt. Tại Việt Nam, cùng với quá trình đi lên của đất nước, vấn đề môi trường là một trong những mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội, được xem là một trong những chiến lược quốc gia, được Đảng và nhà nước quan tâm sâu sắc. Nhận thức được tầm quan trọng đó, các tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng luôn nỗ lực hết mình, chú trọng đến vấn đề chung tay xây dựng môi trường tự nhiên và môi trường xã hội trong quá trình đồng hành cùng dân tộc. Các tôn giáo, trong đó có Phật giáo đã tham gia ký kết “ Chương trình phối hợp về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2015 – 2020”. Sau 4 năm thực hiện, đã thu được nhiều kết quả. Với tinh thần nhập thế sâu sắc, Phật giáo là sợi dây liên kết vô hình tạo nên mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với thiên nhiên, với cộng đồng xã hội. Về môi trường tự nhiên, đạo Phật xây dựng thói quen ứng xử với môi trường tự nhiên theo lối tích cực và lành mạnh.Với tinh thần từ bi, cứu khổ cứu nạn và những triết lí mang tính khoa học như thập nhị nhân duyên, tứ diệu đế, nhân quả... Phật giáo hình thành nên thế giới quan, giúp con người hiểu được bản chất của thiên nhiên, mối liên hệ giữa con người với tự nhiên, hướng con người đến những giá trị sống cao đẹp. Việc xây dựng môi trường xã hội cũng được Phật giáo quan tâm đặc biệt, trong Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã nêu rõ phương châm hoạt động của Giáo hội: “Lý tưởng giác ngộ chân lý, hòa hợp chúng, hòa bình và công bằng xã hội của giáo lý đức Phật nhằm phục vụ Dân tộc, Tổ quốc và nhân loại chúng sinh, là tôn chỉ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoạt động theo phương châm “ Đạo Pháp- Dân tộc- Chủ nghĩa Xã hội”, trên cơ sở kính ngưỡng, phụng hành Giáo pháp, giới luật Phật chế và tuân thủ Pháp luật nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”[10, Tr 4]. Thông qua tinh thần từ bi, coi trọng 4
  • 7. mối quan hệ bình đẳng giữa con người với con người, Phật giáo hun đúc việc xây dựng môi trường xã hội một cách bền vững. Đông Anh được biết đến là mảnh đất giàu truyền thống văn hoá, gắn liền với thủ đô nghìn năm Thăng Long Hà Nội; nằm bên bờ sông Hồng, với vị trí thuận lợi nằm ở cửa ngõ thủ đô, có bề dày truyền thống lịch sử văn hoá, Phật giáo du nhập vào Đông Anh từ những ngày đầu mới hình thành, luôn đồng hành cùng với vùng đất địa linh nhân kiệt này. Các thế hệ chư tôn đức tăng ni, tu sĩ, cư sĩ tại huyện luôn nỗ lực phối hợp với các cấp chính quyền trong công cuộc vận động người dân thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội bằng nhiều hình thức khác nhau. Trong bối cảnh đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, “với vị trí quan trọng của Thủ Đô, Đông Anh là huyện đang được Trung Ương, Thành phố Hà Nội quy hoạch phát triển thành khu đô thị hiện đại phía Bắc sông Hồng, nhiều dự án về kinh tế, văn hóa- xã hội đã và đang được triển khai. Các dự án này tạo cho Đông Anh có cơ hội phát triển đa dạng cả về kinh tế, văn hóa, xã hội trong những năm tiếp theo [1, Tr 266]. Cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, đời sống nhân sinh sẽ có nhiều biến đổi theo chiều hướng ngày càng đa dạng, con người phải đối mặt với nhiều vấn đề và áp lực trong cuộc sống, môi trường cũng sẽ thay đổi tiêu cực. Trước thực trạng như vậy, tinh thần nhập thế của Phật Giáo huyện Đông Anh cũng cần có những định hướng và phương thức mới. Cần hạn chế những mặt tiêu cực, những vấn đề mà người ta thường thấy còn tồn tại ở Phật Giáo trước đây, phát huy những mặt tích cực theo định hướng của Đảng và nhà nước nhằm xây dựng hình ảnh Phật Giáo đứng vững trong lòng người dân huyện. Với nền tảng và sức ảnh hưởng của Phật Giáo trên địa bàn huyện, cùng với sự phối hợp của Ban Trị sự Phật Giáo Huyện Đông Anh và các Chùa trên địa bàn, Phật Giáo sẽ phát huy được vai trò và sức mạnh của mình trong vấn đề bảo vệ môi trường, đồng hành cùng tiến trình đi lên của huyện nói riêng và của nước ta nói chung. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vai trò của Phật Giáo với môi trường tại Việt Nam, tuy nhiên chưa có một công trình nào liên quan trực tiếp đến vai trò 5
  • 8. của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trường tại huyện Đông Anh. Với những lí do trên đây, tôi chọn đề tài “Vai trò của Phật Giáo đối với việc bảo vệ môi trường hiện nay ở huyện Đông Anh Thành Phố Hà Nội, thực trạng và những vấn đề đặt ra” làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình. Hy vọng luận văn sẽ góp phần nhỏ bé vào việc áp dụng giáo lí Phật Giáo trong việc bảo vệ môi trường tại huyện Đông Anh nói riêng và tại Việt Nam nói chung. 2. T nh h nh nghiên c u Bảo vệ môi trường tự nhiên, xây dựng môi trường xã hội tốt đẹp là một trong những vấn đề được các tôn giáo, trong đó có Phật giáo quan tâm sâu sắc. Thông qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, chúng tôi được tiếp cận với nguồn tài liệu phong phú về Phật Giáo và vai trò của đạo Phật đối với những vấn đề này. Tuy nhiên, để đi sâu vào nghiên cứu và tập trung vào đề tài chúng chia thành những nhóm tài liệu sau: Thứ nhất các công trình liên quan đến hật giáo iệt Nam nói chung , hật giáo huyện ông nh nói riêng và quan đi m, ảnh hưởng của hật iáo đối với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội Trước hết phải kể đến tác phẩm “ Lịch sử Phật Giáo Việt Nam” (gồm 3 tập) của tác giả Lê Mạnh Thát xuất bản vào năm 2006 [24], [25], [26], trên cơ sở tổng hợp những tài liệu và khắc phục những hạn chế lịch sử về quan điểm và phương pháp luận nghiên cứu của một số công trình trước đây, tác giả đem đến cho người đọc cái nhìn tổng quát về sự xuất hiện của Phật Giáo tại Việt Nam, cách thức tiếp thu tư tưởng, sự nhận thức Phật Giáo của nhân dân và vai trò của Phật Giáo trong sự nghiệp đấu tranh và duy trì bản sắc truyền thống văn hoá Việt Nam. Ngoài ra còn một số tác phẩm như “Việt Nam Phật giáo sử luận” của Nguyễn Lang [34],[35]; “Tư tưởng Phật giáo Việt Nam” của Nguyễn Duy Hinh. Những công trình trên cung cấp một cách khá toàn diện về lịch sử và đặc điểm Phật giáo Việt Nam. Về Phật Giáo Thăng Long Hà Nội, theo chúng tôi có liên quan mật thiết đến Phật Giáo huyện Đông Anh, có thể kể đến một số tác phẩm như “Đời sống tôn giáo tín ngưỡng Thăng Long” của tác giả Đỗ Quang Hưng, xuất bản năm 2010, [7] cuốn 6
  • 9. sách gồm có 3 phần trong đó ở Phần 2 tác giả đã khái quát về những đặc điểm và vai trò của Phật Giáo tại Thăng Long- Hà Nội qua các giai đoạn và đúc kết lại bằng những đặc điểm của Phật Giáo Thăng Long, Hà Nội. Tác giả đã nêu lên ba luận điểm quan trọng như sau: “thứ nhất, Thăng Long là nơi mà Phật Giáo Bắc Tông, bộ phận quan trọng nhất của Phật Giáo Việt Nam xuất hiện và phát triển rực rỡ với nhiều lĩnh vực có ý nghĩa tiêu biểu nhất; thứ hai Phật giáo Việt Nam nói chung sớm được Việt hóa, trở thành một bộ phận quan trọng của hệ ý thức của các nhà nước phong kiến độc lập. Đồng thời có những đóng góp quyết định cho việc hình thành nền văn minh Đại Việt. Trong đó, dù Phật giáo bác học hay Phật giáo dân gian đều có vai trò riêng của mình. Trong quá trình ấy, vị trí của Phật giáo Thăng Long- Hà Nội được xem là cái nôi, nơi trải nghiệm và đúc kết nhất là những thế kỉ đầu tiên của nền độc lập; thứ ba, Phật Giáo Lý- Trần là triều đại đã giải quyết mẫu mực mối quan hệ giữa tôn giáo và chính trị tạo nên một truyền thống Phật Giáo nhập thế tiêu biểu nhất. Kinh thành Thăng Long và Phật Giáo Thăng Long cũng là nơi nuôi dưỡng và phát triển truyền thống đó” [7, Tr 93]. Ngoài ra, Phật Giáo Thăng Long còn được đề cập ít nhiều trong các công trình nghiên cứu chung về Phật Giáo thời Lý, Phật giáo Hà Nội như cuốn sách “Phật Giáo đối với tín ngưỡng của người Việt thời Trần” của tác giả Nguyễn Thúy Thơm [37], bên cạnh đó phải kể đến cuốn sách: kỷ yếu Chùa Diên Phúc với 1000 năm Thăng Long, Hà Nội, Nxb Lao Động 2010, của viện nghiên cứu truyền thống và phát triển [64], cuốn sách khái quát về sự du nhập và phát triển của Phật Giáo tại huyện Đông Anh và một số xã trên địa bàn huyện ngược theo dòng lịch sử, đặc biệt là dưới tiều đại nhà Lý. Về các kinh kệ, tài liệu liên quan đến giáo lí và quan niệm của Phật Giáo về xây dựng môi trường (bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội): kinh Pháp cú, kinh trường A Hàm, có những kinh đề cập đến sự răn dạy của đức Phật về xây dựng lối sống đạo đức và mối quan hệ giữa con người với con người, ngoài ra việc xây dựng nền tảng đạo đức và bảo vệ môi trường được đức Phật đề cập đến trong các kinh: kinh trung bộ, kinh trường A Hàm, kinh Trung A Hàm, Kinh Tăng Nhất Hàm, Kinh Pháp Cú, Kinh Kim Cang.... Trong nghiên cứu này 7
  • 10. chúng tôi đề cập đến kinh điển như một thước đo để đánh giá quan điểm của đức Phật trong việc nhìn nhận mối liên hệ giữa con người với con người,con người với tự nhiên và xã hội. Bên cạnh kinh điển đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề Phật giáo chung tay bảo vệ môi trường. Tiêu biểu là các cuốn sách: Phật giáo và môi trường của tác giả Thích Nhật Từ và Thích Đức Thiện [51]. Các tác giả đã thu thập từ các bài tham luận được trình bày tại hội thảo quốc tế về: “Quan điểm Phật giáo hướng đến thành tựu đạt được những Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên Hiệp Quốc” đã diễn ra trong ngày Đại lễ Phật Đản Vesak của Tổ chức Liên Hiệp Quốc năm 2014 (The United Nations Day of Vesak 2014) tại Việt Nam. Cuốn sách này liên quan đến những khía cạnh cốt yếu của vấn đề: Hưởng ứng Phật giáo đối với việc nóng lên Toàn cầu và Bảo vệ Môi trường. Các tác giả nhìn lại những chính sách trước đây và đưa ra nguyên nhân vì sao những giải pháp quá khứ không mang lại hiệu quả. Tác giả Thích Giác Duyên (2012) có cuốn sách “ tìm hiểu về Phật Giáo với sự lành mạnh” . Bên cạnh đó còn một số bài viết riêng rẽ công bố trên các tạp chí như: Tạp chí nghiên cứu tôn giáo, Tạp chí triết học, nghiên cứu lí luận... cũng đề cập nhiều đến vấn đề Phật Giáo với môi trường. Về thực tiễn tại Việt Nam, có bài viết “Phật giáo với bảo vệ môi trường ở Việt nam”, tạp chí nghiên cứu tôn giáo, số 9 (123), 2014, tr. 12- 19, Ngô Văn Trân.[31] Bài viết góp phần làm rõ giá trị của Phật Giáo của Phật giáo với bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Theo ông, tiếng nói đạo đức về môi trường của Phật Giáo Việt Nam sẽ góp phần lay chuyển tâm thức của tín đồ và quần chúng tín đồ Phật Giáo theo hướng tích cực, phù hợp với đạo đức môi trường trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa. Ngoài ra, có thể kể đến bài viết “Phật giáo với mục tiêu phát tri n bền vững và bảo vệ môi trường” của Thượng tọa Thích Huệ Thông , theo Tác giả “ cả cuộc đời Đức Phật là một nhân chứng sống động của một con người sống chan hòa, luôn tôn trọng, yêu thương muôn loài để gìn giữ và bảo vệ sự cân bằng sinh thái. Đức Phật cũng chính là một nhà lãnh đạo, tiên phong đầu 8
  • 11. tiên trên thế giới nhận thức đầy đủ và đúng đắn mối quan hệ mật thiết, không thể tách rời giữa vạn vật sinh linh.” Đề cập đến vấn đề vai trò của Phật Giáo đối với môi trường xã hội phải kể đến quyển sách “đạo đức Phật Giáo với đạo đức con người Việt Nam” của tác giả Đặng Thị Lan [6], góp phần nghiên cứu chuyên sâu về đạo đức Phật Giáo và sự ảnh hưởng của nó đến với đạo đức và môi trường xã hội tại Việt Nam, cuốn sách gồm 4 chương, đề cập đến những vấn đề cơ bản của đạo đức Phật Giáo, mối liên hệ giữa đạo đức Phật Giáo và đạo đức truyền thống Việt Nam, và những đề xuất, giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của đạo đức Phật Giáo nhằm hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam hiện nay. Ngoài ra những giáo lí và tư tưởng cao đẹp của Phật Giáo cũng được thể hiện thông qua cuốn sách “những nét văn hóa của đạo Phật” của Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam. [55] Chúng tôi cũng tìm hiểu về tinh thần nhập thế và sự áp dụng những giáo lí của đạo Phật vào cuộc sống hiện đại thông qua các tác phẩm: “Phật Giáo trong thời đại chúng ta” – nhiều tác giả [40], hay tác phẩm “Phật giáo nhập thế và các vấn đề xã hội đương đại” [64] của Viện Trần Nhân Tông, các tác phẩm trên đã đề cập đến sự gắn bó tốt đẹp của Phật Giáo và dân tộc thể hiện qua nhiều khía cạnh như phong tục tập quán, ngôn ngữ tư duy, duy thức học Phật Giáo... và những vấn đề đặt ra nhằm phát huy nét đẹp của Phật Giáo trong quá trình xây dựng môi trường xã hội tại Việt Nam. Một trong những tác phẩm thể hiện cụ thể những ảnh hưởng của Phật Giáo đối với xã hội có thể kể đến đó là: Tôn giáo trong mối quan hệ văn hoá và phát triển, Nxb Khoa học xã hội của tác giả Nguyễn Hồng Dương. [32] Để hiểu thêm cặn kẽ về những ảnh hưởng của Phật Giáo đến đời sống xã hội của người Việt Nam, chúng tôi nghiên cứu chuyên sâu về những triết lí thông qua các tác phẩm Con người với giáo lý mười hai nhân duyên, của tác giả Phạm Đình Nhân (2012) [42], Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới do Hòa Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, Kinh Pháp Cú Thí Dụ- Việt dịch Thích Minh Quang, Phật thuyết đại thừa Vô Lượng Thị Trang Nghiêm bình đẳng giác kinh, Những Lời Phật Dạy- Trích Lục các bài Giảng trong Kinh điển Pali của Tỳ Khưu Bodhi 9
  • 12. Thứ hai, các tài liệu nhằm tìm hi u rõ hơn về các khái niệm chuyên ngành , thực trạng các vấn đề xã hội và môi trường tại huyện ông nh Bàn về vấn đề môi trường, trước hết phải kể đến cuốn sách: Cơ sở khoa học môi trường (2001)- NXB đại học Quốc Gia Hà Nội của tác giả Lưu Đức Hải, tác giả đã đưa ra các giải pháp nhằm bảo vệ môi trường và quản lí dân số, lương thực, năng lượng và phát triển bền vững. Cuốn sách sinh thái nhân văn và phát triển bền vững của GS. Lê Trọng Cúc (2016), NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội. Nội dung của sách đề cập đến các mối quan hệ mang tính hệ thống giữa xã hội loài người và môi trường thiên nhiên. Tác giả Võ Quý có Cuốn sách Môi trường và đa dạng sinh học (2016) - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội (Tuyển chọn các công trình nghiên cứu của ông) đề cập nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn mang tính thời đại về môi trường và đa dạng sinh học, giúp người đọc hình dung bức tranh cụ thể về diễn biến của vấn đề môi trường ở nước ta. Bên cạnh các sách còn một số bài viết của các tác giả đăng trên các tạp chí, kỷ yếu hội thảo chuyên ngành. Điển hình như bài viết: sinh thái nhân văn và phát triển bền vững: nghiên cứu ở Việt Nam của Phan Thị Anh Đào và Lê Trọng Cúc đăng trên Kỷ yếu Hội thảo Khoa học: Sinh thái nhân văn và phát triển bền vững, năm 2017. Trong đó, tác giả đi sâu vào phân tích thực trạng và giải pháp nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường, khủng hoảng sinh thái tại Việt Nam. Về thực trạng các vấn đề xã hội và môi trường tại huyện Đông Anh không thể bỏ qua cuốn sách địa chí Đông Anh xuất bản năm 2016, NXB Chính Trị Quốc Gia, đây được xem như một bộ bách khoa toàn thư về Đông Anh. Qua đây chúng tôi có được một cái nhìn tổng quan nhất về mọi mặt từ điều kiện tự nhiên đến kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội về của vùng đất giàu văn hoá ngoại thành thủ đô. Nghiên cứu cụ thể hơn về thực trạng môi sinh và xã hội tại huyện Đông Anh, có “Báo cáo tổng kết công tác bảo vệ môi trường” của Phòng Tài Nguyên và môi trường, huyện Đông Anh [45], [46] Đây là những tài liệu cung cấp một cách chính xác và cụ thể nhất các số liệu thống kê liên quan đến môi trường trên địa bàn huyện. 10
  • 13. Ngoài những công trình theo hai cụm chủ đề kể trên, nhằm tìm hiểu về cơ sở lí luận cũng như, xu hướng phát triển và sự phát huy vai trò của Phật giáo trong thời gian tới, chúng tôi nghiên cứu các tài liệu liên quan đến vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng và nhà nước ta cũng như của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Trước hết phải kể đến cuốn sách “tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo được xuất bản năm 2003, cuốn sách được viết nhân hội thảo kỉ niệm 112 năm ngày sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh, là kết quả nghiên cứu của nhiều nhà tác giả nổi tiếng, nêu lên những vấn đề lí luận và thực tiễn rút ra từ việc nghiên cứu tư tưởng và đường lối Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo cũng như vấn đề đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc, bên cạnh đó, chúng tôi cũng tìm hiểu cuốn sách: “những điều cần biết về hoạt động tôn giáo ở Việt Nam” của tác giả Hà Văn Núi [12], tác giả đã nêu lên chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước ta về tôn giáo dựa trên việc vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Trong đó tác giả cũng đã nêu rõ “cần phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và vai trò tích cực, tiến bộ của các tôn giáo phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”. Để có cái nhìn tổng quan và hiểu rõ cặn kẽ về cơ cấu tổ chức cũng như nguyên tắc hoạt động của các cấp Giáo hội, trong đó có Phật Giáo huyện đông Anh, chúng tôi đã tìm hiểu Hiến Chương của Giáo Hội Việt nam được thông qua lần thứ VIII, nhiệm kì 2017- 2022. Trong đó, điều 11 quy định rõ hệ thống tổ chức của Giáo hội Phật giáo Việt Nam cấp quận, huyện thị xã trực thuộc, chương VII từ điều 37 đến điều 42, nêu rõ về giáo hội Phật Giáo Việt Nam cấp quận, huyện, thị xã về thành viên, các ban, cơ cấu hoạt động.... Những công trình trên đây ít nhiều đều có liên quan đến đề tài nghiên cứu, đề cập đến các khía cạnh khác nhau của vấn đề nghiên cứu. Tuy nhiên một công trình nghiên cứu chuyên sâu về Phật giáo với vấn đề bảo vệ môi trường ở một vùng cụ thể (huyện Đông Anh) thì chưa có. Luận văn sẽ góp phần vào lấp đầy chỗ trống trên. 11
  • 14. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên c u 3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn chỉ ra thực trạng về vai trò của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trường ở huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội hiện nay, chỉ ra những vấn đề đặt ra, từ đó đưa ra những khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện Đông Anh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ: + Khái quát chung các vấn đề lý luận về quan niệm của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trường và các vấn đề thực tiễn về những vấn đề môi trường hiện nay của huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội + Chỉ ra thực trạng về vai trò của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trường hiện nay ở huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội + Chỉ ra những vấn đề đặt ra về vai trò của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trường ở huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội và đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trường ở huyện Đông Anh hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên c u 4.1. Đối tượng nghiên cứu Vai trò của Phật giáo huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội đối với việc bảo vệ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Không gian huyện Đông Anh, Hà Nội - Thời gian: giai đoạn hiện nay (từ năm 2010 đến nay) 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên c u 5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về tôn giáo, các công trình nghiên cứu về tôn giáo của các Khoa học trong và ngoài nước. 12
  • 15. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp như: phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu liên ngành của tôn giáo học: phân tích, tổng hợp, so sánh; đặc biệt chúng tôi sử dụng phương pháp của nhân học tôn giáo (điền dã, khảo sát thực địa tại huyện Đông Anh với các công cụ chính là quan sát tham dự, phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm...) để nghiên cứu đề tài. 6. Đóng góp của luận văn Đây là công trình khoa học khảo cứu có tính hệ thống và chuyên sâu về vai trò của Phật giáo đối với đời sống người dân ở một huyện cụ thể trên lĩnh vực môi trường (bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội). Khẳng định sự đóng góp của Phật giáo đối với huyện Đông Anh nói riêng, đất nước nói chung trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cung cấp những luận cứ, luận chứng cụ thể nhằm phát huy những giá trị văn hoá tôn giáo tốt đẹp, khắc phục những hạn chế còn tồn đọng trong giai đoạn hiện nay. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy, nghiên cứu, học tập tôn giáo, hoặc cho việc hoạch định chính sách của các nhà nghiên cứu. 7. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. 13
  • 16. Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG 1.1 Một số khái niệm căn bản Trước khi đi tìm hi u về quan niệm của hật giáo đối với việc bảo vệ môi trường, chúng ta tìm hi u một số khái niệm căn bản * Môi trường Chương trình môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) năm 1980 đã đưa ra khái niệm về môi trường: “môi trường là tập hợp các yếu tố vật lý, hóa học, sinh học, kinh tế- xã hội bao quanh và tác động tới đời sống và sự phát triển của một cá thể”. Trong tuyên ngôn của UNESCO (1981) môi trường được định nghĩa như sau “Môi trường của con người bao gồm toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra xung quanh mình, trong đó con người sinh sống và bằng lao động của mình đã khai thác các tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo nhằm thoả mãn các nhu cầu của con người". Bách khoa toàn thư về môi trường (1994) định nghĩa: “môi trường là tổng thể các thành tố sinh thái tự nhiên, xã hội, nhân văn và các điều kiện tác động trực tiếp hay gián tiếp lên phát triển, lên đời sống và hoạt động của con người trong thời gian bất kỳ”. Bách khoa toàn thư Philip- Philip Encyclopedia 2008, trang 304 có ghi: “Môi trường có nghĩa là tổ hợp các yếu tố vật chất và sinh học xung quanh một sinh vật. Môi trường bao gồm các yếu tố vô sinh (phi sinh vật) như nhiệt độ, đất, không khí và bức xạ và hữu sinh (sinh vật) như thực vật, vi sinh vật và động vật.” Dưới góc nhìn của một nhà khoa học môi trường nổi tiếng tại Mỹ G.Tyler Miler trong tác phẩm khoa học và môi trường cho rằng, “môi trường là tất cả các hoàn cảnh bên ngoài tác động lên một cơ thể sinh vật hoặc một cơ thể nhất định đang sống; là mọi vật bên ngoài một cơ thể nhất định” 14
  • 17. Theo tác giả S.V.Kalesnik trong tác phẩm các quy luật địa lí chung của trái đất định nghĩa "Môi trường (được định nghĩa với môi trường địa lí) chỉ là một bộ phận của trái đất bao quanh con người, mà ở một thời điểm nhất định xã hội loài người có quan hệ tương hỗ trực tiếp với nó, nghĩa là môi trường có quan hệ một cách gần gũi nhất với đời sống và hoạt động sản xuất của con người" Trong cuốn sách “ môi trường và tài nguyên Việt Nam” đã khái lược như sau "Môi trường là một nơi chốn trong số các nơi chốn, nhưng có thể là một nơi chốn đáng chú ý, thể hiện các màu sắc xã hội của một thời kì hay một xã hội". [xem 36] Theo khoản 1 điều 3, luật bảo vệ môi trường do Quốc hội Việt Nam ban hành vào năm 2014: “ Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên.” [xem 47] Theo Tác giả Võ Quang Hiền: “môi trường bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc sống con người. Nó có thể được tạo lập xung quanh con người, chi phối đời sống con người, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của con người” [ 66, Tr 191] Qua đó có thể thấy được rằng, có nhiều định nghĩa khác nhau về môi trường. Tuy nhiên, dù đứng dưới góc độ nào thì môi trường cũng do nhiều yếu tố hợp thành, trong đó có thể phân thành hai nhóm chính: một là các yếu tố sinh vật và phi sinh vật, hệ sinh thái hình nên môi trường tự nhiên, tiếp theo đó chính là các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa và mối quan hệ giữa con người với cá nhân, cộng đồng... hình thành nên môi trường xã hội. Trong đó, con người nằm ở vị trí trung tâm, có tác động tích cực hay tiêu cực đến môi trường cũng như bị chi phối và chịu sự tác động của môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Như vậy, về nội dung của thuật ngữ môi trường không thể hiểu hạn hẹp rằng đó chỉ là môi trường đất đai, nước, không khí hay hệ sinh thái mà thuật ngữ này bao hàm cả trên bình diện xã hội. Môi trường là không gian sống, tập hợp những yếu tố và những mối quan hệ ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày của con người, tồn tại và có sự tác động to lớn đối với hoạt động của con người trong mọi giai đoạn 15
  • 18. phát triển của xã hội, bao gồm hai thành tố căn bản đó là môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, hai yếu tố này tồn tại song song và có ảnh hưởng qua lại, tác động lẫn nhau. * Môi trường tự nhiên Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí, động, thực vật, đất, nước... Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cấy, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm phong phú. [xem 66] * Môi trường xã hội Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ giữa con người với con người, định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho con người khác với sinh vật khác Môi trường xã hội là môi trường mà con người là nhân tố trung tâm, tham gia và chi phối môi trường. Môi trường xã hội bao gồm: chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, thể thao, lịch sử... xoay quanh con người và con người lấy đó làm nguồn sống, làm mục tiêu cho mình [44, Tr 255]. * Bảo vệ môi trường Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật”.[xem 47] * ai trò theo từ điển Tiếng Việt, vai trò là tác dụng, chức năng của ai hoặc cái gì trong sự hoạt động, sự phát triển chung [60, Tr 1400] 16
  • 19. * ai trò của Phật iáo đối với việc bảo vệ môi trường: Là vai trò của Phật giáo trong việc chung tay xây dựng môi trường tự nhiên sạch đẹp, môi trường xã hội văn minh được thể hiện qua những hoạt động thiết thực tại một địa bàn nhất định. 1.2 . Cơ sở lí luận về vai trò của Phật giáo đối với vấn đề bảo vệ môi trƣờng 1.2.1 . Cơ sở lí luận về vai trò của Phật giáo đối với vấn đề bảo vệ môi trường tự nhiên ạo Phật góp phần hình thành nhận thức về thế giới quan, mối liên hệ giữa con người và thế giới tự nhiên thông qua thuyết duyên khởi Thuyết duyên khởi hay còn có nhiều tên gọi khác nhau như nhân duyên sinh, hay còn gọi là thập nhị nhân duyên... là một trong những triết lí cơ bản và nền tảng của giáo dục Phật Giáo, hình thành và phát triển thế giới quan của Đạo Phật. Thuyết này chỉ rõ mọi sự vật, sự việc, hiện tượng hình thành nên thế giới đều nằm trong mối liên hệ mật thiết với nhau, chúng là nguyên nhân của một yếu tố này và là kết quả của một yếu tố khác, tạo thành một chuỗi gồm 12 yếu tố, không có thành phần nào đứng lẻ loi một mình và tác động một cách riêng lẽ, độc lập mà không phụ thuộc vào các thành phần khác. Mười hai thành phần của thập nhị nhân duyên được sắp xếp theo thứ tự nhất định. Trong Tương Ưng bộ Kinh khái quát “như vậy này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.” [17,Tr 244], đây gọi là duyên khởi. Các yếu tố như vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử được gọi là 12 chi phần tạo nên vòng tròn “ thập nhị nhân duyên”. Mỗi chi phần được xác định như một mắt xích trong sợi dây liên kết ràng buộc lẫn nhau giữa các thành phần, chúng tuân theo quy luật nhân quả, không tự xuất hiện, cũng không tự mất đi. 17
  • 20. Trong tác phẩm “con người với giáo lí mười hai nhân duyên”, từ việc nghiên cứu chuyên sâu và cặn kẽ về giáo lí này, tác giả Phạm Đình Nhân đã từng đề cập đến ba hình thức quán chiếu “12 nhân duyên” theo chiều thuận mà theo chúng tôi chính những phép quán chiếu này giúp chúng ta có thể hình thành nên thế giới quan của Phật Giáo từ đó đưa đến những liên hệ với việc bảo vệ môi trường. Trong ba phép quán chiếu theo chiều thuận, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến phép quan sát trạng thái sinh khởi của mười hai nhân duyên từ trong quá khứ xa xôi, tức vô thủy kiếp về trước. Theo đó, tác giả khẳng định: “Từ vô thủy do vô minh mê mờ, các vọng động từ từ sinh khởi tức hành. Đây là nói về trạng thái của mười hai nhân duyên từ vô thủy, do vô minh vọng động tạo tác mà có thế giới và chúng sinh và cứ như thế, tiếp tục sinh khởi cho đến ngày nay và mãi mãi về sau...” [42, Tr 27]. Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm cũng đã từng đề cập đến trong tác phẩm: “ Lịch Sử Phật giáo Ấn Độ” rằng: “Đức Thế tôn người đã quan sát thế giới theo hai dạng thức khác nhau, tức là hiện thực thế giới quan và lý tưởng thế giới quan. Cũng theo đó, thế giới quan hiện thực được hình thành dựa trên ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Tuy nhiên, ngũ uẩn thì nương vào nhân duyên mà kết hợp hay ly tán” [19, Tr 28]. Từ đây chúng ta có thể rút ra kết luật về sự hình thành của thế giới theo đạo Phật. Nguồn gốc của con người, của mọi loài chúng sinh hữu tình và vô tình, đều dựa trên quy luật nhân duyên. Nguyên lí này thể hiện mối tương quan giữa con người với vạn vật xung quanh. Nói cách khác, lý duyên khởi giúp ta thấy rõ mối tương quan sinh diệt của vạn hữu vũ trụ, không có một pháp nào có thể hiện hữu độc lập, thế giới này tồn tại như một mạng lưới “nhân duyên sinh” vĩ đại, trong đó tất cả các sự vật, sự việc, hiện tượng đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong tác phẩm “ Đạo Phật và môi trường” , tác giả Thích Nhuận Đạt đã khẳng định lý duyên khởi “ cái này có nên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sinh cho thấy mối quan hệ nội tại trong sự sinh tồn của sự vật. Mối quan hệ giữa con người với con người, mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên đều ảnh hưởng lẫn nhau, một sự vật hưng thịnh thì tất cả đều hưng thịnh, một sự vật suy vong thì tất cả đều suy vong. Phá hoại thiên nhiên 18
  • 21. và đối lập với thiên nhiên thì nhất định khiến cho nhân loại tự chuốc lấy sự diệt vong” [54, Tr 30] . Con người cũng như vạn vật trong vũ trụ luôn nương tựa và ảnh hưởng lẫn nhau, tạo nên một bản đại hoà tấu, nếu thiếu đi một bản hòa tấu đó sẽ không toàn vẹn nhưng nếu không có tất cả thì sự tồn tại của một thứ cũng không thể, đó là lẽ dĩ nhiên. Con người không thể tồn tại riêng lẽ, mà phải phụ thuộc vào thiên nhiên, sinh khởi đồng thời cùng với sự ra đời của mọi chúng sinh, nương vào thế giới tự nhiên để sinh sống và tồn tại. Con người cũng không thể tự mình quyết định hay thay đổi bất cứ một quy luật tự nhiên nào của vũ trụ. Theo Phật Giáo, chỉ cần vô minh đoạn trừ thì vòng tròn nhân duyên sẽ bị phá vỡ. Như vậy, cuộc sống của con người đang đắm chìm trong sự vô minh khiến cho chúng ta bị trói buộc trong vòng biến hóa vô tận, chỉ khi nào con người đoạn trừ được vô minh thì con người mới hướng đến con đường giải thoát, giác ngộ. Vì không hiểu rõ thực tướng của các pháp (con người và thế giới) mà con người luôn đề cao cái tôi, đắm chấp vào tự ngã của mình , từ đó trở nên tham ái và chấp thủ là những động lực khiến cho những hành động của thân, khẩu, ý trở nên tiêu cực Cái hay của giáo lí mười hai nhân duyên đó là sự kết tinh của trí tuệ và nhân bản, khi người Phật tử tại gia hay xuất gia, người am hiểu giáo lí mười hai nhân duyên, sẽ diệt trừ được vô minh và ái là cái nhân của hiện tại tạo tác cho cái quả của đời sau. Chúng ta phải thấy rõ được cội nguồn của vô minh, cần phải bù đắp những gì đã cướp đoạt của thiên nhiên bằng những hành động thiết thực dù nhỏ nhất. Diệt trừ vô minh hiện tại như thế nào? Đức Phật đã từng dạy: “nhất thiết duy tâm tạo”, có nghĩa là tất cả đều do tâm mà ra. Nếu tâm ta trong sạch và sáng suốt, hạnh phúc sẽ theo ta như bóng với hình. Phật giáo giúp con người đề cao trách nhiệm, lối sống hài hoà với thiên nhiên thông qua giáo lí nhân quả Giáo lí nhân quả hay sự tương quan giữa nguyên nhân và kết quả là một trong những nguyên lí, làm nền tảng cơ bản của giáo dục Phật Giáo. Theo đó, mọi hành động là nhân sẽ có kết quả hay hậu quả của nó. Giống như vậy, mọi hậu quả đều có nhân của nó. Luật ấy dạy rằng người làm việc lành, dữ hoặc vô ký sẽ 19
  • 22. nhận lấy hậu quả tương đương. Người lành được phước, người dữ bị khổ. Hòa Thượng Tịnh Không đã từng khẳng định: “Mọi sự vật trên thế gian đều phải chịu sự chi phối của luật nhân quả. Vạn vật đều giả ảo và vô thường nhưng luật nhân quả lại là một chân lí vĩnh cữu và bất biến. Nhân và quả có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nhân trở thành quả và quả này lại trở thành một nhân khác. Từ chuỗi nhân quả bất tận này chúng ta có thể thấy một hành động nguyên nhân không thể kết thúc trọn vẹn và một nghiệp quả không phải là quả độc nhất. Sự phối hợp nhân quả tạo ra một chu trình tàn nhẫn đó là vòng luân hồi sinh tử” [48, tr 159]. Thuyết nhân quả gần với khái niệm “nghiệp” trong Phật Giáo. Theo Phật Giáo: con người là chủ nhân của nghiệp và là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiên cứu cụ thể qua các kinh điển của đạo Phật, chúng ta có thể thấy được rằng tất cả mọi loài động vật đều bị chi phối bởi nghiệp lực, nhưng lại có sinh mệnh độc lập, tự chủ giống con người, cùng chung sống trong cùng một thế giới với con người, có thể tu tập để giải thoát. Đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ, trải qua dòng lịch sử hơn 26 thế kỉ từ khi giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập ra Phật giáo, giáo lí của Ngài luôn thể hiện tình yêu thương đến muôn loài chúng sinh. Theo đạo Phật, nếu người nào có tâm từ sẽ được sinh về cõi lành, còn nếu ngược lại, sẽ sinh về cõi xấu, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Trong trích lục các bài giảng trong kinh điển Pali có câu: “con đường đưa đến đoản mạng là sát sinh, tàn nhẫn, hay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loại chúng sinh. Nhưng ở đây, này thanh niên, có người đàn bà hay đàn ông, từ bỏ sát sinh, tránh xa sát sinh, bỏ trượng, bỏ kiếm biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sinh. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy sau khi thân hoại mạng chung người ấy được sinh vào thiện thú, thiên giới”.[49, Tr 225] Nhờ hiểu được mối tương quan giữa ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai con người nhận thức được không phải ngẫu nhiên mà ngày nay chúng ta đang phải gánh chịu những hậu quả của thiên tai, động đất, lũ lụt làm thiệt hại đến người, vật chất và tinh thần. “Mạng lưới nhân quả này đã liên kết mọi sự vật cả về thời gian lẫn 20
  • 23. không gian nên không chỉ mọi sự vật tồn tại trong hiện tại lệ thuộc lẫn nhau mà tất cả mọi sự vật trong quá khứ cũng như tương lai đều liên quan đến nhau” [6, Tr 86]. Đạo Phật bồi dưỡng cho con người tình yêu thương và sự thấu hiểu những việc làm mà mình đã gây tổn hại đối với thiên nhiên. Mặt khác, với luật nhân quả là cơ sở để con người xác định hành vi, trau dồi những tư tưởng, ý niệm chân chính. Mặc dù, những nguyên tắc đạo đức hàng ngày luôn hướng thiện, và trừng trị kẻ ác, những kẻ lợi dụng, chiếm đoạt thiên nhiên, nhưng hầu hết chúng chỉ là hành động tức thời như: xử phạt hành chính, xử phạt về dân sự mà chưa giải quyết được tận gốc rễ của vấn đề. Tại một số nước phát triển, những việc làm nhỏ ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường như việc xã rác bừa bãi hay khạc nhổ cũng bị xử phạt. Tuy nhiên, tại một số quốc gia, việc kiểm soát những hành vi nhỏ nhặt này hầu như không có. Vậy vấn đề đặt ra là làm sao để thay đổi được từ bên trong, cái mà đức Phật gọi là “ý” trong tam nghiệp: thân, khẩu, ý. Ý thay đổi thì thân cũng làm những điều tốt đẹp cho môi trường, miệng nói những lời hay ý đẹp để vận động người khác cùng làm theo mình. Trong Kinh Tăng Chi II, trang 7 có câu: “con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa”, mọi sự vật trên thế giới, kể cả con người tồn tại không bao giờ lìa bỏ hai chữ “ nhân quả”. Cũng như vậy, từ nhận thức về mối tương quan đó, hành động của con người cần phải tích cực và phù hợp với những chuẩn mực môi trường nhất định, thậm chí là phải tích cực hơn trong việc cải tạo môi trường để tạo nên một môi trường trong lành, tốt đẹp hơn. Phật Giáo cho rằng, trên thế gian này, không có một điều gì xảy ra đối với một người mà không có nguyên nhân “Ta chỉ thấy biểu hiện trước mắt cái quả đang trổ mà không thể thấy được tất cả các nguyên nhơn vi tế đã sinh quả ấy, vì nhơn không phải hoàn toàn phát sanh trong hiện tại mà có thể rải rác gieo trồng tự vô lương kiếp.” [ 43, Tr 297]. Vì vậy, người am hiểu Phật pháp sẽ không vì tâm cầu danh cầu lợi mới làm những hành động tốt mà họ làm thực sự vì tình thương yêu, vì khởi tâm hoan hỷ, thấu hiểu được nỗi trắc ẩn của muôn vạn vật, muôn vạn chúng sinh. 21
  • 24. Nếu như thuyết duyên khởi khái quát nên thế giới như một mạng lưới “nhân duyên sinh” vĩ đại, nói lên mối quan hệ chặt chẽ, nương vào nhau mà tồn tại của các sự vật, hiện tượng, thì thuyết nhân quả giúp con người điều chỉnh đạo đức, hành vi của con người. “Không phải một cách ngẫu nhiên mà đức Từ phụ Thích-ca Mâu-ni lại dạy về luật nhân quả trong hầu hết các kinh điển, và mỗi lời dạy của Ngài đều hàm chứa vô số ý nghĩa, song cũng không ngoài mục làm cho tất cả chúng sinh đều nhận ra được mối quan hệ giữa nhân duyên đời trước và quả báo đời sau của mình. Bởi một khi đã nhận hiểu được mối quan hệ đó, thì dù chúng ta làm việc gì, nói lời gì, cũng đều sẽ phải nghĩ đến kết quả tốt hay xấu mà nó mang lại. Như vậy sẽ tuyệt đối không có sự làm liều, nói ẩu, để rồi phải chịu hậu quả đau khổ trong hiện tại và tương lai.” [50, Tr 5] Theo giáo lí nhà Phật, nhân nào quả nấy, không bao giờ nhân quả tương phản hay mâu thuẫn nhau. Nói cách khác, nhân quả bao giờ cũng đồng một loại. Một nhân không thể sinh được quả, mà phải được sự trợ giúp của nhiều duyên khác, thí dụ, tại một số nơi con người chịu hậu quả của việc hạn hán như ngày nay không phải do một nguyên nhân mà là sự tích tụ của nhiều yếu tố như: chặt phá rừng, xây dựng nhiều nhà máy, khu công nghiệp, chất thải từ phương tiện giao thông... Biết được điều đó con người đều cẩn thận trong mọi hành động của mình, chung tay vì cuộc sống của vạn vật, họ cần biết rằng hành động của họ làm ra tuy không lớn nhưng là một trong những nhân tố cấu thành sự ô nhiễm chung của xã hội. Càng giảm đi nhiều nhân tố tiêu cực gây ô nhiễm môi trường thì bài toán khó của toàn xã hội sẽ trở nên đơn giản hơn. Phật giáo giúp con người hi u được nguyên nhân và tìm ra biện pháp đ hạn chế ô nhiễm môi trường thông qua giáo lí tứ diệu đế Giáo lí Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ đế, là bài Pháp đầu tiên mà Đức Phật thuyết Giảng cho 5 anh em ông Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển, bao gồm bốn chân lí sự thật khổ đau của con người là Khổ- tập- diệt- đạo Khủng hoảng sinh thái, thiên tai, lũ lụt, hạn hán, ô nhiễm môi trường... là những biểu hiện của môi trường tự nhiên có liên quan chặt chẽ đến khái niệm khổ 22
  • 25. đế trong chân lí "tứ đế" của đạo Phật. Do những hành vi cố ý, không làm chủ được hành động của mình, làm tổn thương đến thiên nhiên mà con người phải gánh chịu những hậu quả mất cân bằng, đảo lộn cân bằng sinh thái, ô nhiễm môi trường, suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên. Khổ là gì? Là khi con người sống trên trái đất này đang phải gánh chịu những hậu quả do chính con người gây ra. Không ít nơi tuy cuộc sống vật chất đầy đủ nhưng con người đang phải sống cùng với bầu không khí bị ô nhiễm trầm trọng. Nạn chặt phá rừng gia tăng khiến con người phải chịu những hậu quả của lũ lụt, hạn hán, lũ quét, bão, họ phải đối mặt với những cảnh tượng thương tâm. Đem đến sự an vui cho muôn loài đòi hỏi con người ý thức về giá trị bình đẳng của mọi loài sinh vật. Ta cần hiểu rằng đó không chỉ là nỗi khổ của ta mà là nỗi khổ của muôn vạn chúng sinh. Những loài động vật quý hiếm đang ngày đêm bị rình rập, vì phục vụ cho lợi ích của con người mà bao chúng sinh chịu đau khổ hàng ngàn con gấu bị giam cầm để hút mật, hàng triệu cá mập bị giết để lấy vây, loài tê giác hay voi bị giết chỉ để lấy sừng, lấy ngà, nhiều động vật trở tuyệt chủng vì mất đi môi trường sống, những cánh đồng đang xanh tươi bỗng chốc trở nên tàn lụi chỉ vì nhu cầu vật chất của những kẻ muốn chiếm đoạt thiên nhiên, cướp đi cơ hội sống của muôn loài. Giáo lí đạo Phật đã chỉ ra nguyên nhân của mọi sự khổ đau trên cuộc đời này thông qua “tập đế- nguyên nhân của khổ” – đây được xem như cội nguồn căn nguyên xuất phát từ bản thân mỗi con người, được xem như “tam độc” là tham lam, sân hận và si mê. Tâm tham tạo nền móng vững chắc cho những ham muốn dục lạc về vật chất và tinh thần. Phật giáo cho rằng mọi khổ đau của con người đều bắt nguồn từ sâu thẳm bên trong tâm thức, đó chính là lòng tham. Nó làm cho con người cố bám víu vào các sự vật, sự việc, hiện tượng để đáp ứng lòng khao khát tham ái không bao giờ dừng, không bao giờ thỏa mãn. Tác giả Lê Văn Tâm đã từng đề cập : “Tính tham dục ngày càng nhanh, ngày càng nhiều và ngày càng mới” đã cổ vũ và thúc đẩy sự phát triển lòng tham ái, khiến con người xa rời nếp sống tỉnh thức, xa rời và đối nghịch với thiên nhiên, đã xô con người vào sự phá hoại những nhân tố mà 23
  • 26. mình dựa vào để sinh tồn và phát triển” [40, Tr 160]. Nếu chúng ta chỉ quan tâm đến lợi ích kinh tế trước mắt mà không chú ý đến việc xây dựng một nền đạo đức môi trường, hoàn thiện nhân cách và hành vi ứng xử với thiên nhiên thì sự phát triển đó sẽ trở nên lệch lạc, không bền vững. Bên cạnh đó, những nỗi khổ của con người là do sân hận và si mê. Sân hận chính là những cảm xúc giận dữ, phiền não gây ra những đau khổ thân thể và tâm trí cùng với những hành động hung hãn. Chính điều đó làm cho tâm tham lam ngày càng ngự trị trong tâm thức mỗi con người, phát khởi nên những hành động trái với quy luật tự nhiên nhằm chỉ để đáp ứng “cái tôi vị kỉ” của họ. Sự thật cao quý thứ ba mà đức Phật đề cập đến đó chính là diệt đế - sự chấm dứt của khổ đau, đây được xem như là giải thoát luận hay lý tưởng luận của Phật Giáo. Diệt đế hay con gọi là niết bàn, được xem như một trạng thái tối cao của hạnh phúc, an bình và tự do để trải nghiệm trong cuộc sống hiện tại này. Nếu đoạn trừ lòng tham con người chẳng cần tạo ra ác nghiệp, không chịu cảnh sinh tử luân hồi. Liên hệ với vấn đề bảo vệ môi trường, con người cần phải đoạn triệt được lối sống thỏa thích, phí phạm mà không biết tiết kiệm trong việc sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, sản xuất vượt quá nhu cầu cần thiết. Chân lí thứ tư đó chính là đạo đế: là con đường là phương pháp đoạn trừ đau khổ để đưa đến niết bàn, đó chính là phương thức nhằm áp dụng giáo lí Phật Giáo trong việc bảo vệ môi trường. Chân lí này đòi hỏi về một trách nhiệm về đạo lí làm người, giúp hạn chế những nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường, là một trong những phương châm sống của người tu học Phật pháp. Liên hệ với vấn đề đạo đế chúng tôi cũng nghiên cứu nhằm làm rõ vai trò của kinh tế học Phật Giáo đối với việc điều chỉnh thói quen của con người, tạo nên một nền kinh tế bền vững lấy phương châm và mục tiêu bảo vệ môi trường làm mục đích. Trong bài tham luận: “ Phật Giáo với văn hóa tiêu dùng thời cách mạng công nghiệp” được in trong kỷ yếu hội thảo tại Đại Lễ Phật Đản VeSak Liên Hợp Quốc năm 2019, tác giả Trương Văn Chung đã từng đề cập đến ba nguyên lí của kinh tế học Phật Giáo trong đó, nguyên lí thứ ba được tác giả nhấn mạnh về vai trò của Phật 24
  • 27. Giáo đó chính là hướng con người vào con đường trung đạo, đó là một trong những nhân tố quan trọng giúp con người giảm thiểu nhu cầu và tham vọng tiêu dùng thái quá trước những cám dỗ của nền kinh tế thị trường. 1.2.2 . Cơ sở lí luận về vai trò của Phật giáo đối với việc bảo vệ môi trường xã hội Trong kinh sách Phật giáo, ta tìm thấy nhiều quan niệm về các vấn đề của môi trường xã hội như xây dựng xã hội công bằng, văn minh; xây dựng mối quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội… Phật iáo góp phần xây dựng xã hội công bằng, văn minh thông qua giáo lí bình đẳng Sống trong một xã hội bất bình đẳng, xuất thân từ giai cấp cao quý, tuy nhiên Đức Phật chính là người đem lại triết lí bình đẳng thực sự cho nhân loại, sự bình đẳng ấy không chỉ giới hạn ở con người mà đó là sự bình đẳng đối với tất cả mọi loài chúng sinh, mối quan hệ bình đẳng giữa con người được diễn tả một cách khái quát và cụ thể thông qua mối quan hệ giai cấp và mối quan hệ nam nữ. Mối quan hệ giữa bình đẳng về giai cấp được khái quát cụ thể trong các kinh điển Phật Giáo. Con người khi sinh ra không ai là cao quý hơn ai, mà theo đức Phật là do hành vi mà con người trở thành bậc phạm trí hay kẻ bần tiện. “Theo Phật giáo, mọi sai biệt trên thế giới này đều tùy thuộc vào các nhân duyên mà sinh khởi; cũng vậy, sự khác nhau về địa vị, hoàn cảnh giàu sang hay nghèo khổ, ngu dốt hoặc thông minh... tất cả đều hoàn toàn do hành vi tạo tác của mỗi con người chứ không phải do tự nhiên hay được sắp đặt theo bất kỳ một thông lệ hoặc quy định nào. Trên tinh thần này, sự phân chia giai cấp trở thành phi lý và vô nghĩa.” [8, Tr 10]. Đức Phật dạy rằng chúng ta không nên phân biệt mình với người khác. Ngài luôn có một cái nhìn cảm thông với những người chịu nhiều đau khổ, không đồng tình với quan niệm của giai cấp Bà La Môn cho rằng họ là giai cấp tối thượng còn các giai cấp khác là hạ liệt. Trong kinh điển Pali, tư tưởng bình đẳng được khái quát một cách cụ thể: “ dù là người khatti- ya, vessa, sudda hay bà la môn – tất cả bốn giai cấp nếu sát sinh, lấy của không cho, có tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lời, nói ác khẩu, 25
  • 28. nói lời phù phiếm, có tham tâm, có sân tâm, có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung đều sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Ở đây, này Assalãyana, do luận cứ gì hay do thẩm quyền gì của các bà la môn và các vị ấy lại nói: “ chỉ có giai cấp bà la môn là tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt... là con cháu thừa tự của Phạm Thiên?”[49, Tr 188] . Như vậy, bình đẳng trong đạo Phật không phải là một sự hình dung trừu tượng mà được cụ thể hóa rõ ràng, là nhịp cầu hướng con người đến chân, thiện, mỹ. Dưới ánh sáng tâm linh Phật pháp, cùng cái nhìn của một đấng giác ngộ, giác tha, mọi sự phân biệt giai cấp đều trở nên vô nghĩa. Trong tổ chức giáo hội của mình, Đức Phật đã dung nạp những hàng đệ tử thuộc nhiều thành phần khác nhau, không phân biệt giai cấp, nghề nghiệp hay địa vị xã hội. Chữ “ Tăng đoàn” trong Phật giáo “ là tiếng gọi tắt của hai chữ “ Tăng Già” có nghĩa là “ hòa hợp chúng”, ý nghĩa là một nhóm người có tính cách hòa hợp và cùng ở chung với nhau”[8, Tr 9]. Như vậy có thể thấy được điểm quan trọng và cốt yếu của các đệ tử Phật Giáo là phải sống dựa trên tinh thần hòa hợp, muốn làm được điều đó, việc cốt yếu quan trọng chính là các đệ tử của Phật phải biết san sẻ, đoàn kết, không có tâm phân biệt, kiêu ngạo, vì lợi ích chung của tập thể. Bình đẳng giữa nam và nữ là một trong những vấn đề cũng được Đức Phật quan tâm sâu sắc, ngài luôn có cái nhìn cảm thông đối với người phụ nữ. Về mặt giáo đoàn, Phật giáo cho phép người nữ xuất gia, khi đã thọ đủ giới pháp thì được gọi là tỳ khiêu ny, họ được xem là một bộ phận cấu thành của tăng đoàn Phật Giáo. Về phương diện chứng đắc, người nữ nếu tu hành tinh tấn, giữ gìn giới luật, thì cũng có thể đạt đến giác ngộ, giải thoát, khi ngài A Nan hỏi Phật: "Không biết nữ nhân sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình ... có thể chứng được quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất lai hay quả A la hán không?": Đức Phật đã trả lời :"Này Ananda, sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong pháp và luật do Như Lai thuyết giảng, nữ nhân có thể chứng được dự lưu quả, nhất lai quả, bất lai quả hay a la hán quả"[16, Tr 114]. Đặc biệt, giá trị của người phụ nữ được thể hiện qua tình mẫu tử thiêng liêng, đề cao vai trò, thiêng chức của người mẹ đã sanh dưỡng, sánh vai cùng với cha 26
  • 29. trong cuộc đời của con để nuôi con khôn lớn, thành người, như trong kinh “Vu Lan Báo Hiếu” “Tình mẹ thật sâu nặng Thương con nào nhạt phai Quả ngọt không tiếc nuối Nuốt đắng nào chua cay Thương con càng sâu đậm Sầu bi tăng thêm ngày Miễn sao con no ấm Đói khát chẳng nguôi ngoai” [15, Tr 36] Trái ngược hoàn toàn với quan điểm không xem trọng nữ giới trong gia đình của đạo Bà La Môn, Phật Giáo đề cao giá trị của người phụ nữ. Trong kinh Thiện Sanh, để mối quan hệ giữa vợ chồng được êm đẹp, người chồng nên lấy năm điều mà yêu thương, tôn trọng vợ làm kim chỉ nam để đem đến giá trị hạnh phúc hôn nhân đích thực, người vợ cũng đáng được tôn trọng, yêu thương: “Một là yêu thương vợ. Hai là không khinh rẻ. Ba là sắm các thứ chuỗi ngọc, đồ trang điểm. Bốn là tôn trọng quyền tự do cá nhân. Năm là xem vợ như chính mình” [49, Tr 167]. Người vợ, người mẹ hay thậm chí là con dâu không còn bị phân biệt, đối xử nữa, mà thay vào đó họ có quyền và nghĩa vụ thiêng liêng, cao cả. Có lẽ, hiếm có một tôn giáo nào mà sự cảm thông và tôn trọng người phụ nữ được thể hiện rõ ràng và cụ thể như trong Phật Giáo, điều đó tạo nên giá trị yêu thương và vun đắp cho những giá trị đạo đức tốt đẹp của đạo Phật. Từ triết lí bình đẳng, Phật giáo điều chỉnh và tạo nên các mối quan hệ cân bằng trong xã hội, đó chính là một trong những nền tảng quan trọng giúp Phật giáo góp phần xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; xây dựng mối quan hệ gia đình trở nên tốt đẹp. Khi con người hiểu được sự bình đẳng trong Phật giáo và áp dụng nó vào cuộc sống thường nhật thì mọi sự phân biệt, kì thị sẽ dần tan biến từ việc phân biệt các giai cấp, thành phần xã hội, lớn hơn là phân biệt chủng tộc, quốc gia. Sẽ không 27
  • 30. còn tình trạng người bóc lột người, bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo, nước lớn ức hiếp nước bé, sử dụng những âm mưu thủ đoạn thôn tính lẫn nhau, không còn những cuộc đấu tranh giữa các chủng tộc, phân biệt màu da, tôn giáo... Trong xã hội mỗi người có một vai trò và vị trí khác nhau, nhưng đều quan trọng và cần thiết “Tâm không còn một điểm vị kỷ, hành giả đã vượt lên khỏi mọi hình thức chia rẽ riêng tư. Không bị giam hãm trong những tư tưởng hẹp hòi, không chịu ảnh hưởng của tinh thần đấu tranh giai cấp, quốc gia, chủng tộc, tôn giáo, hành giả nhìn tất cả mọi người là bạn đồng hành trong đại trùng dương mà ta gọi là đời sống muôn loại vạn vật” [43, Tr 604]. ạo Phật góp phần xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa mọi người thông qua tứ vô lượng tâm Tứ là bốn, vô lượng tâm là tâm rộng lớn mênh mông, phủ trùm tất cả chúng sanh, không thể nào suy lường, tính toán được... càng trau dồi tâm thì nó càng rộng lớn và sự hiểu biết của ta càng phát triển. Từ đó ta mới thực hiện tâm vô ngã. Vô lượng tâm còn có nghĩa là đẳng tâm, là tâm bình đẳng (xem người và vật như nhau) [61, Tr 96] Tứ vô lượng tâm hay còn gọi là “từ, bi, hỉ, xả” là một trong những nền tảng cơ bản của đạo đức Phật Giáo có giá trị giáo dục sâu sắc đối với cuộc sống của con người, điều chỉnh thái độ và hành vi của người tu sĩ cũng như cư sĩ tại gia nhằm xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. + Tâm từ: Giúp mọi người biết yêu quí và tôn trọng nhau hơn, không chỉ những người tốt với ta mà cả những người tạo nên nghịch cảnh cho chúng ta, tâm từ giúp cho cuộc sống trở nên hòa hợp, hạn chế các tệ nạn xã hội. “ Từ vô lượng là lòng mến thương vô cùng tận của chúng ta đối với tất cả chúng sanh từ con người đến con vật, cây cỏ. Lòng từ ban rải khắp tất cả thì ta sẽ tránh (vô tình) gây đau khổ cho chúng sanh và đem lại cho chúng sanh cái vui chân thật [ 61, Tr 99]. Cách nhìn của mỗi chúng ta về người khác là một cái nhìn chủ quan, tâm từ hướng con người đến một cái nhìn toàn diện về người khác, biết chấp nhận những khiếm khuyết của đối phương. Theo Đạo Phật hận thù không hóa giải được hận thù, chỉ có bao dung và từ 28
  • 31. bi mới hóa giải được hận thù. Trong Kinh Phạm võng giới bồ tát, giới đem sân, đem đánh trả đánh có ghi : “nếu Phật tử, không được đem giận trả giận, đem đánh trả đánh....Nếu xuất gia bồ tát không có lòng từ bi cố báo thù , nhẫn đến cố báo thù cho trong hàng lục thân, Phật tử này phạm “Khinh Cấu Tội” [ 20, Tr 48, 49]. Cốt lõi của lòng từ thực sự là cho đi không cần đền đáp. + “Tâm Bi” : Có thể được xem như một trong những nhân tố tỉnh thức tâm hồn của con người, giúp chúng ta thương xót trước những cảnh khổ đau của hết thảy mọi loài chúng sinh , đặc tính của tâm bi là ý thức chủ động của con người muốn giúp người khác thoát ra khỏi cảnh khổ, “bi vô thượng là lòng thương vô bờ bến trước nỗi khổ của chúng sanh. Người có lòng bi không đành lòng ngồi yên trước nỗi khổ của chúng sanh. Đành rằng sự đau khổ của thế nhân là cái duyên nhân quả nhưng lòng bi không cho phép chúng ta làm ngơ” [61, Tr 119] Thấy khổ đau mà chưa xót thương thời không phải là người có “tâm bi”, xem đó là một bài học giúp chúng ta trưởng thành hơn, là mong muốn cho mọi người đều được hạnh phúc, thoát khỏi khổ đau. Tâm bi khiến người ta không vô cảm trước những hoàn cảnh khốn khó, không tự quá đề cao cái tôi cá nhân, mà sống hòa nhập vì người khác. Giáo dục Phật giáo đưa con người đến cách phát “Tâm Bi” là liều thuốc vô cũng hữu hiệu khi mà văn bệnh “vô cảm”, “trầm cảm” trở thành một hiện tượng phổ biến trong xã hội hiện nay. Nó được xem như một phương tiện thiết yếu hữu hiệu đem đến sự an lạc, hạnh phúc của xã hội. Tâm bi chính là nhân lành của sự che chở, yêu thương. Con người không có tâm bi thì xã hội sẽ trống vắng đi sự đồng cảm, cũng như thiếu vắng đi tình thương của: cha con, vợ chồng, người thân, bạn bè, đồng nghiệp, và kể cả đối với những người xa lạ. Phát khởi tâm bi trong Phật Giáo là một trong những điều không chỉ người tu học Phật pháp mà còn nhiều thành phần khác trong xã hội quan tâm. Bởi lẽ, rèn luyện được tâm Bi con người sẽ tạo nên được mối quan hệ tốt đẹp, cảm thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn, những mối quan hệ đó không chỉ bao gồm những người thân thích mà thậm chí là cả những người lạ, người không ưa thích ta. 29
  • 32. + Tâm “hỷ”: Là một trạng thái tâm thức của chính bản thân ta, cảm thấy vui trước niềm vui của nhân thế, khi người khác đạt được thành công ta cũng cảm thấy hạnh phúc, khi đó niềm vui sẽ được nhân lên gấp nhiều lần. Trong xã hội hiện đại ngày nay, tâm hỷ giúp con người tạo nên mối quan hệ hòa hợp, thúc đẩy nhau cùng phát triển, người có tâm hỷ sẽ không cảm thấy phiền não, không ganh ghét và đố kị với người khác mà cảm thấy sự thành công của người khác chính là động lực để bản thân mình cố gắng hơn. Tâm hỷ còn được thể hiện trên nhiều khía cạnh khác của đời sống xã hội, từ việc tán thán công đức từ thiện, bố thí, cúng dường, xây nhà...của người khác, góp công sức của mình vào những công việc thiện nguyện của người khác, đồng thời phải luôn cân nhắc bản thân không “ hỷ” theo các ác pháp như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, hại người.... có như vậy thì xã hội sẽ ngày càng phát triển, đoàn kết, hạn chế căn bệnh ích kỉ, nhỏ nhen + Tâm “Xả” : Là trạng thái của tâm thức khi đã buông bỏ những điều không tốt, không bám víu hay chấp nệ vào bất cứ điều gì, đây được xem là một trong những điều khó thực hành nhất nhưng cũng vô cùng cần thiết đối với những tín đồ Phật Giáo. Nói một cách dễ hiểu, xả là cảm thấy bình thản trước sự khen chê, hay coi thường, phỉ báng, trước mọi thăng trầm của thế sự, hay nói theo cách nhân thế đó là “tâm bất biến trước dòng đời vạn biến”. Đời sống của Đức Phật là một gương sáng về tâm “xả” cho những ai còn chưa biết buông bỏ, tâm còn vọng động. “ Như gió thổi ngang màng lưới mà không bị vướng trong lưới, tuy sống giữa chợ người, ta không nên luyến ái những những lạc thú huyền ảo và vô thường của đời. Như hoa sen từ bùn dơ nước đục, vượt lên bao nhiêu quyến rũ của thế gian, ta phải sống trong sạch, luôn luôn yên tính và an vui” [43, Tr 62]. Tâm xả có ý nghĩa thiết thực đối với đời sống của con người, giúp con người giữ vững chánh kiến, tự tin không sợ hãi lo âu và là chìa khóa giúp con người thành công trong cuộc sống, vượt qua chông gai, cám dỗ và không vướng bận vào những mối quan hệ, thị phi không đáng có. 30
  • 33. ạo Phật tạo nên môi trường xã hội tốt đẹp thông qua thập thiện nghiệp Thập thiện nghiệp là một trong những chân lí của đạo Phật nhằm điều chỉnh hành vi của người học Phật và tu Phật, theo Phật giáo con người hữu phúc hay bất hạnh là tùy vào nghiệp thiện hay nghiệp ác mà bản thân họ đã tạo tác ra. Mười điều công đức được đề cập đó là: bố thí, trì giới, rèn luyện tinh thần, lễ độ, phục vụ tha nhân, hồi hướng công đức, hoan hỷ với những công đức của người khác, thuyết giảng và dạy pháp, nghe pháp, trau dồi chánh kiến. Làm mười thiện nghiệp trên không những đem lợi ích cho chính mình mà còn đem lại lợi ích cho những người khác tạo nên sự hài hòa trong xã hội. Sau đây, chúng tôi xin được mạn phép đề cập đến một số vấn đề trong thập thiện nghiệp liên quan trực tiếp đến các Phật tử tại gia nói chung và những người trong xã hội nói riêng. + “Bố thí”: Hay còn được hiểu là sự cho, quyên tặng, đem cái của mình san sẻ với người khác. Người học Phật và am hiểu Phật Pháp biết rằng việc bố thí nhằm tạo phước đức cho chính bản thân và gia đình mình, đó là hành động giảm thiểu lòng tham- một tâm bất thiện ngăn trở sự phát triển tâm linh. Thay vì sự ích kỉ, ta nên san sẻ lợi ích cho người khác, đem hạnh phúc nhân rộng ra cho nhiều người, nhất là những người có hoàn cảnh khó khăn, những số phận bất hạnh hơn. Khi bố thí ta không chỉ thể hiện lòng nhân từ như một nghĩa cử cao đẹp của thân mà bằng cả tấm lòng, sự chân thành và con tim, khối óc, khi cho đi. Vì sao nói như vậy? “Bố thí” trong Phật giáo không chỉ giới hạn là việc đem đến vật chất cho người khác mà sự bố thí được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm 7 hành vi được ghi chép trong nhiều kinh điển: bố thí bằng vẻ mặt, hay con gọi là “nhan thí” được thể hiện thông qua nụ cười, nét mặt vui tươi, niềm nở, chân thành với người khác; hai là bố thí bằng lời nói hay còn gọi là: “ngôn thí” được thể hiện thông qua sự ngợi khen, khích lệ, động viên và an ủi người khác khi gặp khó khăn, hoạn nạn; ba là bố thí bằng tấm lòng hay còn gọi là “tâm thí” thể qua sự thành tâm, tấm lòng rộng mở, dùng tâm từ để đối đãi với người khác; bốn là “nhãn thí” hay còn gọi là ánh mắt, cái nhìn, nhìn người khác bằng thiện chí và thân thương, không soi mói, để ý những việc không nên để ý; năm là “thân thí” tức là việc làm, hành động của thân giúp đỡ người khác khi thấy họ gặp khó 31
  • 34. khăn, sáu là “tọa thí” hay là chỗ ngồi, có nghĩa là nhường chỗ cho người khác, người già, trẻ nhỏ, người tàn tật, hiến tặng bộ phận trên thân thể mình để giúp đỡ người khác; bảy là “ phòng thí” được hiểu là cho người an nghỉ khi họ cần với tấm lòng thiết tha. Từ đó ta có thể thấy được rằng bố thí trong Phật Giáo là một khái niệm bao hàm rộng lớn, đối với việc “từ thiện” ta có thể thực hiện chúng vào một thời điểm nào đó khi có đủ điều kiện về vật chất và nhân lực, còn với việc “bố thí” có thể được thực hiện ở bất cứ một thời gian nào, bất kì một địa điểm nào, và dường như chúng cần phải được trau dồi, rèn luyện để trở thành một thói quen, một nếp sống của sự cho đi để tìm cầu hạnh phúc. + Trì giới: Giới trong Phật Giáo hay còn gọi là giới luật, là những quy tắc đạo đức, chuẩn mực mà đức Phật đề ra nhằm điều chỉnh hành vi của các đệ tử xuất gia và cư sĩ tại gia. Đức Phật từng dạy rằng: “giới luật là thọ mạng của Phật Pháp, giới luật còn thì Phật Pháp còn, giới luật mất thì Phật Pháp cũng suy vong”. Tuy nhiên, đối với mỗi đối tượng thì số giới phải thụ là khác nhau trong đó, hàng đệ tử tại gia khi quy y tam bảo, phải thụ ngữ giới (năm giới). Ngũ giới chính là năm nguyên tắc sống của người Phật tử tại gia, cũng là yếu tố đem lại hạnh phúc cho cá nhân, gia đình và xã hội bao gồm: không giết hại mạng người, không nói dối, không trộm cắp, không tà dâm, không say rượu. Thực hiện ngũ giới là một trong những biểu hiện nhằm hướng đến một xã hội lí tưởng, có giá trị đích thực đối với đời sống xã hội hiện đại, đặc biệt trong xã hội ngày nay khi sự suy thoái về đạo đức xã hội đang là một vấn đề cấp thiết, nó rèn luyện cho con người tính tôn trọng sự công bằng, tôn trọng tính mạng, tài sản, nhân phẩm của người khác, tôn trọng sự thật, biết tiết chế hành vi của mình trong đời sống hàng ngày. Nếu áp dụng ngũ giới vào cuộc sống hiện đại, đời sống của mỗi cá nhân trong mối quan hệ với các thành viên trong gia đình và trong một xã hội sẽ trở nên tốt đẹp, tràn đầy sự an lạc và hạnh phúc. + Lễ độ: Một trong những vấn đề được Phật Giáo đề cập cụ thể đó chính là bổn phận làm người “lễ độ” đối với những bậc trên, những người lớn hơn mình. Đại sư Ấn 32
  • 35. Quang từng nói “cần phải làm tròn bổn phận làm người rồi mới có thể nói đến việc học Phật. Nếu đối với việc hiếu đễ, trung tín, lễ nghĩa, liêm sỉ không làm được một việc gì, thì dù suốt ngày thờ Phật cũng vô ích, uổng công! Phật giáo bao quát cả pháp thế gian và xuất thế gian, nên đối với người làm cha làm mẹ thì nói đến lòng từ ái; đối với người làm con làm cháu thì nói đến việc hiếu thảo, dạy mọi người phải làm tròn bổn phận của mình rồi sau mới có thể tu pháp xuất thế gian”. Đạo Phật có thể được khẳng định là một trong những tôn giáo chú trọng đến nhiều mối quan hệ trong một gia đình, như quan hệ giữa vợ chồng, cha mẹ với con cái, quan hệ anh em và với bề trên... Trong mối quan hệ giữa con cái với cha mẹ, sự lễ độ được biểu hiện qua lòng hiếu thảo, sự kính yêu của con cái được thể hiện trong nhiều kinh văn vủa Phật Giáo như kinh Tịnh Phạn Vương Niết Bàn, Kinh Tâm Địa Quán, Kinh Bản Sự, Kinh Vu Lan Báo Hiếu... có thể nói “lễ độ” trong Phật giáo được hiểu theo một nghĩa rộng bao gồm tâm thức đến hành động và lời nói. Tâm nghĩ về điều thiện, hành động cư xử mang đến niềm vui, hạnh phúc cho cha mẹ, lời nói chất chứa sau đó là niềm yêu thương và sự cung kính. Kinh Bản Sự có nói: “Giả sử dùng hai vai Trọn đời cõng cha mẹ Thường cung kính cúng dường Chưa thể đáp ân sâu” Từ sự lễ độ với cha mẹ, anh em, bà con, quyến thuộc, ta còn rèn luyện để lan tỏa nó đến với mọi người xung quanh, “lễ độ” là dùng tâm khiêm nhường, nhẫn nhịn, biết “kính trên nhường dưới” để mà đối đãi, kết hợp với hành động thiện ý, lời nói ân cần giúp ta phát huy được bản tính thiện lành trong tâm thức chúng ta. “Lễ độ” không chỉ là một hành vi ứng xử mà còn là lối sống, một nét văn hóa nhân văn của Đạo Phật hướng đến cho người Phật tử cũng như nhiều thành phần khác trong xã hội. Nếu một người làm được, nhiều người làm được thì xã hội này sẽ trở nên có khuôn phép, không còn cảnh con cái đối xử tệ bạc với cha mẹ, anh em đối xử với nhau không bằng tình nghĩa ruột thịt, bên cạnh đó cũng hướng đến việc xây dựng những mối quan hệ tốt đẹp, bớt đi những hiềm thù không đáng có. 33
  • 36. Tiểu kết chƣơng 1 Trong chương 1 chúng tôi đã trình bày một số khái niệm công cụ, cũng như những vấn đề mang tính lí luận về quan niệm của Phật giáo đối với vấn đề môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Về quan niệm của Phật Giáo đối với việc bảo vệ môi trường tự nhiên: chúng tôi đã tìm hiểu giáo lí thập nhị nhân duyên, tứ diệu đế, nhân quả.... đây được xem như là những giáo lí căn bản, làm nền tảng cho giáo dục Phật Giáo, đã góp phần vào việc thay đổi nhận thức của con người về thế giới quan và nhân sinh quan, hướng con người đến con đường đúng đắn, an vui và hạnh phúc, có thái độ và hành vi tích cực đối với môi trường tự nhiên; bên cạnh đó việc bảo vệ môi trường xã hội được chúng tôi tìm hiểu thông qua tư tưởng bình đẳng, tứ vô lượng tâm, thập thiện nghiệp.... những giáo lí này thể hiện tinh thần từ bi, cứu khổ cứu nạn và triết lí sống vị tha, yêu thương chúng sinh muôn loài, đem đến giá trị cốt lõi của triết lí đạo Phật, hướng con người đến sự rèn luyện đạo đức và trí tuệ, là nền tảng vững chắc giúp con người biết điều chỉnh thói quen ứng xử trong mọi mối quan hệ xã hội, xây dựng một cuộc sống văn minh. Muốn thay đổi thói quen, trước hết phải thay đổi nhận thức đó là lẽ dĩ nhiên, tuy nhiên đó không phải là điều đơn giản, hay nói sâu xa hơn nó phải bắt nguồn sâu thẩm bên trong từ tâm thức của con người. Có thể thấy được rằng, với những triết lí mang tính khoa học và nhân văn sâu sắc, Phật Giáo có một cái nhìn toàn diện đối với vấn đề môi trường, xem trọng vấn đề bảo vệ môi trường, từ đó có vai trò to lớn trong việc chung tay bảo vệ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, giúp con người thay đổi từ nhận thức đến thói quen hành động, Phật giáo giúp con người hình thành nên thế giới quan, thấy được vị trí của mình trong mối liên hệ với môi trường sinh thái, nguồn tài nguyên thiên nhiên, cũng như thấy được mối quan hệ giữa cá nhân với mọi người xung quanh cũng như cộng đồng xã hội. 34
  • 37. Chƣơng 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ MÔI TRƢỜNG TẠI HUYỆN ĐÔNG ANH VÀ THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG Ở HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY 2.1. Một số vấn đề về môi trƣờng tại huyện Đông Anh hiện nay 2.1.1. Một số vấn đề về môi trường tự nhiên Đông Anh nằm trong châu thổ ven sông Hồng thuộc đồng bằng Bắc Bộ, bao gồm 23 xã, 1 thị trấn. Tổng diện tích đất tự nhiên là 18.214,89 ha. Trong đó diện tích đất nông nghiệp là 10.921,46 ha, chiếm 59,96% diện tích đất tự nhiên, diện tích nhóm đất phi nông nghiệp chiếm 33,14%, diện tích đất chưa sử dụng chiếm 0,85 % (kiểm kê năm 2015 của phòng Tài Nguyên môi trường huyện Đông Anh) [46, Tr 5] Sông Hồng, sông Cà Lồ, sông Đuống ...được xem là ba con sông lớn, đóng vai trò quan trọng trong hệ thống thủy văn của huyện, các con sông này vừa là ranh giới tự nhiên phân chia Đông Anh với các quận huyện khác của nội thành Hà Nội, với huyện Sóc Sơn, cũng là nguồn cung cấp nước sản xuất và sinh hoạt chính trên địa bàn ; ngoài ra trên địa bàn huyện còn có nhiều các ao, hồ, đầm lớn.... Về nền nhiệt độ, vì Đông Anh thuộc vùng khí hậu nhiệt đới, nên biên độ biến đổi nhiệt trong ngày khá lớn, lượng mưa trung bình năm khoảng trên 1600m, được coi là một trong những nơi mưa vừa phải ở nước ta, mưa tập trung vào mùa hè (chiếm 80 đến 90 %) [22, Tr 70]. Nhưng do chịu sự ảnh hưởng chung của khí hậu cả nước, tại huyện thường có gió mưa lớn, mùa Đông thường có bão cũng gây ra những trở ngại nhất định cho việc sản xuất và đời sống của nhân dân. Trong những năm gần đây môi trường tự nhiên ở huyện Đông Anh trở thành một mối quan tâm lo ngại không chỉ của người dân nơi chịu ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường mà còn là mối quan tâm sâu sắc của các cấp chính quyền và các tổ chức trong đó có các tổ chức tôn giáo. Qua nghiên cứu thực tiễn bằng cách phỏng vấn các cán bộ chuyên trách về môi trường tại một số xã trên địa bàn huyện Đông Anh đồng thời thu thập số liệu cũng như tham khảo một số tài liệu báo cáo tổng kết của Phòng Tài nguyên 35
  • 38. môi trường huyện Đông Anh, chúng tôi đưa ra một số kết luận về vấn đề môi trường trên địa bàn huyện như sau: * Các thành phần môi trường chuy n biến theo hướng tiêu cực, đang đứng trước nguy cơ ô nhiễm cao Môi trường nước, đất, không khí tại huyện Đông Anh tuy chưa ô nhiễm đến mức trầm trọng nhưng đều có dấu hiệu ô nhiễm nhẹ. Trong tương lai gần, khi Đông Anh được chọn là địa bàn quan trọng thu hút đầu tư phát triển kinh tế với các khu công nghiệp, trung tâm tài chính thương mại, du lịch, thể thao lớn ..... các thành phần môi trường sẽ chịu nhiều sức ép. - Thực trạng môi trường nước Một lần được trò chuyện, phỏng vấn cùng chuyên viên phòng Tài Nguyên và môi trường huyện Đông Anh chúng tôi biết được rằng, thông qua các cuộc họp và báo cáo được nêu ra tại hội nghị toàn huyện về công tác bảo vệ môi trường cho thấy, các khu vực sông và ao hồ, đầm trên địa bàn huyện Đông Anh tiếp nhận hàng ngày hàng trăm nghìn m3 nước thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt đô thị và nước thải từ đồng ruộng, các khu vực chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản. Ngoài ra, theo Ông, một trong những nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm nguồn nước tại huyện đó chính là nguồn chất thải rắn sinh hoạt của các đô thị, khu dân cư, nông thôn tập trung. Theo điều tra phân tích mẫu nước thải sinh hoạt tại các kênh mương, cánh đồng và cửa ra 3 lưu vực sông Hồng, Sông Đuống và Sông Cà Lồ cho thấy: “tuy 100% các hộ gia đình đã trang bị bể tự hoại tuy nhiên lượng nước thải sinh hoạt khác tại các hộ gia đình vẫn chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn, hàm lượng các chất hữu cơ và các chất lơ lửng vượt tiêu chuẩn cho phép ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường, gây hại đến môi trường thủy sinh, gây tắc cống nước, bồi lắng dòng kênh, và ảnh hưởng đến tài nguyên thủy sinh.” [46; Tr 18, 19] Dựa vào số liệu điều tra của phòng tài nguyên môi trường huyện Đông Anh, sau khi phân tích mẫu nước mặt tại các ao, đầm và các sông thu được kết quả như sau: nguồn nước mặt trên địa bàn huyện Đông Anh đang có dấu hiệu ô nhiễm, trong đó một số sông có dấu hiệu bị ô nhiễm như sông Cà Lồ (đo tại điểm đầu xã Thụy 36
  • 39. Lâm, điểm cuối xã Bắc Hồng); sông Hồng (đo tại xã Võng La) các chỉ tiêu quan trắc vượt khỏi giới hạn cho phép; ngoài ra cũng có một số sông trên địa bàn huyện các chỉ tiêu quan trắc nằm trong giới hạn cho phép của quy chuẩn, như sông Ngũ Huyện Khê (đo điểm đầu xã Mai Lâm, điểm cuối xã Đông Hội), sông Hoàng Giang (đo trên địa bàn các xã).[46, Tr 10, 11] Vấn đề ô nhiễm môi trường nước tại huyện Đông Anh là một vấn đề nan giải bởi lẽ nó để lại hậu quả cho thiên nhiên, bên cạnh đó, còn ảnh hưởng sâu sắc đến người dân địa bàn lân cận “tại một số nơi trên địa bàn các xã Mai Lâm, Dục Tú, Việt Hùng, huyện Đông Anh, Hà Nội từ nhiều năm nay tồn tại hàng chục nhà xưởng đang ngày đêm xả nước thải trực tiếp ra môi trường, làm ảnh hưởng tới cuộc sống người dân quanh khu vực, gây ô nhiễm môi trường sản xuất nông nghiệp” [xem 63] - Thực trạng môi trường không khí Hiện nay, khi các ngành công nghiệp ngày càng phát triển, ô nhiễm không khí là một vấn đề đáng quan tâm lo ngại đối với môi trường đô thị, khu công nghiệp và một số làng nghề. Ở huyện Đông Anh, các hoạt động chăn nuôi, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, hoạt động sản xuất của làng nghề, giao thông vận tải, xây dựng đô thị, hạ tầng kĩ thuật.... là những nguyên nhân chính dẫn đến việc ô nhiễm không khí Cũng theo chuyên viên phòng tài nguyên môi trường, thông qua việc điều tra, phân tích không khí tại các tuyến đường khu dân cư, tuyến đường giao thông chính, làng nghề trên địa bàn huyện Đông Anh cho thấy: không khí trên địa bàn huyện Đông Anh đang có dấu hiệu ô nhiễm, tại một số nơi, chất lượng không khí vẫn đang ổn định, theo điều tra của phòng Tài Nguyên “hiện trạng chất lượng môi trường không khí tại các làng nghề và cụm công nghiệp có chứa thành phần các khí gây ô nhiễm không khí như SO2, NO2, CO, bụi lơ lửng, tiếng ồn vẫn đang nằm trong giới hạn cho phép của quy chuẩn so sánh” [45;Tr 15]. Tuy nhiên, tại một số vùng trên địa bàn, nơi có các nhà máy và các xưởng, chất lượng môi trường không khí bị ảnh hưởng nặng nề, vì không thể hoạt động công khai vào ban ngày, các cơ 37