SlideShare una empresa de Scribd logo
1 de 87
HÀ NỘI, 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐẶNG HỒNG SƠN
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA,
TỈNH ĐỒNG NAI
Dịch Vụ Làm Khóa Luận, Luận Văn
Luanvantrithuc.com
Hotline: 0936.885.877
Tải tài liệu nhanh qua zalo
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐẶNG HỒNG SƠN
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA,
TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. VÕ THỊ KIM OANH
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu được đưa vào ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học
của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Đặng Hồng Sơn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1
Chương 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
TRONG TỘI CỐ GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO
SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC................................................................6
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác ................................................................6
1.2. Hình phạt..................................................................................................18
1.3. Phân biệt tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác với một số tội phạm khác được quy định trong Bộ luật Hình sự 25
Chương 2: ÁP DỤNG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY
THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI
KHÁC TẠI THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI.....................32
2.1. Định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác.......................................................................................................32
2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại sức khỏe cho người khác...........................................................................46
2.3. Một số vướng mắc trong việc áp dụng Bộ luật Hình sự đối với tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.....................52
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN
HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC ...........................................66
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác........66
3.2. Các giải pháp cụ thể .................................................................................67
3.3. Các giải pháp khác ...................................................................................71
KẾT LUẬN....................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ANTT : An ninh trật tự
BLHS : Bộ luật Hình sự
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng Hình sự
CQĐT : Cơ quan điều tra
CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng
CTTP : Cấu thành tội phạm
HĐTP : Hội đồng thẩm phán
HĐXX : Hội đồng xét xử
QĐHP : Quyết định hình phạt
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
TNHS : Trách nhiệm hình sự
TTTAXH : Trật tự an toàn xã hội
THADS : Thi hành án dân sự
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Số liệu xét xử sơ thẩm về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác tại thành phố Biên Hòa.............. 36
Bảng 2.2: Tổng số vụ án bị xét xử phúc thẩm và số vụ án bị xét xử phúc
thẩm về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác............................................................................................. 36
Bảng 2.3: Hình phạt do Tòa án Cấp sơ thẩm áp dụng .................................... 37
Bảng 2.4: Hình phạt do Tòa án Cấp phúc thẩm áp dụng ................................ 37
Bảng 2.5: Hình phạt do Tòa án Cấp sơ thẩm áp dụng .................................... 49
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong thời gian những năm gần đây đã và đang diễn biến hết sức phức tạp, có
chiều hướng gia tăng trên phạm vi cả nước. Sự quyết tâm của Đảng và Nhà
nước cùng với các cơ quan bảo vệ pháp luật đã đề ra nhiều giải pháp tích cực,
kiên quyết đấu tranh phòng chống, ngăn chặn và xử lý tất cả tội phạm, trong đó
có tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp 2013 thì “Mọi người
có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ,
danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay
bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm
danh dự, nhân phẩm”. Hiện nay tuy mặt bằng dân trí cao hơn, nhận thức
pháp luật tốt hơn nhưng vẫn có người phạm tội do sự tác động của nhiều
chiều hướng khác nhau trong đời sống tất yếu có nhiều yếu tố về mặt trái
ảnh hưởng như trong hội nhập phát triển, tầm ảnh hưởng của nền kinh tế thị
trường, đời sống khó khăn, môi trường mạng xã hội, game online ngập tràn
bạo lực, thái độ xử sự không đúng, thiếu tôn trọng, tình hình tạm trú, nhập
cư... Trong khi đó đã có nhiều văn bản hướng dẫn xử lý và giải quyết theo
quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác, tuy nhiên khi đưa vào áp dụng các quy định
pháp luật hình sự và vận dụng từ hướng dẫn ở các văn bản về tội phạm này,
chưa thấy có sự thống nhất và vẫn còn có nhiều cách hiểu khác nhau… dễ
dẫn đến bỏ lọt tội phạm, xét xử oan người vô tội… qua nghiên cứu lý luận
và thực tiễn đối với loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Biên Hòa nhằm
tìm ra nguyên nhân, vướng mắc để rút ra kinh nghiệm và đề xuất biện pháp
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự tại tỉnh Đồng Nai nói riêng và
của cả nước nói chung.
2
Thành phố Biên Hòa thuộc đô thị loại 1, là trung tâm kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội lớn nhất của tỉnh Đồng Nai. Với dân số gần 1,2 triệu người,
mật độ dân số 4100 người/km2
là thành phố trực thuộc tỉnh đông dân nhất
của cả nước, gồm 29 phường và 01 xã, là địa phương có số dân tạm trú,
nhập cư biến động lớn của tỉnh, số dân có đạo là rất lớn, tập trung nhiều khu
công nghiệp, có nhiều tuyến đường huyết mạch của tỉnh cũng như của vùng
đô thị TP Hồ Chí Minh, hiện nay tiếp giáp với thành phố Thủ Đức trực thuộc
TP Hồ Chí Minh và tiếp giáp thị xã Tân Uyên, thành phố Dĩ An thuộc tỉnh
Bình Dương. Do đó thành phố Biên Hòa chịu tác động và ảnh hưởng của
nhiều nguyên nhân cho nên tình hình phạm pháp hình sự và tệ nạn xã hội
luôn diễn biến vô cùng phức tạp. Hàng năm có trung bình hơn 1200 vụ phạm
pháp hình sự xảy ra trong đó hơn 100 vụ án cố ý gây thương tích. Năm 2019
đã có hơn 1200 vụ phạm pháp hình sự và 101 vụ cố ý gây thương tích, sự
việc này có ảnh hưởng không tốt đến tình hình ANTT tại tỉnh Đồng Nai nói
chung.
Cũng theo thực tiễn yêu cầu nêu trên, tác giả phải nghiên cứu sâu hơn,
toàn diện hơn về tội phạm này đây thực tế là lý do tôi chọn đề tài làm luận
văn tốt nghiệp cao học luật chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
để nghiên cứu: “Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác từ thực tiễn Thành phố Biên Hòa”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Dưới góc độ Luật Hình sự hiện nay, theo khảo sát của tác giả có nhiều
công trình nghiên cứu về tội phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (phần các
Tội phạm)” của GS.TS Võ Khánh Vinh (Chủ biên), Nxb Công an Nhân dân,
Hà Nội 2003. “Giáo trình Hình sự Việt Nam (phần các tội phạm)” của
PGS.TS Đỗ Đình Hòa (Chủ biên), Nxb Tổng cục XDLL CAND, Hà Nội,
2009; “Các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân
3
phẩm của con người” của tác giả PGS.TS. Trần Văn Luyện, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2000; “Bình luận khoa học bộ luật hình sự Tập 1, Các tội
phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người:
Bình luận chuyên sâu”. Của ThS. Đinh Văn Quế, Nxb thành phố Hồ Chí
Minh, 2002, “Bình luận khoa học Bộ Luật Hình Sự” của Cao Thị Oanh - Lê
Đăng Doanh Nxb Lao động, Hà Nội tháng 6 năm 2016; “Định tội danh tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác” của Vũ
Văn Thắng - Luận văn thạc sỹ, Học viện khoa học xã hội năm 2017; “Giáo
trình Luật hình sự - phần các tội phạm” Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
2003. Ngoài ra còn rất nhiều bài viết, các văn bản hướng dẫn của Toà án
nhân dân Tối cao, một số bản án của Toà án Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai... Các
công trình này đã đi sâu nghiên cứu về những vấn đề lý luận cũng như làm
rõ các đặc trưng pháp lý, phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác
theo quy định của BLHS…, tuy nhiên chưa đi sâu, chưa đưa ra kiến nghị
làm rõ những quy định về các tình tiết cụ thể của tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhằm hoàn thiện quy định của
Luật cũng như chưa có nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự
đối với tội phạm này.
Từ khảo sát của tác giả qua nghiên cứu những năm gần đây thì nghiên
cứu về thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành
phố Biên Hòa hiện có rất ít công trình nghiên cứu khoa học về đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Qua nghiên cứu phân tích những vấn đề về lý luận cũng như pháp luật
hình sự về tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác” qua thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt về tội “Cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác” tại Thành phố
Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2015 đến 2019 do quy định pháp luật hình
4
sự không thật đồng nhất trong các thời kỳ. Nhận thức về lý luận cũng như
thực tiễn áp dụng về tội phạm này đang có những hạn chế vướng mắc. Luận
văn đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao và hoàn thiện các quy định pháp
luật về tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác”.
Nhiệm vụ của luận văn để đạt được mục đích trên cần phải: Nghiên cứu
mặt lý luận tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác”. So sánh, đối chiếu, đánh giá Bộ luật hình sự năm 1999 với Bộ
luật hình sự 2015 sửa đổi 2017 về tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khoẻ của người khác”. Phân tích, đánh giá thực tiễn định tội danh và
quyết định hình phạt trên địa bàn Thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai. Đưa
ra các giải pháp yêu cầu áp dụng đúng các quy định của pháp luật về tội đã
nêu trên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng được nghiên cứu trong đề tài này gồm các vấn đề lý luận
và pháp lý hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác, cũng như vấn đề định tội danh và quyết định hình phạt.
* Phạm vi nghiên cứu tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai
đoạn 2015 - 2019 theo chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp chung: Chủ yếu dùng phương pháp luận trong quá
trình nghiên cứu là phép duy vật biện chứng của Mác-Lênin, Tư tưởng đạo
đức phong cách Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về các chính sách hình sự trong công tác điều tra, truy tố và xét xử.
+ Phương cụ thể: Đã kết hợp sử dụng nhiều phương pháp tổng hợp,
phân tích, thống kê, điều tra và lấy ý kiến của nhiều chuyên gia, so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Về lý luận: Luận văn nghiên cứu toàn diện dưới góc độ pháp luật
5
hình sự, góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật Hình sự có liên
quan đến tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác, đồng thời góp phần hoàn thiện lý luận về định tội danh và QĐHP đối
với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
- Về thực tiễn: Luận văn khi hoàn thiện thì tác giả mong muốn nó
cũng là tài liệu tham khảo quan trọng dùng trong quá trình học tập và nghiên
cứu của các cơ sở đào tạo Luật ở nước ta; sẽ góp phần tích cực trong việc
nâng cao hiệu quả hoạt động của CQTHTT của thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai; cũng là tài liệu tham khảo quan trọng trong thực tiễn hoạt động
của các CQTHTT ở thành phố Biên Hòa nói riêng và các CQTHTT nói
chung trong quá trình giải quyết các vụ án phạm tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Các vấn đề lý luận và pháp luật hình sự trong tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng Bộ luật Hình Sự về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng
pháp luật đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác.
6
Chương 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
TRONG TỘI CỐ GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác
Quy định về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác tại điều 134 thuộc chương XIV: Các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phầm, danh dự của con người của Bộ luật hình sự năm 2015
(được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 22 Điều 1 của Luật số
12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số
100/2015/QH13 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018 – gọi chung là Bộ luật
hình sự mới) có nhiều thay đổi so với Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ
sung năm 2009 (sau đây gọi là Bộ luật hình sự cũ). Đây là tội phạm có tần
suất diễn ra nhiều trong cuộc sống thường ngày.
- Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là
hành vi của một người cố ý làm cho người khác bị thương hoặc tổn hại đến
sức khỏe, có thể nhận biết Cố ý gây thương tích qua một số dấu hiệu:
+ Thứ nhất, người phạm tội phải có hành vi tác động đến thân thể
người khác làm cho người này bị thương, bị tổn hại đến sức khỏe như: đâm,
chém, đấu đá, đầu độc… Hành vi này về hình thức cũng giống như hành vi
của tội giết người nhưng tính chất và mức độ nguy hiểm thấp hơn nên nó chỉ
làm cho nạn nhân bị tổn thương cơ thể hoặc bị tổn hại sức khỏe.
+ Thứ hai, hành vi của người phạm tội được thực hiện do cố ý, tức là
nhận thức rõ hành vi của mình nhất định hoặc có thể gây ra tổn thương cơ thể
cho người khác, mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho chuyện đó xảy ra.
7
- Một số quan điểm khác thì cho rằng: “Tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi cố ý gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác dưới dạng thương tích hoặc tổn thương khác” [1; Tr.9].
Từ đó, có thể thấy định nghĩa này mới chỉ nhấn mạnh đến hành vi và hậu quả
(thuộc mặt khách quan của tội phạm) song vẫn chưa đề cập đến những yếu tố
khác trong cấu thành tội phạm. Các định nghĩa đã nêu trên vẫn chưa có sự
phù hợp bởi vì chưa đề cập đến các dấu hiệu năng lực TNHS, độ tuổi chịu
TNHS, cũng như tính trái pháp luật của hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác, do đó việc xây dựng định nghĩa về tội
“cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác” theo ý
kiến riêng của tác giả sẽ hợp lý hơn khi dựa trên khái niệm tội phạm: Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,
xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo
quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự (tại khoản 1 điều 8 BLHS năm
2015).
Quy định về tội phạm đã nêu ở trên có thể xem là quy định có tính rất
khoa học, thể hiện nhất quán quan điểm của Nhà nước Việt Nam về tội phạm.
Đã tách bạch rõ ràng những hành vi không phải là tội phạm với những hành
vi tội phạm về tính: có lỗi, trái pháp luật hình sự, nguy hiểm cho xã hội và
phải chịu hình phạt.
Theo đó, tác giả đề xuất khái niệm về tội này như sau: “Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác là hành vi của
người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi theo luật định. Cố ý làm
8
trái pháp luật hình sự, tác động lên cơ thể của người khác gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ”. Thực chất có hai tội do hành vi và hậu quả
cùng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nên các nhà làm luật đã gộp chung lại
trong điều luật này. Cố ý gây thương tích có mức độ nguy hiểm thấp, làm nạn
nhân bị thương chứ không muốn gây ra cái chết cho nạn nhân.
Qua khái niệm này có thể biết được tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại sức khỏe của người khác có đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, lưu ý
đây là: Tính nguy hiểm cho xã hội, được biểu hiện ở chỗ người phạm tội có
hành vi cố ý tác động trái pháp luật lên thân thể của người khác, làm tổn
chương một phần hay toàn bộ cơ thể của người khác dẫn đến việc người bị
hại bị tổn thương cơ thể hoặc bị tổn hại đến sức khỏe ở một tỷ lệ nhất định.
Tính có lỗi: Lỗi đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác căn cứ quy định của BLHS là lỗi cố ý. Dấu hiệu bắt
buộc của loại tội phạm này là người phạm tội nhận thức rõ được hành vi tác
động đến thân thể người khác làm cho người này bị thương, bị tổn hại đến sức
khỏe, tức là nhận thức rõ hành vi của mình nhất định hoặc có thể gây ra
thương tích cho người khác, mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho chuyện
đó xảy ra.
Tính trái pháp luật hình sự: Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác, thể hiện ở việc người phạm tội đã thực
hiện các hành vi mà bị pháp luật ngăn cấm và bảo vệ tại Điều 134 của BLHS.
Tính chịu hình phạt: Đây là dấu hiệu cơ bản của loại tội phạm này, khi
có hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt theo quy định của pháp luật hình
sự. Với các hình phạt được quy định trong BLHS để áp dụng đối với người
thực hiện tội phạm của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác là: bị phạt cải tạo không giam giữ, bị phạt tù có thời hạn, bị
phạt tù chung thân.
9
Theo khái niệm của tội này ở trên, sẽ được hiểu như sau: Hành vi người
phạm tội tác động trái pháp luật đến thân thể người khác khi đó có khả năng
gây ra cho người này bị thương tích, bị tổn hại đến sức khỏe có thể nhìn thấy
được về vật chất, tinh thần cho nạn nhân. Các hành vi đã nêu có thể đã được
thực hiện với các phương tiện, công cụ phạm tội (chém, đâm, ném đá, bắn,
đốt...) hoặc là không có phương tiện, công cụ phạm tội (mà là xô đẩy, ẩu đã
xô xát, đạp, cắn, đá, đấm...) hoặc có thể thông qua súc vật (kích động súc vật
trâu, bò để húc, thả chó cắn...) hay sử dụng trực tiếp cơ thể người nào đó khác
(ôm cơ thể người này chém người khác, nắm chân người khác làm côn
đánh...)
+ Gây thương tích cho người khác: Là hành vi của người phạm tội tác
động lên thân thể của người khác một cách trái pháp luật, sự việc này dẫn đến
hậu quả người đó sẽ bị một số tổn thương cơ thể nhất định. Những tác động
lên thân thể người khác có thể bằng tay, chân hoặc các công cụ phương tiện
tự chế, công cụ phương tiện hỗ trợ như: gậy gộc, dao, súng... sự việc đó có thể
làm cho nạn nhân bị những thương tích theo tỷ lệ nhất định qua đó không
thấy còn nguyên vẹn sự bình thường của cơ thể.
+ Gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác: Thể hiện qua hành vi dùng
thủ đoạn tác động trực tiếp cơ thể nạn nhân làm cho một số bộ phận cơ thể
nạn nhân không còn hoặc làm giảm chức năng (như uống thuốc độc, cho ăn
các loại độc hại làm mất hoặc giảm chức năng nội tạng trong cơ thể của người
khác hoặc cho hít chất độc hại làm suy giảm hệ hô hấp của nạn nhân…) có
thể nhận thấy các bộ phận (cơ quan) của cơ thể nạn nhân không còn nguyên
vẹn như trước.
Hậu quả: Dấu hiệu hậu quả của tội cổ ý gây thương tích theo quy định
tại điều luật này gồm một trong hai loại hậu quả:
Thứ nhất: Tỷ lệ thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của nạn nhân từ 11%
trở lên mà không có các tình tiết quy định từ Điểm a đến Điểm k Khoản 1
10
Điều 134 BLHS này. Cách tính tỷ lệ thương tích hay tổn hại sức khỏe tham
khảo Thông tư 20/2014/TT-BYT ngày 12 tháng 06 năm 2014 của Bộ Y tế.
Thứ hai: hậu quả tỷ lệ thương tích hoặc tổn hại sức khỏe dưới 11%
nhưng có các tình tiết quy định tại các Điểm từ a đến k Khoản 1 Điều này.
Các tình tiết quy định từ Điểm a đến Điểm k Khoản 1 Điều này có nhiều tình
tiết giống với tình tiết quy định tại Khoản Điều 123 quy định về tội giết
người, cần chú ý một số chi tiết sau: Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy
hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người: Đây là trường
hợp người phạm tội sử dụng công cụ phương tiện có tính nguy hiểm cao, chưa
gây ra thiệt hại đáng kể nhưng có khả năng đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể
cho quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của con người. Đó là vũ khí bao
gồm vũ khí quân dụng, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao và vật liệu nổ, công cụ
hỗ trợ (theo Luật quản lý, sử dụng vũ khí vật liệu nổ quy định cụ thể từng loại
vũ khí). Ngoài ra, người phạm tội có thể sử dụng hung khí nguy hiểm là các
loại công cụ phạm tội gây nguy hiểm cao cho sức khỏe con người Theo Tiểu
mục 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày
17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thì
hung khí nguy hiểm bao gồm: búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn...;
Về vật mà người phạm tội chế tạo ra: thanh sắt mài nhọn, côn gỗ... ; Về vật có
sẵn trong tự nhiên: gạch, đá, đoạn gậy cứng, chắc, thanh sắt.
Ngoài dấu hiệu hành vi và hậu quả mặt khách quan của tội này cũng
đòi hỏi phải có mối quan hệ nhân quả. Hành vi của người phạm tội được thực
hiện do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình nhất định hoặc có thể gây
ra thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác; mong muốn hoặc có
ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra. So với tội giết người, thì sự cố ý trong
trường hợp gây thương tích mức độ nguy hiểm có thấp hơn, vì người phạm
tội chỉ mong muốn hoặc để mặc cho nạn nhân bị thương, bị tổn hại đến sức
khỏe chứ không mong muốn nạn nhân chết.
11
Chủ thể của tội này: Người từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực TNHS.
Người từ đủ 14 đến chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi
phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Khoản 3, 4 và Khoản 5 điều này (loại
tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng)
1.1.2. Các yếu tố cấu thành tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.1.2.1. Khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác.
Trong thực tiễn cũng như các ý kiến khoa học pháp lý đều có sự thống
nhất khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ
nhưng đã bị hành vi phạm tội xâm phạm hoặc đe dọa gây thiệt hại ở một mức
nhất định. Khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác: xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe
của con người. Quyền này được hiến pháp và pháp luật bảo vệ, đòi hỏi các cá
nhân và các chủ thể khác trong xã hội phải tôn trọng. Đối tượng là thân thể
con người đang sống; đã được khẳng định tại Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp
2013 thì “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật
bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy
bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức
khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.
Hành vi phạm tội này đã xâm phạm đến quyền được bảo vệ sức khỏe
của con người có sự tác động làm biến đổi tình trạng bình thường của đối
tượng bị tác động. Quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017
nếu đối tượng tác động là sức khỏe của trẻ em, người tàn tật, người già, phụ
nữ đang có thai, người không có khả năng tự vệ thì TNHS đối với người
phạm tội sẽ nặng hơn. Cho nên khi xác định đúng đối tượng tác động của tội
này là việc rất cần thiết. Chính vì vậy khi hành vi tác động vào đối tượng nếu
không phải là con người, không là người còn sống thì không xâm phạm quyền
12
được bảo vệ sức khỏe nên không thể có phạm tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; hay có trường hợp, một người nào
đó tự gây ra thương tích cho bản thân họ vì một lý do nào khác thì không
thuộc đối tượng điều chỉnh của Điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017.
1.1.2.2 Mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác
Khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác: Hành vi cố ý gây thương tích có điểm giống với hành vi giết
người. Người phạm tội tác động vào thân thể nạn nhân để gây thương tích hay
gây tổn hại sức khỏe cho nạn nhân: đâm, chém, đấm đá, đốt cháy, đầu độc
v.v...
* Về hành vi.
Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác cũng có mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Ví dụ như: có những
hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
có tình tiết làm giảm đi một cách đáng kể mức độ nguy hiểm cho xã hội, cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh,…
- Đối với tội cố ý gây thương tích. Được thể hiện qua hành vi dùng vũ
lực (không sử dụng hung khí hoặc có sử dụng hung khí) hoặc dùng thủ đoạn
khác tác động lên cơ thể người khác gây tổn thương cho họ (gãy chân, thủng
ruột,...). Nhìn chung các thương tích có thể thấy rõ.
Việc dùng vũ lực có thể chỉ bằng sức mạnh cơ thể (dùng chân đá, dùng
tay đấm) hoặc có thêm việc sử dụng hung khí (như dao, búa, gậy gộc...) tác
động trực tiếp lên cơ thể của nạn nhân.
Dùng thủ đoạn khác (gián tiếp) có thể là xô đẩy làm cho nạn nhân ngã,
va vào vật cứng dẫn đến thương tích hoặc ép cho nạn nhân tự gây thương
tích..
13
Tổn hại gồm tổn hại đối với cơ thể và tổn hại đối với thần kinh (sức
khỏe tâm thần).
Chủ thể của tội phạm này là người đã có lỗi trong việc cố ý thực hiện
hành vi đánh người gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người
khác, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
theo luật định. Như đã nêu ở trên Mục 1.1.1 của bài viết này, theo Điều 12 Bộ
luật Hình sự 2015, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
* Dấu hiệu khác.
Tại khoản 1 điều 134 BLHS 2015 quy định phạm tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể
từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp được
quy định tại khoản này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc
phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.Cụ thể là:
- Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02
người trở lên: Tiểu mục 3.1 Mục 3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP hướng
dẫn: “Dùng hung khí nguy hiểm là trường hợp dùng vũ khí hoặc phương tiện
nguy hiểm theo hướng dẫn tại các tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I Nghị
quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm
phán TANDTC để cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác”. Do vậy, hung khí nguy hiểm và phương tiện nguy hiểm (búa
đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn); còn thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều
người có thể kể đến như dùng bom xăng… thì hung khí nguy hiểm bao gồm:
búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn...; Về vật mà người phạm tội chế
tạo ra: thanh sắt mài nhọn, côn gỗ... ; Về vật có sẵn trong tự nhiên: gạch, đá,
đoạn gậy cứng, chắc, thanh sắt.
- Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác: Hóa chất nguy
hiểm được định nghĩa tại Khoản 5 Điều 3 Thông tư 04/2012/TT-BCT quy
14
định phân loại và ghi nhãn hóa chất do Bộ trưởng Bộ Công thương ban hành,
bao gồm các đặc tính như dễ nổ, ăn mòn mạnh, oxy hóa mạnh…
Chế tài với tội cố ý gây thương tích
- Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân: Ở Khoản 1 mục I Nghị quyết 02/2003/NQ-
HĐTP quy định, cố tật nhẹ là trạng thái bất thường, không thể chữa được cho
một bộ phận cơ thể của nạn nhân dù tỷ lệ thương tật dưới 11%
- Phạm tội 02 lần trở lên: Là phạm tội với nhiều lần, cho thấy tính chất
và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội.
- Phạm tội đối với 02 người trở lên: Là phạm tội với nhiều người, cho
thấy tính nguy hiểm của công cụ, thủ đoạn mà đối tượng thực hiện hành vi có
khả năng tác động và gây thương tích, tổn hại sức khỏe cho nhiều người.
- Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu,
ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ: Ở đây ta cần lưu ý với
trường hợp phụ nữ có thai. Chỉ khi tội phạm biết và đủ căn cứ để biết được
rằng người phụ nữ này đang mang thai mà vẫn thực hiện hành vi phạm tội thì
mới thuộc trường hợp này.
- Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo
của mình: Là những người có quan hệ ruột thịt hoặc nuôi dưỡng, dạy dỗ đối
với người thực hiện hành vi. Quy định này đề cao giá trị đạo đức trong xã hội
trước hành vi phạm tội.
- Phạm tội có tổ chức: Là trường hợp có từ 02 người trở lên, bàn bạc,
cấu kết để cùng thực hiện hành vi (đồng phạm).
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: Là hành vi cố ý gây thương tích của
những người có chức vụ, quyền hạn nhưng không liên quan đến công vụ của
người đó.
- Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành
hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc,
đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc: Đây là những đối
15
tượng bị kiểm soát và đang chấp hành án hình sự hoặc hành chính và cần có
thái độ tôn trọng pháp luật một cách cao nhất.
- Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích
hoặc gây tổn hại sức khỏe do được thuê: Người thuê và người được thuê gây
thương tích cho người khác đều được coi là nghiêm trọng hơn trường hợp gây
thương tích bình thường, nên người bị hại chỉ bị thương tích hoặc tổn hại đến
sức khỏe dưới 11% thì người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo Khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
- Có tính chất côn đồ: Theo Công văn số 38/ NCPL ngày 06/01/1976
của Toà án nhân dân tối cao và Kết luận của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao tại Hội nghị tổng kết ngành Tòa án năm 1995, khái niệm côn đồ được
hiểu là hành động của những tên coi thường pháp luật, luôn luôn phá rối trật
tự trị an, sẵn sàng dùng vũ lực và thích (hay) dùng vũ lực để uy hiếp người
khác phải khuất phục mình, vô cớ hoặc chỉ vì một duyên cớ nhỏ nhặt là đâm
chém, thậm chí giết người.
Tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” trong cấu thành tội “Cố ý
gây thương tích” tại điểm i, khoản 1, Điều 134, Bộ luật hình sự (BLHS) quy
định: Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% có tính chất côn đồ thì bị
phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Về khoa học pháp lý, tính chất “côn đồ” được sử dụng là một trong
những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc tình tiết định khung hoặc
định khung tăng nặng
- Tái phạm nguy hiểm: Theo khoản 2 điều 53 BLHS 2015 để xác định.
- Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn
nhân: Trong trường hợp phạm tội này người phạm tội gây thương tích cho
nạn nhân là để cản trở việc thi hành công vụ của họ hoặc vì lý do công vụ của
người khác mà gây ra thương tích.
16
Khoản 2 dùng tỷ lệ tổn thương cơ thể, của 02 người, phạm tội 02 lần,
tái phạm và các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản
1 Điều 134 BLHS để xác định khung hình phạt tăng nặng. Theo đó, Phạm tội
thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm.
Khoản 3 dùng tỉ lệ tổn thương cơ thể để xác định khung hình phạt tăng
nặng. Theo đó, Phạm tội thuộc một trong các trường hợp được quy định cụ
thể, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
1.1.2.3. Chủ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe cho người khác
Bộ Luật hình sự Việt Nam đã thừa nhận rằng chủ thể của một số tội
phạm về pháp nhân thương mại nhưng chưa có quy định riêng về định nghĩa
chủ thể của tội phạm (chỉ xác định chủ thể tội phạm là con người cụ thể).
Theo quy định tại BLHS hiểu được: “Chủ thể của tội phạm là con người cụ
thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội một cách cố ý hoặc vô ý, có đủ
năng lực TNHS và đạt độ tuổi theo luật hình sự quy định”.
Chủ thể của Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác là những người bình thường không mắc các bệnh làm mất khả
năng nhận thức về tâm thần hoặc một bệnh khác không có khả năng điều
khiển hành vi của mình là Người từ đủ 14 tuổi trở lên, có năng lực TNHS.
Theo quy định của Điều 12 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm,
trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng của Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác cũng có quy định tại 134 BLHS này. Vì vậy,
dấu hiệu bắt buộc về hậu quả của loại tội phạm này là để lại thương tích cho
nạn nhân với tỷ lệ % tổn thương cơ thể theo quy định pháp luật.
Theo quy định của BLHS về cách tính tuổi chịu TNHS ở đây thì độ
17
tuổi là “đủ 14 tuổi” hoặc “đủ 16 tuổi”. Thực tế không phải bao giờ cũng dễ
dàng xác định được độ tuổi cũng như trong lý luận việc này thông thường căn
cứ theo Giấy đăng ký khai sinh để xác định độ tuổi. Tuy vậy, không phải
trong trường hợp nào cũng đều còn Giấy khai sinh hoặc giấy khai sinh không
chính xác... Theo Công văn hướng dẫn để khắc phục vướng mắc này tại mục
11 phần II Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/06/2002 về cách tính tuổi
chịu TNHS của người phạm tội nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng. Theo quan điểm của học
viên quy định này là rất khoa học và phù hợp đảm bảo được nguyên tắc có lợi
cho người phạm tội cũng như có biện pháp xử lý pháp luật thích đáng người
phạm tội.
1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác
Trong pháp luật hình sự Việt Nam “Mặt chủ quan của tội phạm là
những diễn biến tâm lý bên trong của tội phạm, phản aanh trạng thái tâm lý
của chủ thể phạm tội với lỗi, động cơ và mục đích để phạm tội”. Theo đó,
hành vi bắt buộc có dấu hiệu của tội phạm, hành vi nguy hiểm cho xã hội
không đáng kể thì không thể truy cứu TNHS, khoản 2 điều 8 BLHS có quy
định “ Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy
hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng
các biện pháp khác”.
Tội phạm này được thực hiện với lỗi cố ý (gián tiếp hoặc trực tiếp). Có
nghĩa là người phạm tội khi thực hiện hành vi nhận thức rõ hành vi của mình
là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn
hậu quả xảy ra; hoặc Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không
mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra (Cố ý phạm tội
được quy định tại Điều 10 BLHS). Trường hợp xác định chính xác mặt khách
18
quan đây là cơ sở quan trọng để xem xét người phạm tội phải chịu mức độ
TNHS.
Xét về mặt chủ quan của Tội phạm này thì dấu hiệu bắt buộc của cấu
thành tội phạm này không phải là ở động cơ và mục đích. Tuy vậy, quy định
hành vi gây ra thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác cũng có
trong một số cấu thành tội phạm về mặt khách quan, nhưng dấu hiệu bắt buộc
lại quy định ở dấu hiệu động cơ và mục đích phạm tội qua đó việc xác định
được đúng động cơ, mục đích phạm tội sẽ định hướng đúng tội danh và phân
biệt tội này với các tội (Tội cố gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho
người khác) khác như: trong khi thi hành công vụ (Điều 137 BLHS), do vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ
người phạm tội (Điều 136 BLHS); Tội khủng bố nhằm chống chính quyền
nhân dân (Điều 113 BLHS).
1.2. Hình phạt
Điều 134 BLHS quy định 5 khung hình phạt, bao gồm khung cơ bản và
khung tăng nặng, hình phạt này được cụ thể như sau:
1.2.1. Khung cơ bản
Quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ
06 tháng đến 03 năm mà tỷ lệ tổn thương cơ thể nạn nhân từ 11% đến 30%
hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp phạm tội từ điểm a đến
điểm k như phân tích trên:
- Theo quy định tại Khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 thì người nào
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các
trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k thì người đó mới bị truy cứu trách
nhiệm hình sự; còn nếu một đối tượng cố ý gây thương tích cho người khác
làm giảm dưới 10% sức khoẻ nhưng không thuộc quy định tại các điểm từ a
19
đến k khoản 1 Điều này thì hành vi của người đó không cấu thành tội phạm,
không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả
năng gây nguy hại cho nhiều người: So với BLHS năm 1999 thì BLHS năm
2015 bổ sung thêm 02 tình tiết dùng vũ khí, vật liệu nổ làm tình tiết định
khung. Tuy vậy, cá nhân tác giả có quan điểm rằng việc bổ sung này cũng
không thật sự cần và đồng tình theo hướng tiếp cận của tác giả Đinh Văn Quế
khi xác định hung khí nguy hiểm chính là phương tiện mà người phạm tội
thực hiện để gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác,
nhưng phương tiện đó cụ thể mang tính chất nguy hiểm như: súng, lựu đạn,
thuốc nổ, dao các loại, các loại lê, ... Hung khí nguy hiểm là bản thân nó chứa
đựng khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe, nó hoàn toàn không
phụ thuộc vào cách sử dụng của người phạm tội [1l,tr.78]. Như vậy, nội hàm
của vũ khí nguy hiểm đã bao gồm vật liệu nổ, vũ khí nên việc bổ sung này
không thật sự cần thiết.
BLHS năm 1999 quy định thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người
nhưng còn gặp nhiều khó khăn khi thực tế xác định thủ đoạn gây nguy hại cho
nhiều người bởi lẽ chứng tỏ khi hậu quả đã xảy ra và đã gây nguy hại cho
nhiều người thì lúc đó mới được coi và áp dụng tình tiết này, nhưng thực tế
không phải trường hợp nào hậu quả cũng xảy ra, do đó cho dù cách thức thực
hiện có thể xảy ra khả năng gây nguy hại cho nhiều người, nhưng với thực tại
chưa gây ra nguy hại cho nhiều người thì vẫn không thể đưa vào áp dụng tình
tiết này, bất cập ở thực tiễn khi áp dụng. Vì vậy, Điều 134 BLHS năm 2015 ở
khoản 1 tại điểm a: quy định này đã có sự sửa đổi khi bổ sung cụm từ “có khả
năng” là hoàn toàn cấp thiết “...hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho
nhiều người”. Bởi đây chính là quy định BLHS năm 2015 đã khắc phục bất
cập trên bằng cách bổ sung theo hướng chỉ cần thủ đoạn có khả năng gây
nguy hại cho nhiều người là đủ để áp dụng tình tiết này. Thực sự là rất phù
20
hợp và sự bổ sung tiến bộ.
- Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm: Căn cứ vào tính chất
và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội khi áp vào tỷ lệ thương tích của
nạn nhân thì mức hình phạt đối với hành vi này là không tương xứng. Bởi
vậy, việc bổ sung thêm tình tiết “Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy
hiểm” để xử lý hình sự hành vi này trong trường hợp thương tích của nạn
nhân dưới 11% (tại điểm b khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015). Việc pháp
điển hóa tình tiết này là rất cần thiết trong thực tiễn đấu tranh, phòng chống
tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác bằng
a-xít, hóa chất.
Trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho cha,
mẹ, ông, bà, cô giáo, thầy giáo, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình là
trường hợp được áp dụng ngay cả khi tỷ lệ thương tật dưới 11 % là do xuất
phát từ truyền thống đạo đức, tôn sư trọng đạo vốn có từ lâu đời của dân tộc
Việt Nam. Hoặc trường hợp không là người thân thích với người phạm tội,
nhưng là người nuôi dưỡng, chăm sóc người phạm tội ở trong các Trại mồ
côi...
Cùng trường hợp Phạm tội có tổ chức như trên nhưng không có sự cấu
kết chặt chẽ, mà chỉ có sự đồng tình theo tính chất hời hợt thì không phải là
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác có tổ chức.
Quy định về chuẩn bị phạm tội tại khoản 6 Điều 134 Bộ luật hình sự
năm 2015. theo đó, tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ của người khác là hành vi cố ý gây ra cho người khác bị thương tích
hoặc tổn hại đến sức khoẻ. Thực tiễn áp dụng pháp luật, hậu quả tổn thương
về sức khoẻ (được thể hiện trong kết luận giám định của cơ quan chuyên
môn) là căn cứ để xác định trách nhiệm hình sự và xác định khung hình phạt
đối với người phạm tội. Nạn nhân phải bị thương tích hoặc bị tổn hại đến sức
khoẻ ở mức đáng kể thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự còn nếu thương
21
tích hoặc tổn hại về sức khoẻ không đáng kể hoặc không gây ra tổn hại về sức
khoẻ thì chưa phải là tội phạm và không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 thì người nào cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các
trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k thì người đó mới bị truy cứu trách
nhiệm hình sự; còn nếu một đối tượng cố ý gây thương tích cho người khác
làm giảm dưới 10% sức khoẻ nhưng không thuộc quy định tại các điểm từ a
đến k khoản 1 Điều này thì hành vi của người đó không cấu thành tội phạm,
không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Việc đưa ra các hình thức xử lý thích đáng theo pháp luật đối với kẻ
giết thuê là thực sự cần thiết nhằm ngăn chặn tình trạng “đâm thuê chém
mướn”, đối với tình hình hiện nay trong nền kinh tế thị trường với từng nơi
hoặc từng địa điểm khác đã thấy xuất hiện tụ tập những nhóm người, những
cá nhân bậm trợn chuyên hoạt động chém mướn đâm thuê, do vậy phải trừng
trị thật nghiêm khắc là rất cần thiết đối với những đối tượng này.
Đối với người đang thi hành công vụ: là trường hợp người bị gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác là người đang thi hành
công vụ, tức là người bị gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người
khác đang thực hiện một nhiệm vụ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
giao phó.
Tuy họ không được giao nhiệm vụ nhưng họ tự nguyện tham gia vào
những việc nhằm giữ gìn ANCT và TTATXH qua một số trường hợp nhất
định thì được coi là đang thi hành công vụ đối với những người như: đuổi
theo để bắt người phạm tội bỏ trốn, bắt giữ người phạm tội quả tang; can
thiệp ngăn cản, tìm cách hoà giải một số vụ gây gổ đánh nhau tại nơi công
cộng v.v...
22
Lúc họ đang làm nhiệm vụ gây thương tích cho nạn nhân hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe người khác thì lúc đó người phạm tội mới được xem là
phạm tội trong trường hợp “đang thi hành công vụ”, do vậy tuỳ từng trường
hợp có thể là cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác
bình thường hoặc trong trường hợp khác.
Hành vi của người thi hành nhiệm vụ đúng pháp luật phải là nạn nhân
bị cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe, còn trường hợp người
thi hành nhiệm vụ trái với pháp luật mà bị cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe thì lúc này người có hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe sẽ không được xem là “cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe người đang thi hành công vụ”.
1.2.2. Khung tăng nặng thứ nhất có mức khung hình phạt tù từ 02
năm đến 06 năm
Bị áp dụng mức khung hình phạt tù từ 02 năm đến 06 năm khi người
phạm tội thuộc một trong những trường hợp như sau:
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%: Nội dung điều luật cho thấy nhà làm
luật đã lấy tỷ lệ thương tật của nạn nhân làm căn cứ để định khung hình phạt
đối với người phạm tội. Như quy định tại điểm a khoản 2 Điều 134 của
BLHS, thì người bị tổn hại đến sức khỏe hoặc bị thương tích phải có tỷ lệ
thương tật từ 31% đến 60% thì người phạm tội mới bị truy cứu TNHS với
mức khung hình phạt từ 02 năm đến 06 năm. Do đó để xác định tỉ lệ thương
tật theo Điều 4 Thông tư 20/2014/TT-BYT ngày 12 tháng 6 năm 2014 có quy
định về phương pháp xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể sau đây:
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên
mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%: Tình tiết này
trong BLHS năm 2015 được quy định là tình tiết định khung tăng nặng hình
phạt tại điểm b khoản 2 Điều 134 BLHS 2015.
23
- Phạm tội 02 lần trở lên: Theo BLHS năm 1999 quy định: “Phạm tội
nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người”. Tuy vậy, trong
pháp luật Hình sự Việt Nam, nhà làm luật lại chưa đưa ra chính thức khái
niệm như thế nào là “Phạm tội nhiều lần”. Ở đây “Phạm tội nhiều lần” chỉ
có đề cập thông qua một số văn bản hướng dẫn từ phía các cơ quan tư pháp
trung ương, giáo trình luật hình sự, vấn đề này được giải thích như sau:
Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày
02/01/1998 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLHS thì: “... tình tiết Phạm tội nhiều lần” được quy định tại
khoản 2 của Điều 133 và khoản 2 của Điều 134, người phạm tội phải chịu
TNHS về tổng giá trị tài sản của các lần phạm tội cộng lại, căn cứ vào điều
luật có quy định về “giá trị tài sản hoặc thiệt hại về tài sản”.
Theo giáo trình Luật hình Sự, đại học Luật Hà Nội: “Phạm tội nhiều lần
là trường hợp thực hiện tội phạm mà trước đó người phạm tội đã phạm tội này
ít nhất là một lần và chưa bị xét xử, hành vi phạm tội trong trường hợp này là
sự lặp lại tội đã phạm trước đó nên có mức độ nguy hiểm cao hơn trường hợp
bình thường”
BLHS 2015 không còn sử dụng tình tiết “phạm tội nhiều lần đối với
cùng một người hoặc đối với nhiều người” mà cụ thể hóa rõ ràng rằng tình tiết
“Phạm tội 02 lần trở lên”. Phạm tội 02 lần trở lên, tức là người phạm tội đó đã
thực hiện từ hai hành vi phạm tội trở lên, cùng tác động đến một đối tượng,
xâm phạm trực tiếp đến cùng một khách thể, mà từng hành vi này đã có đủ
những yếu tố cấu thành độc lập một tội phạm (đều là hành vi cố ý gây thương
tích).
Theo quy định điều luật đã xác định hai trường hợp được coi là tái
phạm nguy hiểm. Tuy vậy qua nghiên cứu học viên đã nhận ra rằng khi áp
dụng tình tiết tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung tăng nặng chỉ khi
thuộc trường hợp là đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành
24
vi phạm tội do cố ý khi không thể thuộc trường hợp là đã bị kết án về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được
xóa án tích lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý (theo điểm d khoản 2 điều 134
BLHS năm 2015), do đó nếu phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng do cố ý (khoản 3, 4, 5 điều 134 BLHS năm 2015) thì
lúc đó áp dụng luôn tại khoản 3, 4, 5 Điều 134 BLHS năm 2015 chứ không
thể chuyển trở lại áp dụng theo quy định khoản 2 Điều 134 BLHS 2015 được.
Trường hợp người phạm tội chỉ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11 % đến 30% nhưng
lại nằm trong những trường hợp như đã phân tích ở trên.
1.2.3. Khung tăng nặng thứ hai có mức khung hình phạt tù từ 05
năm đến 10 năm
Người phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nhưng không thuộc
trường hợp làm chết người; Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên trường hợp quy định tại
các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 của BLHS 2015.
1.2.4. Khung tăng nặng thứ ba có mức khung hình phạt tù từ 07 năm
đến 14 năm
- Làm chết người;
- Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể 61% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên
mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
1.2.5. Khung tăng nặng thứ tư có mức khung hình phạt tù từ 12 năm
đến 20 năm hoặc tù chung thân
Được áp dụng khi phạm tội sau đây:
25
- Làm chết 02 người trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên
(có tỷ lệ tốn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên nhưng thuộc một trong
các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134
BLHS 2015).
1.3. Phân biệt tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác với một số tội phạm khác được quy định trong
Bộ luật Hình sự
1.3.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe
của người khác trong trường hợp dẫn đến chết người với tội giết người
trong trường hợp đã hoàn thành.
Trong thực tiễn vấn đề nhầm lẫn giữa những trường hợp phạm tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn lại cho sức khỏe của người khác dẫn đến sự việc
chết người.
Vấn đề là ranh giới giữa hai loại tội phạm này không phải lúc nào cũng
dễ xác minh một cách rõ ràng, do vậy về mặt lý luận cần định tội đúng sẽ là
tiền đề cho việc phân loại TNHS và cá thể hóa hình phạt rất chính xác có căn
cứ về điều pháp luật
Cần xét đến những đặc trưng dấu hiệu của tội giết người và tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác để dẫn đến tình trạng
chết người. Theo đó, cả hai mặt lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật có thể
lấy ra cơ bản sự khác nhau và giống nhau giữa hai tội này.
* Về khác nhau: Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức
khỏe của người khác dẫn đến chết người và hành vi giết người được phân biệt
xâm phạm khách thể trực tiếp bằng cách phân biệt cường độ, phương tiện
công cụ mà người phạm tội sử dụng, vị trí tấn công người bị hại, đặc biệt là
mục đích của người phạm tội cố ý gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác dẫn đến chết người bởi mục đích là gây thiệt hại về sức khỏe
26
của người khác đến chết người bởi mục đích là gây thiệt hại về sức khỏe cho
người khác, nếu phương tiện, công cụ, cường độ tấn công, vị trí trên thân thể
người bị tấn công gây thương tích gây tổn hại sức khỏe về nguyên tắc không
thể hiện ý chí của người phạm tội là cố ý đoạt tính mạng người khác. Chết
người là hậu quả xảy ra kết quả không mong muốn của người phạm tội hoặc
nằm ngoài ý muốn. Do vậy, nếu khoa học luật hình sự coi lẫn trong trường
hợp cố ý gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe cho người khác dẫn đến chết
người (điểm a khoản 4 Điều 134 BLHS 2015) dẫn đến chết 2 người trở lên
(điểm a khoản 5 Điều 134) là trường hợp hỗn hợp lỗi, theo đó đối với hành vi
là lỗi cố ý và đối với hậu quả chết người hay chết nhiều người là lỗi vô ý. Với
tội giết người, chủ quan trong ý chí phạm tội là hướng vào tước đoạt tính
mạng của người khác một cách trái pháp luật và mục đích là thực hiện theo
chiều hướng đó và sẽ gây ra cái chết cho người khác.
* Về mục đích phạm tội:
- Mục đích của người phạm tội giết người là muốn tước đoạt mạng
sống, xâm phạm trực tiếp và chính diện đến tính mạng, sức khỏe của người
khác. Mong muốn khi thực hiện hành vi phạm tội của tội phạm là làm người
khác chết.
- Mục đích của người phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người
là gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng
không muốn tước đoạt mạng sống của người khác. Để thực hiện hành vi này,
người phạm tội dùng các loại vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc
thủ đoạn có khả năng gây nguy hại, a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy
hiểm… và đôi khi đã xảy ra hậu quả ngoài ý muốn là tước đoạt mạng sống
của nạn nhân.
Tội cố ý gây thương tích
* Về lỗi của người thực hiện hành vi phạm tội:
27
- Với tội giết người, người phạm tội mang lỗi cố ý với cả hành vi và
hậu quả chết người. Họ ý thức được hành vi của mình sẽ dẫn đến hậu quả là
làm người khác chết nhưng vẫn cố ý thực hiện và mong muốn hậu quả chết
người xảy ra.
- Với tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, người phạm tội chỉ
mang lỗi cố ý với hành vi còn vô ý với hậu quả chết người. Tội phạm chỉ ý
thức đến mức độ gây thương tích, còn hậu quả gây chết người là nằm ngoài
dự tính và họ không hề mong muốn hậu quả này xảy ra.
1.3.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe
người khác với tội giết người trong 2 trường hợp chưa đạt
* Khi phân biệt điểm khác nhau của cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại sức khỏe của người khác với tội giết người trong trường hợp chưa đạt có
thể căn cứ vào mặt chủ quan và khách quan của tội phạm về yếu tố lỗi của
người phạm tội. Đầu tiên về mặt chủ quan của tội giết người trong trường hợp
chưa đạt mong muốn tước đi mạng sống của người khác và hậu quả chết
người xảy ra nhưng hậu quả đó xảy ra ngoài ý muốn của họ, còn đối với tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác thì ý định chỉ
muốn gây thương tích cho người khác, không mong muốn và cũng không
nghĩ đến hậu quả chết người.
Tuy nhiên ở mức độ tấn công, hung khí khi sử dụng, địa điểm, vị trí tấn
công vào cơ thể của nạn nhân trong những trường hợp có thể được lựa chọn
để đạt đến mục đích phạm tội cuối cùng của mình là giết người hay chỉ gây ra
những trường hợp thương tích. Với hành vi tấn công có tính chất quyết liệt,
sử dụng hung khí nguy hiểm để tấn công vào những vùng trọng yếu trên cơ
thể của nạn nhân với quyết tâm phạm tội đến cùng nhưng hậu quả chưa xảy ra
chết người là do nguyên nhân khách quan ngoài mong muốn của người phạm
tội thì trường hợp này định tội là thỏa đáng. Xét yếu tố lỗi của người phạm tội
giết người chưa đạt thì có thể là lỗi cố ý trực tiếp gây ra cái chết trực tiếp cho
28
nạn nhân đó, còn trường hợp không chết là không nằm trong dự tính của
người phạm tội. Các trường hợp thực hiện hành vi với lỗi cố ý gián tiếp,
người phạm tội mặc dù không mong muốn nhưng chấp nhận hậu quả chết
người xảy ra và lúc đó hậu quả đã không xảy ra thì không thể buộc tội người
phạm tội phải chịu trách nhiệm về hậu quả chết người, đây cũng chính là điều
mà người trong trường hợp này không mong muốn và thực tế cũng không xảy
ra. Do đó để định đúng tội danh chúng ta cần phải phân biệt hai tội này trên
cơ sở cơ bản như sau:
- Nếu lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp thì định tội giết người
chưa đạt, đây là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ được hành vi của
mình có thể làm nạn nhân chết mà vẫn thực hiện vì muốn nạn nhân chết. Bởi
vì nguyên nhân khách quan nên nạn nhân không chết là sự việc ngoài ý muốn
của người phạm tội.
- Nếu lỗi người phạm tội không phải là lỗi cố ý trực tiếp gây ra cái chết
cho nạn nhân thì định tội cố ý gây thương tích.
1.3.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác quy định tại điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 về
tội chống người thi hành công vụ tại điều 330 Bộ luật Hình sự năm 2015
sửa đổi năm 2017.
Hai tội này đều là xâm phạm đến sức khỏe của người khác, hiện nay
vẫn có sự nhầm lẫn giữa định tội danh hai tội này. Những khác biệt như sau:
* Về khách thể tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của
người khác. Còn khách thể của tội chống người thi hành công vụ là xâm phạm
đến hoạt động quản lý hành chính nói riêng và hoạt động quản lý xã hội
chung của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức được thực hiện thông qua hoạt
động của các nhân viên thuộc các tổ chức, cơ quan đó. Đối tượng tác động
29
của tội phạm này là người đang thi hành công vụ, việc xâm phạm đến người
thi hành công vụ cũng là xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ công.
* Mặt khách quan của tội phạm: chống người thi hành công vụ, nói
chung là gần giống với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác.
+ Hành vi dùng vũ lực là hành vi (hành động) dùng sức mạnh vật chất
tấn công, hành hung cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ của
họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật như dùng: tay đấm, chân
đá, cây đánh, đất, đá ném,... nhằm làm cho người thi hành công vụ bị đau đớn
để không thực hiện được nhiệm vụ của mình. Hành vi dùng vũ lực này không
gây ra hậu quả cho người bị hại thì mới thỏa mãn cấu thành tội chống người
thi hành công vụ. Nếu gây ra hậu quả về thương tích hoặc gây chết người thì
người phạm tội phải bị xử lý về một tội phạm tương ứng là tội cố ý gây
thương tích hoặc tội giết người.
+ Hành vi đe dọa dùng vũ lực, đó là hành vi uy hiếp tinh thần người thi
hành công vụ làm cho họ sợ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nhiệm vụ được giao, nhằm cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ
của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật.
+ Hành vi dùng thủ đoạn khác (như lăng mạ, bôi nhọ hoặc vu khống...)
nhằm cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ của họ hoặc ép buộc
họ thực hiện hành vi trái pháp luật.
Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, chỉ cần
người phạm tội thực hiện một trong các hành vi khách quan nêu trên là tội
phạm đã hoàn thành.
* Về chủ thế của tội phạm: Chủ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã được phân tích ở mục 1.1.2.3.
Đối với Tội chống người thi hành công vụ, người phạm tội phải đủ 16 tuổi trở
lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
30
* Mặt chủ quan của tội phạm.
Hai tội phạm này đểu được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.
Sau khi phân tích ta thấy rõ ràng khác biệt của hai tội này chủ yếu tập
trung vào khách thể bị xâm phạm đến đối tượng tác động, hành vi phạm tội có
gây ra hay không gây ra hậu quả. Thông qua việc xác định các dấu hiệu nêu ở
trên có thể định tội danh đúng tội.
Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong khi thi hành công vụ
Theo quy định tại Điều 137 BLHS 2015, là hành vi khi thực hiện công
vụ mà sử dụng vũ lực ngoài những trường hợp được cho phép gây hậu quả
thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác.
Dấu hiệu của tội phạm được thể hiện như:
Nạn nhân của hành vi này là những người vi phạm pháp luật và bị
người thi hành công bắt giữ. Cũng có trường hợp người bị hại không phải là
người có hành vi phạm pháp nhưng bị xâm hại vì lỗi của người thi hành công
vụ.
Hành vi khách quan của tội phạm là sử dụng vũ lực ngoài những
trường hợp được cho phép theo quy định như sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ
gây hậu quả thương tật từ 31% trở lên cho nạn nhân.
* Các tội về cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác
Khác nhau quan trọng nhất giữa các tội danh trên là mục đích của người thực
hiện hành vi, nó có ý nghĩa quan trọng để xác định người phạm tội thuộc vào
loại tội danh nào và khung hình phạt ra sao. Tuy nhiên giới hạn giữa các tội
danh này rất mong manh, dẫn đến có nhiều vụ án xác định sai tội danh là làm
tổn hại nghiêm trọng đến các quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội.
Có thể khẳng định BLHS, Bộ luật TTHS lần này đã sửa đổi, bổ sung
một cách toàn diện về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe
người khác trong hình sự, giúp cho việc thực thi pháp luật được chính xác hơn
trong việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người.
31
Tiểu kết Chương 1
Trong chương 1, luận văn đã tập trung làm sáng tỏ những vấn đề cơ
bản về khái niệm, dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác, đường lối xử lý và làm rõ nhằm phân biệt
giữa tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trường hợp dẫn đến chết người với tội giết người trong trường hợp đã hoàn
thành. Phân biệt tội này với tội giết người trong trường hợp phạm tội chưa
đạt. Phân biệt tội này và tội chống người thi hành công vụ.
Đây là những lý luận quan trọng đế tác giả vận dụng làm rõ thực tiễn áp
dụng pháp luật về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
người khác trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
32
Chương 2
ÁP DỤNG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
HOẶC GÂY TỔN HẠI SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TẠI
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
2.1. Định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ của người khác
2.1.1. Cơ sở lý luận của định tội danh đối với tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác:
Định tội danh là hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền thực hiện một trong những
biện pháp và cách thức để đưa các quy phạm pháp luật hình sự và quá trình
điều tra, truy tố, xét xử. Định tội danh đúng người, đúng tội, đúng pháp luật
trong thực tiễn có một số hoạt động có những điểm giống với hoạt động định
tội danh ví dụ như: hoạt động nghiên cứu pháp luật, hoạt động giảng dạy học
sinh sinh viên ngành luật, hoạt động thực tập của học sinh sinh viên ngành
luật, hoạt động của luật sư khi tham gia tố tụng, bào chữa viên, các bài báo,
bài viết về các vụ án hình sự… tất cả hoạt động trên chỉ nhằm mục đích khác
nhau như học tập, giảng dạy, nghiên cứu , trao đổi thông tin. Nêu quan điểm
tranh luận về lĩnh vực tội phạm, các vấn đề định tội danh.. những hoạt động
trên không có thẩm quyền về mặt tố tụng để kết luận và truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội theo trình tự, thủ tục luật định. Đồng thời các
hoạt động trên cũng không phải do cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng có thẩm quyền. Mục đích của hoạt động định tội danh trong tố tụng
hình sự là nhằm giải quyết vụ án hình sự một cách đúng đắn, đúng tội, đúng
pháp luật, không để xảy ra oan sai người vô tội và phải buộc người phạm tội
phải chịu hình phạt tương xứng với tính chất hành vi mà người phạm tội đã
gây ra. Đã có nhiều khái niệm định tội danh của nhiều tác giả qua nhiều thời
33
kỳ ở nước ta nhưng theo quan điểm riêng của tác giả, khái niệm định tội danh
phải đầy đủ, cụ thể với các nội dung sau đây:
Định tội danh là hoạt động tiến hành đối chiếu sự phù hợp giữa các dấu
hiệu cấu thành tội phạm thực tế đã xảy ra với các dấu hiệu về mặt pháp lý của
cấu thành tội phạm được mô tả, quy định trong quy phạm pháp luật hình sự,
để xác định có hay không có tội phạm xảy ra? Nếu có thì ai là người phạm
tội? phạm tội gì? Người bị nghi có phải là người phạm tội không? Bằng việc
đưa ra kết luận bằng văn bản, áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự của các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền. Từ khái niệm định
tội danh trên có thể nhận thấy định tội danh có những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Định tội danh được tiến hành bởi các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền. Đó là một loại hoạt động trong
tố tụng hình hình sự. Trên cơ sở pháp luật hoạt động định tội danh được quy
định trong Luật tố tụng hình sự gắn liền với việc áp dụng pháp luật về tố tụng
hình sự quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến
hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có thẩm quyền, tiến hành để giải
quyết vụ án.
Thứ hai: trên cơ sở áp dụng pháp luật tố tụng hình sự và Luật hình sự,
tiến hành hoạt động định tội danh. Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến
hành tố tụng có thẩm quyền trong hoạt động định tội danh ở bất cứ giai đoạn
nào đều phải áp dụng cả luật tố tụng hình sự và luật hình sự.
Thứ ba: trong quá trình thực hiện định tội danh phải thực hiện bằng
việc ra kết luận bằng văn bản tố tụng. Tóm lại hoạt động định tội danh hướng
về mục đích cuối cùng là giải quyết vụ án hình sự, tức là phải kết luận có tội
phạm xảy ra hay không? Nếu có thì tội phạm gì ? Ai là người phạm tội ? Họ
đã phạm tội gì? để ra một hình phạt tương xứng với hành vi mà họ gây ra.
Các văn bản kết luận đó phải phù hợp với từng giai đoạn tố tụng được quy
định trong bộ luật tố tụng hình sự.
34
Thứ tư: hoạt động đối chiếu sự phù hợp giữa cấu thành tội phạm thực tế
xảy ra và dấu hiệu cấu thành tội phạm pháp lý được mô tả trong quy định
của bộ luật hình sự là hoạt động định tội danh. Chỉ khi đối chiếu sự phù hợp
giữa cấu thành tội phạm thực tế và cấu thành tội phạm được quy định trong
Bộ luật hình sự thì mới đưa ra kết luận được chính xác tội phạm xảy ra là gì?
Người phạm tội và người bị nghi phạm tội đã phạm tội gì? để họ phải chịu
trách nhiệm hình sự tương xứng về tội danh mình gây ra.
Từ cơ sở lý luận trên có thể đưa ra khái niệm cụ thể như sau: Định tội
danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
là hoạt động của các cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án bằng việc thu thập
tài liệu chứng cứ theo luật định với các dấu hiệu cấu thành tội phạm tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác. Trên thực tế
đã xảy ra đối chiếu với các dấu hiệu cấu thành tội phạm về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trên cơ sở pháp lý
được mô tả trong quy định của Bộ luật hình sự ra kết luận bằng văn bản của
các cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án, người có thẩm quyền trong các cơ
quan đó.
2.1.2. Thực tiễn định tội danh cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
2.1.2.1. Tình hình tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức
khỏe của người khác tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến
năm 2019
Trong thời gian từ năm 2015 đến 2019, tình hình tội phạm trên địa bàn
thành phố Biên Hòa diễn ra khá phức tạp. Theo báo cáo tổng kết công tác
năm của Công an TP, của các cơ quan bảo vệ pháp luật khác cho thấy: số vụ
phạm tội có xu hướng ngày càng tăng về số vụ và số đối tượng, tội phạm ngày
càng trẻ hóa, thủ đoạn tội phạm ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Đối với Tội
phạm cố ý gây thương tích cũng có xu hướng tăng, giảm không theo quy luật,
35
nhưng nhìn chung ngày càng tăng về số vụ và số đối tượng, sử dụng hung khí
nguy hiểm gia tăng, phương thức thủ đoạn ngày càng có sự cố kết hơn. Cụ thể
thể hiện dưới bảng thống kê tại bảng Phụ lục 2.1.
Qua số liệu thống kê tại bảng Phụ lục 2.1: Tội phạm cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố
Biên Hòa là loại tội phạm được xét xử sơ thẩm chiếm tỷ lệ cao trong các loại
tội phạm được xét xử, bình quân chiếm 20,5%/năm. Số bị cáo bị xét xử về tội
này cũng chiếm tỷ lệ cao trong nhóm các bị cáo bị xét xử về số bị cáo bị đưa
ra xét xử, bình quân chiếm 17,6%/năm. Nếu xét về số vụ cũng như số người
phạm tội thì tội phạm này chiếm tỷ lệ cao nhất trong các tội đưa ra xét xử.
- Xét xử phúc thẩm: Qua thống kê tại bảng Phụ lục 2.2 cho thấy, số vụ
án cố ý gây thương tích được xét xử phúc thẩm cũng chiếm tỷ lệ cao trong
nhóm các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của
con người, bình quân chiếm 14%/năm. Nguyên nhân của tình trạng này sẽ
được tác giả làm rõ trong phần thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
- Hình phạt: Xét xử sơ thẩm: Qua thống kê tại bảng 2.3 cho thấy: Hình
phạt được áp dụng chủ yếu là hình phạt tù có thời hạn chiếm tỷ lệ 73,92%,
phạt tù nhưng cho hưởng án treo chiếm tỷ lệ 13,62%, cải tạo không giam giữ
chiếm 12,46%.. Xét xử phúc thẩm: Qua thống kê tại bảng 2.4 cho thấy: Hình
phạt được áp dụng chủ yếu là hình phạt tù có thời hạn chiếm tỷ lệ 76,32%,
phạt tù nhưng cho hưởng án treo chiếm tỷ lệ 23,68%.
36
Bảng 2.1: Số liệu xét xử sơ thẩm về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác tại thành phố Biên Hòa
Năm Tổng số
vụ án
(Số vụ)
Tổng số
bị cáo
(Bị cáo)
Số vụ án Cố ý gây
thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức
khỏe của người
khác
Số lượng bị cáo
phạm tội Cố ý gây
thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức
khỏe của người
khác
2015 423 798 87 20,57 141 17,67
2016 431 852 101 23,43 131 15,38
2017 464 858 102 21,98 151 17,60
2018 453 857 99 21,68 198 22,08
2019 447 851 95 21,25 167 19,51
Tổng 2,218 4,216 484 21,80 779 18,47
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của TAND TP. Biên Hòa từ năm
2015 – 2019)
Bảng 2.2: Tổng số vụ án bị xét xử phúc thẩm và số vụ án bị xét xử phúc
thẩm về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác.
Năm Tổng số vụ án Số vụ án Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác
2015 132 31
2016 128 30
2017 135 36
2018 162 52
2019 157 42
Tổng 714 191
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của TAND TP. Biên Hòa từ năm
2015 – 2019)
37
Bảng 2.3: Hình phạt do Tòa án Cấp sơ thẩm áp dụng
Năm
Tổng
số bị
cáo
Hình phạt
Dưới
3 năm
Từ 3
đến
dưới 7
năm
Từ 7
đến
dưới 8
năm
Từ 8
đến
15
năm
Án
treo
Cải
tạo
không
giam
giữ
Hình
phạt
khác
2015 189 30 104 4 3 28 20 0
2016 173 24 91 3 0 26 29 0
2017 142 19 82 4 3 18 16 0
2018 132 21 77 2 1 17 14 0
2019 151 26 81 2 3 19 20 0
Tổng 787 120 435 15 10 108 99 0
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của TAND TP. Biên Hòa từ năm
2015 – 2019)
Bảng 2.4: Hình phạt do Tòa án Cấp phúc thẩm áp dụng
Năm
Tổng
số bị
cáo
Hình phạt
Dưới
3 năm
Từ 3
đến
dưới 7
năm
Từ 7
đến
dưới 8
năm
Từ 8
đến
15
năm
Án
treo
Cải
tạo
không
giam
giữ
Hình
phạt
khác
2015 31 12 9 1 2 7 0 0
2016 35 10 15 2 0 8 0 0
2017 30 9 14 1 0 6 0 0
2018 62 14 23 5 3 17 0 0
2019 42 12 16 2 3 9 0 0
Tổng 200 57 77 11 8 47 0 0
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của TAND TP. Biên Hòa từ năm
2015 – 2019)
38
2.1.2.2. Định tội danh cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác theo cấu thành tội phạm cơ bản
Để định tội cho một hành vi cụ thể, người áp dụng luật hình sự phải căn
cứ vào cấu hình tội phạm được rút ra từ những quy định của BLHS. Nếu tình
tiết của một nhóm hành vi tội phạm phù hợp với các dấu hiệu của cấu thành
tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS, thì hành vi đó được xác định theo
tội danh của cấu thành tội phạm đó. Qua nghiên cứu các bản án được xét xử
sơ thẩm, phúc thẩm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về các tình tiết định tội
danh đối với tội này cho thấy:
+ Việc xác định mặt khách thể của tội phạm: Các bản án đã tuyên đều
xác định rõ khách thể mà các bị cáo đã xâm hại khi thực hiện hành vi phạm
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Không có bản án nào được xét xử sơ thẩm, phúc thẩm về tội trên xác định sai
khách thể.
+ Việc xác định mặt khách quan của tội phạm: Nghiên cứu các bản án
đã được xét xử về tội này cho thấy việc xác định mặt khách quan của tội
phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là
chính xác và đã áp dụng đúng các quy định của pháp luật.
* Về hậu quả xảy ra: Đối với tội phạm này, việc xác định hậu quả xảy
ra mà cụ thể là tỷ lệ thương tích gây ra cho người bị hại là một vấn đề rất
quan trọng trong việc áp dụng TNHS đối với người phạm tội. Hậu quả xảy ra
ở 2 dạng:
- Gây thương tích cho người khác.
- Gây tổn hại cho sức khỏe người khác.
* Về việc xác định hậu quả: Theo quy định tại Điều 104 thì hành vi Cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phải gây ra
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phải có tỷ lệ
39
thương tật từ 11% trở lên mới cấu thành tội phạm, nếu dưới 11% phải thuộc
các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k Điều 104 BLHS. Qua nghiên
cứu các bản án cho thấy, trong các bản án đều xác định rõ tỷ lệ thương tích
hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác là bao nhiêu % sức khỏe, việc xác
định tỷ lệ thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác đều căn cứ
vào các kết luận giám định của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật.
+ Việc xác định mặt chủ quan: Tội phạm này thực hiện với lỗi cố ý. Lỗi
cố ý bao gồm: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Qua nghiên cứu các bản án đã
được xét xử, đều xác định người phạm tội đã thực hiện hành vi cố ý hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác với lỗi cố ý. Do đó việc xác định lỗi của
bị cáo trong các vụ án trong các vụ án cố ý hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác là đúng pháp luật. Qua khảo sát thì không có trường hợp nào áp
dụng đối với lỗi vô ý.
+ Việc xác định chủ thể:
Chủ thể của tội cố ý gây thương tích là những người không mắc ác căn
bệnh về tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình và là người đủ 16 tuổi trở lên, riêng người
14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ chịu TNHS nếu phạm tội được quy
định tại khoản 3, khoản 4 Điều 104 của BLHS.
Việc xác định độ tuổi của chủ thể của này được Tòa án căn cứ vào các
loại giấy tờ được các cơ quan Nhà nước cấp như Giấy khai sinh, học bạ, lời
khai của Cha mẹ bị cáo và kết quả giám định tuổi...
Qua nghiên cứu thì các bản án của Tòa án đã tuyên đều áp dụng đúng
các quy định pháp luật về xác định chủ thể.
- Thực tiễn áp dụng pháp luật định hình về các tình tiết định tội trong
trường hợp tỷ lệ thương tật dưới 11%
+ Trường hợp người phạm tội “dùng hung khí nguy hiểm”:
40
Qua thống kê xét xử thì người phạm tội “dùng hung khí nguy hiểm” để
thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác rất phổ biến, hung khí mà các người phạm tội thường sử dụng là
các loại dao, gậy, tuýp sắt... khi áp dụng tình tiết này trong xét xử, ngoài việc
căn cứ vào các quy định của BLHS, Tòa án cũng áp dụng hướng dẫn tại Nghị
quyết 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC.
Tuy nhiên khi áp dụng tình tiết này, do luật không quy định rõ tỷ lệ
thương tật hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác tối thiểu là bao nhiêu phần
trăm thì bị truy cứu TNHS, theo đó nếu người phạm tội “dùng hung khí nguy
hiểm” để thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của
người khác 1% cũng có thể bị truy cứu TNHS. Trong thực tế thì chưa có
trường hợp nào bị xét xử rơi vào tình tiết trên, mà chỉ có một số vụ người
phạm tội “dùng hung khí nguy hiểm” để thực hiện hành vi phạm tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương
tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác từ 5% đến 10%.
Tại các bản án xét xử bị cáo phạm tội rơi vào trường hợp trên, Tòa đã
đánh giá: hành vi của các bị cáo xâm phạm đến sức khỏe của bị hại, hành vi
của các bị cáo thực hiện do cố ý, các bị cáo biết rõ dùng búa, dao, mã tấu,... là
hung khí nguy hiểm, sẽ gây thương tích cho bị hại nhưng các bị cáo vẫn thực
hiện cho thấy hành vi của các bị cáo là nguy hiểm, gây ảnh hưởng xấu đến
ANTT của Địa phương.
Trong các trường hợp này, Tòa căn cứ vào khách thể bị xâm hại, mặt
khách quan, lỗi của bị cáo, chủ thể tỷ lệ thương tích được xác định dưới 11%
công cụ mà các bị cáo sử dụng là búa, dao, gậy, mã tấu,... để áp dụng tình tiết
“dùng hung khí nguy hiểm” theo điểm a khoản 1 Điều 104 của BLHS là đúng
quy định của pháp luật.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam

Más contenido relacionado

La actualidad más candente

La actualidad más candente (20)

Tội cố ý gây gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Nam Định
Tội cố ý gây gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Nam ĐịnhTội cố ý gây gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Nam Định
Tội cố ý gây gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Nam Định
 
Luận văn: Định tội danh tội cố ý gây thương tích theo pháp luật
Luận văn: Định tội danh tội cố ý gây thương tích theo pháp luậtLuận văn: Định tội danh tội cố ý gây thương tích theo pháp luật
Luận văn: Định tội danh tội cố ý gây thương tích theo pháp luật
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng NinhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
 
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOTLuận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
 
Tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
Tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnhTội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
Tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích, HAY
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích, HAYLuận văn: Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích, HAY
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích, HAY
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến người khác
Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến người khácTình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến người khác
Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến người khác
 
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt NamLuận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOTĐề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCMLuận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
 
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sựLuận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tộiLuận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
 
Luận văn: Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 

Similar a Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam

Similar a Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam (20)

Luận văn: Hình phạt đối với tội phạm xâm phạm sức khỏe của con người
Luận văn: Hình phạt đối với tội phạm xâm phạm sức khỏe của con ngườiLuận văn: Hình phạt đối với tội phạm xâm phạm sức khỏe của con người
Luận văn: Hình phạt đối với tội phạm xâm phạm sức khỏe của con người
 
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đLuận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
 
Luận văn: Tội “Làm nhục người khác” theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội “Làm nhục người khác” theo Luật hình sự, HAYLuận văn: Tội “Làm nhục người khác” theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội “Làm nhục người khác” theo Luật hình sự, HAY
 
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAMTỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
 
TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 
TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 
TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 
 
Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích tại Quận 7, HAY
Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích tại Quận 7, HAYNhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích tại Quận 7, HAY
Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích tại Quận 7, HAY
 
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
 
Tội cố ý gây thương tích tổn hại cho sức khỏe của người khác, 9đ
Tội cố ý gây thương tích tổn hại cho sức khỏe của người khác, 9đTội cố ý gây thương tích tổn hại cho sức khỏe của người khác, 9đ
Tội cố ý gây thương tích tổn hại cho sức khỏe của người khác, 9đ
 
Đề tài: Tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, HOTĐề tài: Tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, HOT
 
Định tội danh Tội cố ý gây thương tích cho sức khỏe của người khác
Định tội danh Tội cố ý gây thương tích cho sức khỏe của người khácĐịnh tội danh Tội cố ý gây thương tích cho sức khỏe của người khác
Định tội danh Tội cố ý gây thương tích cho sức khỏe của người khác
 
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long An
Luận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long AnLuận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long An
Luận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long An
 
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAYLuận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
 
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAYLuận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
 
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạmLuận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm
 
luanvancactoihiepdamtheoquydinhcualuathinhsu-190517085817.doc
luanvancactoihiepdamtheoquydinhcualuathinhsu-190517085817.docluanvancactoihiepdamtheoquydinhcualuathinhsu-190517085817.doc
luanvancactoihiepdamtheoquydinhcualuathinhsu-190517085817.doc
 
Tình hình tội cố ý gây thương tích tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tình hình tội cố ý gây thương tích tổn hại cho sức khỏe của người khácTình hình tội cố ý gây thương tích tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tình hình tội cố ý gây thương tích tổn hại cho sức khỏe của người khác
 
Tình hình tội cố ý gây thương tích cho người khác tại Quận 6, HAY
Tình hình tội cố ý gây thương tích cho người khác tại Quận 6, HAYTình hình tội cố ý gây thương tích cho người khác tại Quận 6, HAY
Tình hình tội cố ý gây thương tích cho người khác tại Quận 6, HAY
 
Luận văn: Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe củ...
Luận văn: Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe củ...Luận văn: Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe củ...
Luận văn: Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe củ...
 

Más de Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877

Más de Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877 (20)

Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win HomeBáo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
 
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa VinamilkBáo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
 
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
 
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiLuận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thốngLuận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
 
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt NamLuận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
 
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyếnLuận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
 
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ SởLuận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
 
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn MớiLuận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
 
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang TrạiLuận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
 
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báoLuận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
 
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thịLuận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
 
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọtTiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafeTiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt FastfoodTiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanhTiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
 
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn THTiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
 
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPTTiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
 

Último

xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
DungxPeach
 

Último (20)

powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp luật hình sự Việt Nam

  • 1. HÀ NỘI, 2021 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG HỒNG SƠN TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI Dịch Vụ Làm Khóa Luận, Luận Văn Luanvantrithuc.com Hotline: 0936.885.877 Tải tài liệu nhanh qua zalo LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
  • 2. HÀ NỘI, 2021 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG HỒNG SƠN TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. VÕ THỊ KIM OANH
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu được đưa vào ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Đặng Hồng Sơn
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1 Chương 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ TRONG TỘI CỐ GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC................................................................6 1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ................................................................6 1.2. Hình phạt..................................................................................................18 1.3. Phân biệt tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với một số tội phạm khác được quy định trong Bộ luật Hình sự 25 Chương 2: ÁP DỤNG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TẠI THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI.....................32 2.1. Định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác.......................................................................................................32 2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác...........................................................................46 2.3. Một số vướng mắc trong việc áp dụng Bộ luật Hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.....................52 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC ...........................................66 3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác........66 3.2. Các giải pháp cụ thể .................................................................................67 3.3. Các giải pháp khác ...................................................................................71 KẾT LUẬN....................................................................................................76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • 5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ANTT : An ninh trật tự BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng Hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng CTTP : Cấu thành tội phạm HĐTP : Hội đồng thẩm phán HĐXX : Hội đồng xét xử QĐHP : Quyết định hình phạt TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TNHS : Trách nhiệm hình sự TTTAXH : Trật tự an toàn xã hội THADS : Thi hành án dân sự VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Số liệu xét xử sơ thẩm về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại thành phố Biên Hòa.............. 36 Bảng 2.2: Tổng số vụ án bị xét xử phúc thẩm và số vụ án bị xét xử phúc thẩm về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác............................................................................................. 36 Bảng 2.3: Hình phạt do Tòa án Cấp sơ thẩm áp dụng .................................... 37 Bảng 2.4: Hình phạt do Tòa án Cấp phúc thẩm áp dụng ................................ 37 Bảng 2.5: Hình phạt do Tòa án Cấp sơ thẩm áp dụng .................................... 49
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong thời gian những năm gần đây đã và đang diễn biến hết sức phức tạp, có chiều hướng gia tăng trên phạm vi cả nước. Sự quyết tâm của Đảng và Nhà nước cùng với các cơ quan bảo vệ pháp luật đã đề ra nhiều giải pháp tích cực, kiên quyết đấu tranh phòng chống, ngăn chặn và xử lý tất cả tội phạm, trong đó có tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp 2013 thì “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Hiện nay tuy mặt bằng dân trí cao hơn, nhận thức pháp luật tốt hơn nhưng vẫn có người phạm tội do sự tác động của nhiều chiều hướng khác nhau trong đời sống tất yếu có nhiều yếu tố về mặt trái ảnh hưởng như trong hội nhập phát triển, tầm ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, đời sống khó khăn, môi trường mạng xã hội, game online ngập tràn bạo lực, thái độ xử sự không đúng, thiếu tôn trọng, tình hình tạm trú, nhập cư... Trong khi đó đã có nhiều văn bản hướng dẫn xử lý và giải quyết theo quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tuy nhiên khi đưa vào áp dụng các quy định pháp luật hình sự và vận dụng từ hướng dẫn ở các văn bản về tội phạm này, chưa thấy có sự thống nhất và vẫn còn có nhiều cách hiểu khác nhau… dễ dẫn đến bỏ lọt tội phạm, xét xử oan người vô tội… qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn đối với loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Biên Hòa nhằm tìm ra nguyên nhân, vướng mắc để rút ra kinh nghiệm và đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự tại tỉnh Đồng Nai nói riêng và của cả nước nói chung.
  • 8. 2 Thành phố Biên Hòa thuộc đô thị loại 1, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội lớn nhất của tỉnh Đồng Nai. Với dân số gần 1,2 triệu người, mật độ dân số 4100 người/km2 là thành phố trực thuộc tỉnh đông dân nhất của cả nước, gồm 29 phường và 01 xã, là địa phương có số dân tạm trú, nhập cư biến động lớn của tỉnh, số dân có đạo là rất lớn, tập trung nhiều khu công nghiệp, có nhiều tuyến đường huyết mạch của tỉnh cũng như của vùng đô thị TP Hồ Chí Minh, hiện nay tiếp giáp với thành phố Thủ Đức trực thuộc TP Hồ Chí Minh và tiếp giáp thị xã Tân Uyên, thành phố Dĩ An thuộc tỉnh Bình Dương. Do đó thành phố Biên Hòa chịu tác động và ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân cho nên tình hình phạm pháp hình sự và tệ nạn xã hội luôn diễn biến vô cùng phức tạp. Hàng năm có trung bình hơn 1200 vụ phạm pháp hình sự xảy ra trong đó hơn 100 vụ án cố ý gây thương tích. Năm 2019 đã có hơn 1200 vụ phạm pháp hình sự và 101 vụ cố ý gây thương tích, sự việc này có ảnh hưởng không tốt đến tình hình ANTT tại tỉnh Đồng Nai nói chung. Cũng theo thực tiễn yêu cầu nêu trên, tác giả phải nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn về tội phạm này đây thực tế là lý do tôi chọn đề tài làm luận văn tốt nghiệp cao học luật chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự để nghiên cứu: “Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn Thành phố Biên Hòa”. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Dưới góc độ Luật Hình sự hiện nay, theo khảo sát của tác giả có nhiều công trình nghiên cứu về tội phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (phần các Tội phạm)” của GS.TS Võ Khánh Vinh (Chủ biên), Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội 2003. “Giáo trình Hình sự Việt Nam (phần các tội phạm)” của PGS.TS Đỗ Đình Hòa (Chủ biên), Nxb Tổng cục XDLL CAND, Hà Nội, 2009; “Các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân
  • 9. 3 phẩm của con người” của tác giả PGS.TS. Trần Văn Luyện, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000; “Bình luận khoa học bộ luật hình sự Tập 1, Các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người: Bình luận chuyên sâu”. Của ThS. Đinh Văn Quế, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2002, “Bình luận khoa học Bộ Luật Hình Sự” của Cao Thị Oanh - Lê Đăng Doanh Nxb Lao động, Hà Nội tháng 6 năm 2016; “Định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác” của Vũ Văn Thắng - Luận văn thạc sỹ, Học viện khoa học xã hội năm 2017; “Giáo trình Luật hình sự - phần các tội phạm” Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2003. Ngoài ra còn rất nhiều bài viết, các văn bản hướng dẫn của Toà án nhân dân Tối cao, một số bản án của Toà án Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai... Các công trình này đã đi sâu nghiên cứu về những vấn đề lý luận cũng như làm rõ các đặc trưng pháp lý, phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác theo quy định của BLHS…, tuy nhiên chưa đi sâu, chưa đưa ra kiến nghị làm rõ những quy định về các tình tiết cụ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhằm hoàn thiện quy định của Luật cũng như chưa có nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội phạm này. Từ khảo sát của tác giả qua nghiên cứu những năm gần đây thì nghiên cứu về thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Biên Hòa hiện có rất ít công trình nghiên cứu khoa học về đề tài này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Qua nghiên cứu phân tích những vấn đề về lý luận cũng như pháp luật hình sự về tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác” qua thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt về tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác” tại Thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2015 đến 2019 do quy định pháp luật hình
  • 10. 4 sự không thật đồng nhất trong các thời kỳ. Nhận thức về lý luận cũng như thực tiễn áp dụng về tội phạm này đang có những hạn chế vướng mắc. Luận văn đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao và hoàn thiện các quy định pháp luật về tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác”. Nhiệm vụ của luận văn để đạt được mục đích trên cần phải: Nghiên cứu mặt lý luận tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác”. So sánh, đối chiếu, đánh giá Bộ luật hình sự năm 1999 với Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017 về tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác”. Phân tích, đánh giá thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt trên địa bàn Thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai. Đưa ra các giải pháp yêu cầu áp dụng đúng các quy định của pháp luật về tội đã nêu trên. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng được nghiên cứu trong đề tài này gồm các vấn đề lý luận và pháp lý hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, cũng như vấn đề định tội danh và quyết định hình phạt. * Phạm vi nghiên cứu tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2015 - 2019 theo chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu + Phương pháp chung: Chủ yếu dùng phương pháp luận trong quá trình nghiên cứu là phép duy vật biện chứng của Mác-Lênin, Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về các chính sách hình sự trong công tác điều tra, truy tố và xét xử. + Phương cụ thể: Đã kết hợp sử dụng nhiều phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, điều tra và lấy ý kiến của nhiều chuyên gia, so sánh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Về lý luận: Luận văn nghiên cứu toàn diện dưới góc độ pháp luật
  • 11. 5 hình sự, góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật Hình sự có liên quan đến tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, đồng thời góp phần hoàn thiện lý luận về định tội danh và QĐHP đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. - Về thực tiễn: Luận văn khi hoàn thiện thì tác giả mong muốn nó cũng là tài liệu tham khảo quan trọng dùng trong quá trình học tập và nghiên cứu của các cơ sở đào tạo Luật ở nước ta; sẽ góp phần tích cực trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của CQTHTT của thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; cũng là tài liệu tham khảo quan trọng trong thực tiễn hoạt động của các CQTHTT ở thành phố Biên Hòa nói riêng và các CQTHTT nói chung trong quá trình giải quyết các vụ án phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. 7. Kết cấu của luận văn Chương 1: Các vấn đề lý luận và pháp luật hình sự trong tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Chương 2: Thực tiễn áp dụng Bộ luật Hình Sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Chương 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng pháp luật đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
  • 12. 6 Chương 1 CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ TRONG TỘI CỐ GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC 1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Quy định về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại điều 134 thuộc chương XIV: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phầm, danh dự của con người của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 22 Điều 1 của Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018 – gọi chung là Bộ luật hình sự mới) có nhiều thay đổi so với Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 (sau đây gọi là Bộ luật hình sự cũ). Đây là tội phạm có tần suất diễn ra nhiều trong cuộc sống thường ngày. - Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi của một người cố ý làm cho người khác bị thương hoặc tổn hại đến sức khỏe, có thể nhận biết Cố ý gây thương tích qua một số dấu hiệu: + Thứ nhất, người phạm tội phải có hành vi tác động đến thân thể người khác làm cho người này bị thương, bị tổn hại đến sức khỏe như: đâm, chém, đấu đá, đầu độc… Hành vi này về hình thức cũng giống như hành vi của tội giết người nhưng tính chất và mức độ nguy hiểm thấp hơn nên nó chỉ làm cho nạn nhân bị tổn thương cơ thể hoặc bị tổn hại sức khỏe. + Thứ hai, hành vi của người phạm tội được thực hiện do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình nhất định hoặc có thể gây ra tổn thương cơ thể cho người khác, mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho chuyện đó xảy ra.
  • 13. 7 - Một số quan điểm khác thì cho rằng: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dưới dạng thương tích hoặc tổn thương khác” [1; Tr.9]. Từ đó, có thể thấy định nghĩa này mới chỉ nhấn mạnh đến hành vi và hậu quả (thuộc mặt khách quan của tội phạm) song vẫn chưa đề cập đến những yếu tố khác trong cấu thành tội phạm. Các định nghĩa đã nêu trên vẫn chưa có sự phù hợp bởi vì chưa đề cập đến các dấu hiệu năng lực TNHS, độ tuổi chịu TNHS, cũng như tính trái pháp luật của hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, do đó việc xây dựng định nghĩa về tội “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác” theo ý kiến riêng của tác giả sẽ hợp lý hơn khi dựa trên khái niệm tội phạm: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự (tại khoản 1 điều 8 BLHS năm 2015). Quy định về tội phạm đã nêu ở trên có thể xem là quy định có tính rất khoa học, thể hiện nhất quán quan điểm của Nhà nước Việt Nam về tội phạm. Đã tách bạch rõ ràng những hành vi không phải là tội phạm với những hành vi tội phạm về tính: có lỗi, trái pháp luật hình sự, nguy hiểm cho xã hội và phải chịu hình phạt. Theo đó, tác giả đề xuất khái niệm về tội này như sau: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác là hành vi của người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi theo luật định. Cố ý làm
  • 14. 8 trái pháp luật hình sự, tác động lên cơ thể của người khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ”. Thực chất có hai tội do hành vi và hậu quả cùng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nên các nhà làm luật đã gộp chung lại trong điều luật này. Cố ý gây thương tích có mức độ nguy hiểm thấp, làm nạn nhân bị thương chứ không muốn gây ra cái chết cho nạn nhân. Qua khái niệm này có thể biết được tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác có đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, lưu ý đây là: Tính nguy hiểm cho xã hội, được biểu hiện ở chỗ người phạm tội có hành vi cố ý tác động trái pháp luật lên thân thể của người khác, làm tổn chương một phần hay toàn bộ cơ thể của người khác dẫn đến việc người bị hại bị tổn thương cơ thể hoặc bị tổn hại đến sức khỏe ở một tỷ lệ nhất định. Tính có lỗi: Lỗi đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác căn cứ quy định của BLHS là lỗi cố ý. Dấu hiệu bắt buộc của loại tội phạm này là người phạm tội nhận thức rõ được hành vi tác động đến thân thể người khác làm cho người này bị thương, bị tổn hại đến sức khỏe, tức là nhận thức rõ hành vi của mình nhất định hoặc có thể gây ra thương tích cho người khác, mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho chuyện đó xảy ra. Tính trái pháp luật hình sự: Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thể hiện ở việc người phạm tội đã thực hiện các hành vi mà bị pháp luật ngăn cấm và bảo vệ tại Điều 134 của BLHS. Tính chịu hình phạt: Đây là dấu hiệu cơ bản của loại tội phạm này, khi có hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt theo quy định của pháp luật hình sự. Với các hình phạt được quy định trong BLHS để áp dụng đối với người thực hiện tội phạm của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là: bị phạt cải tạo không giam giữ, bị phạt tù có thời hạn, bị phạt tù chung thân.
  • 15. 9 Theo khái niệm của tội này ở trên, sẽ được hiểu như sau: Hành vi người phạm tội tác động trái pháp luật đến thân thể người khác khi đó có khả năng gây ra cho người này bị thương tích, bị tổn hại đến sức khỏe có thể nhìn thấy được về vật chất, tinh thần cho nạn nhân. Các hành vi đã nêu có thể đã được thực hiện với các phương tiện, công cụ phạm tội (chém, đâm, ném đá, bắn, đốt...) hoặc là không có phương tiện, công cụ phạm tội (mà là xô đẩy, ẩu đã xô xát, đạp, cắn, đá, đấm...) hoặc có thể thông qua súc vật (kích động súc vật trâu, bò để húc, thả chó cắn...) hay sử dụng trực tiếp cơ thể người nào đó khác (ôm cơ thể người này chém người khác, nắm chân người khác làm côn đánh...) + Gây thương tích cho người khác: Là hành vi của người phạm tội tác động lên thân thể của người khác một cách trái pháp luật, sự việc này dẫn đến hậu quả người đó sẽ bị một số tổn thương cơ thể nhất định. Những tác động lên thân thể người khác có thể bằng tay, chân hoặc các công cụ phương tiện tự chế, công cụ phương tiện hỗ trợ như: gậy gộc, dao, súng... sự việc đó có thể làm cho nạn nhân bị những thương tích theo tỷ lệ nhất định qua đó không thấy còn nguyên vẹn sự bình thường của cơ thể. + Gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác: Thể hiện qua hành vi dùng thủ đoạn tác động trực tiếp cơ thể nạn nhân làm cho một số bộ phận cơ thể nạn nhân không còn hoặc làm giảm chức năng (như uống thuốc độc, cho ăn các loại độc hại làm mất hoặc giảm chức năng nội tạng trong cơ thể của người khác hoặc cho hít chất độc hại làm suy giảm hệ hô hấp của nạn nhân…) có thể nhận thấy các bộ phận (cơ quan) của cơ thể nạn nhân không còn nguyên vẹn như trước. Hậu quả: Dấu hiệu hậu quả của tội cổ ý gây thương tích theo quy định tại điều luật này gồm một trong hai loại hậu quả: Thứ nhất: Tỷ lệ thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của nạn nhân từ 11% trở lên mà không có các tình tiết quy định từ Điểm a đến Điểm k Khoản 1
  • 16. 10 Điều 134 BLHS này. Cách tính tỷ lệ thương tích hay tổn hại sức khỏe tham khảo Thông tư 20/2014/TT-BYT ngày 12 tháng 06 năm 2014 của Bộ Y tế. Thứ hai: hậu quả tỷ lệ thương tích hoặc tổn hại sức khỏe dưới 11% nhưng có các tình tiết quy định tại các Điểm từ a đến k Khoản 1 Điều này. Các tình tiết quy định từ Điểm a đến Điểm k Khoản 1 Điều này có nhiều tình tiết giống với tình tiết quy định tại Khoản Điều 123 quy định về tội giết người, cần chú ý một số chi tiết sau: Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người: Đây là trường hợp người phạm tội sử dụng công cụ phương tiện có tính nguy hiểm cao, chưa gây ra thiệt hại đáng kể nhưng có khả năng đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của con người. Đó là vũ khí bao gồm vũ khí quân dụng, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao và vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ (theo Luật quản lý, sử dụng vũ khí vật liệu nổ quy định cụ thể từng loại vũ khí). Ngoài ra, người phạm tội có thể sử dụng hung khí nguy hiểm là các loại công cụ phạm tội gây nguy hiểm cao cho sức khỏe con người Theo Tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thì hung khí nguy hiểm bao gồm: búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn...; Về vật mà người phạm tội chế tạo ra: thanh sắt mài nhọn, côn gỗ... ; Về vật có sẵn trong tự nhiên: gạch, đá, đoạn gậy cứng, chắc, thanh sắt. Ngoài dấu hiệu hành vi và hậu quả mặt khách quan của tội này cũng đòi hỏi phải có mối quan hệ nhân quả. Hành vi của người phạm tội được thực hiện do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình nhất định hoặc có thể gây ra thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác; mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra. So với tội giết người, thì sự cố ý trong trường hợp gây thương tích mức độ nguy hiểm có thấp hơn, vì người phạm tội chỉ mong muốn hoặc để mặc cho nạn nhân bị thương, bị tổn hại đến sức khỏe chứ không mong muốn nạn nhân chết.
  • 17. 11 Chủ thể của tội này: Người từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực TNHS. Người từ đủ 14 đến chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Khoản 3, 4 và Khoản 5 điều này (loại tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng) 1.1.2. Các yếu tố cấu thành tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 1.1.2.1. Khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Trong thực tiễn cũng như các ý kiến khoa học pháp lý đều có sự thống nhất khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ nhưng đã bị hành vi phạm tội xâm phạm hoặc đe dọa gây thiệt hại ở một mức nhất định. Khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác: xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của con người. Quyền này được hiến pháp và pháp luật bảo vệ, đòi hỏi các cá nhân và các chủ thể khác trong xã hội phải tôn trọng. Đối tượng là thân thể con người đang sống; đã được khẳng định tại Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp 2013 thì “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Hành vi phạm tội này đã xâm phạm đến quyền được bảo vệ sức khỏe của con người có sự tác động làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng bị tác động. Quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017 nếu đối tượng tác động là sức khỏe của trẻ em, người tàn tật, người già, phụ nữ đang có thai, người không có khả năng tự vệ thì TNHS đối với người phạm tội sẽ nặng hơn. Cho nên khi xác định đúng đối tượng tác động của tội này là việc rất cần thiết. Chính vì vậy khi hành vi tác động vào đối tượng nếu không phải là con người, không là người còn sống thì không xâm phạm quyền
  • 18. 12 được bảo vệ sức khỏe nên không thể có phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; hay có trường hợp, một người nào đó tự gây ra thương tích cho bản thân họ vì một lý do nào khác thì không thuộc đối tượng điều chỉnh của Điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017. 1.1.2.2 Mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác: Hành vi cố ý gây thương tích có điểm giống với hành vi giết người. Người phạm tội tác động vào thân thể nạn nhân để gây thương tích hay gây tổn hại sức khỏe cho nạn nhân: đâm, chém, đấm đá, đốt cháy, đầu độc v.v... * Về hành vi. Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng có mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Ví dụ như: có những hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có tình tiết làm giảm đi một cách đáng kể mức độ nguy hiểm cho xã hội, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh,… - Đối với tội cố ý gây thương tích. Được thể hiện qua hành vi dùng vũ lực (không sử dụng hung khí hoặc có sử dụng hung khí) hoặc dùng thủ đoạn khác tác động lên cơ thể người khác gây tổn thương cho họ (gãy chân, thủng ruột,...). Nhìn chung các thương tích có thể thấy rõ. Việc dùng vũ lực có thể chỉ bằng sức mạnh cơ thể (dùng chân đá, dùng tay đấm) hoặc có thêm việc sử dụng hung khí (như dao, búa, gậy gộc...) tác động trực tiếp lên cơ thể của nạn nhân. Dùng thủ đoạn khác (gián tiếp) có thể là xô đẩy làm cho nạn nhân ngã, va vào vật cứng dẫn đến thương tích hoặc ép cho nạn nhân tự gây thương tích..
  • 19. 13 Tổn hại gồm tổn hại đối với cơ thể và tổn hại đối với thần kinh (sức khỏe tâm thần). Chủ thể của tội phạm này là người đã có lỗi trong việc cố ý thực hiện hành vi đánh người gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định. Như đã nêu ở trên Mục 1.1.1 của bài viết này, theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. * Dấu hiệu khác. Tại khoản 1 điều 134 BLHS 2015 quy định phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.Cụ thể là: - Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên: Tiểu mục 3.1 Mục 3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn: “Dùng hung khí nguy hiểm là trường hợp dùng vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm theo hướng dẫn tại các tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán TANDTC để cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”. Do vậy, hung khí nguy hiểm và phương tiện nguy hiểm (búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn); còn thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người có thể kể đến như dùng bom xăng… thì hung khí nguy hiểm bao gồm: búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn...; Về vật mà người phạm tội chế tạo ra: thanh sắt mài nhọn, côn gỗ... ; Về vật có sẵn trong tự nhiên: gạch, đá, đoạn gậy cứng, chắc, thanh sắt. - Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác: Hóa chất nguy hiểm được định nghĩa tại Khoản 5 Điều 3 Thông tư 04/2012/TT-BCT quy
  • 20. 14 định phân loại và ghi nhãn hóa chất do Bộ trưởng Bộ Công thương ban hành, bao gồm các đặc tính như dễ nổ, ăn mòn mạnh, oxy hóa mạnh… Chế tài với tội cố ý gây thương tích - Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân: Ở Khoản 1 mục I Nghị quyết 02/2003/NQ- HĐTP quy định, cố tật nhẹ là trạng thái bất thường, không thể chữa được cho một bộ phận cơ thể của nạn nhân dù tỷ lệ thương tật dưới 11% - Phạm tội 02 lần trở lên: Là phạm tội với nhiều lần, cho thấy tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội. - Phạm tội đối với 02 người trở lên: Là phạm tội với nhiều người, cho thấy tính nguy hiểm của công cụ, thủ đoạn mà đối tượng thực hiện hành vi có khả năng tác động và gây thương tích, tổn hại sức khỏe cho nhiều người. - Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ: Ở đây ta cần lưu ý với trường hợp phụ nữ có thai. Chỉ khi tội phạm biết và đủ căn cứ để biết được rằng người phụ nữ này đang mang thai mà vẫn thực hiện hành vi phạm tội thì mới thuộc trường hợp này. - Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình: Là những người có quan hệ ruột thịt hoặc nuôi dưỡng, dạy dỗ đối với người thực hiện hành vi. Quy định này đề cao giá trị đạo đức trong xã hội trước hành vi phạm tội. - Phạm tội có tổ chức: Là trường hợp có từ 02 người trở lên, bàn bạc, cấu kết để cùng thực hiện hành vi (đồng phạm). - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: Là hành vi cố ý gây thương tích của những người có chức vụ, quyền hạn nhưng không liên quan đến công vụ của người đó. - Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc: Đây là những đối
  • 21. 15 tượng bị kiểm soát và đang chấp hành án hình sự hoặc hành chính và cần có thái độ tôn trọng pháp luật một cách cao nhất. - Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe do được thuê: Người thuê và người được thuê gây thương tích cho người khác đều được coi là nghiêm trọng hơn trường hợp gây thương tích bình thường, nên người bị hại chỉ bị thương tích hoặc tổn hại đến sức khỏe dưới 11% thì người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. - Có tính chất côn đồ: Theo Công văn số 38/ NCPL ngày 06/01/1976 của Toà án nhân dân tối cao và Kết luận của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết ngành Tòa án năm 1995, khái niệm côn đồ được hiểu là hành động của những tên coi thường pháp luật, luôn luôn phá rối trật tự trị an, sẵn sàng dùng vũ lực và thích (hay) dùng vũ lực để uy hiếp người khác phải khuất phục mình, vô cớ hoặc chỉ vì một duyên cớ nhỏ nhặt là đâm chém, thậm chí giết người. Tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” trong cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” tại điểm i, khoản 1, Điều 134, Bộ luật hình sự (BLHS) quy định: Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% có tính chất côn đồ thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Về khoa học pháp lý, tính chất “côn đồ” được sử dụng là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc tình tiết định khung hoặc định khung tăng nặng - Tái phạm nguy hiểm: Theo khoản 2 điều 53 BLHS 2015 để xác định. - Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân: Trong trường hợp phạm tội này người phạm tội gây thương tích cho nạn nhân là để cản trở việc thi hành công vụ của họ hoặc vì lý do công vụ của người khác mà gây ra thương tích.
  • 22. 16 Khoản 2 dùng tỷ lệ tổn thương cơ thể, của 02 người, phạm tội 02 lần, tái phạm và các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS để xác định khung hình phạt tăng nặng. Theo đó, Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm. Khoản 3 dùng tỉ lệ tổn thương cơ thể để xác định khung hình phạt tăng nặng. Theo đó, Phạm tội thuộc một trong các trường hợp được quy định cụ thể, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. 1.1.2.3. Chủ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho người khác Bộ Luật hình sự Việt Nam đã thừa nhận rằng chủ thể của một số tội phạm về pháp nhân thương mại nhưng chưa có quy định riêng về định nghĩa chủ thể của tội phạm (chỉ xác định chủ thể tội phạm là con người cụ thể). Theo quy định tại BLHS hiểu được: “Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội một cách cố ý hoặc vô ý, có đủ năng lực TNHS và đạt độ tuổi theo luật hình sự quy định”. Chủ thể của Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là những người bình thường không mắc các bệnh làm mất khả năng nhận thức về tâm thần hoặc một bệnh khác không có khả năng điều khiển hành vi của mình là Người từ đủ 14 tuổi trở lên, có năng lực TNHS. Theo quy định của Điều 12 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng của Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng có quy định tại 134 BLHS này. Vì vậy, dấu hiệu bắt buộc về hậu quả của loại tội phạm này là để lại thương tích cho nạn nhân với tỷ lệ % tổn thương cơ thể theo quy định pháp luật. Theo quy định của BLHS về cách tính tuổi chịu TNHS ở đây thì độ
  • 23. 17 tuổi là “đủ 14 tuổi” hoặc “đủ 16 tuổi”. Thực tế không phải bao giờ cũng dễ dàng xác định được độ tuổi cũng như trong lý luận việc này thông thường căn cứ theo Giấy đăng ký khai sinh để xác định độ tuổi. Tuy vậy, không phải trong trường hợp nào cũng đều còn Giấy khai sinh hoặc giấy khai sinh không chính xác... Theo Công văn hướng dẫn để khắc phục vướng mắc này tại mục 11 phần II Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/06/2002 về cách tính tuổi chịu TNHS của người phạm tội nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng. Theo quan điểm của học viên quy định này là rất khoa học và phù hợp đảm bảo được nguyên tắc có lợi cho người phạm tội cũng như có biện pháp xử lý pháp luật thích đáng người phạm tội. 1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Trong pháp luật hình sự Việt Nam “Mặt chủ quan của tội phạm là những diễn biến tâm lý bên trong của tội phạm, phản aanh trạng thái tâm lý của chủ thể phạm tội với lỗi, động cơ và mục đích để phạm tội”. Theo đó, hành vi bắt buộc có dấu hiệu của tội phạm, hành vi nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không thể truy cứu TNHS, khoản 2 điều 8 BLHS có quy định “ Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”. Tội phạm này được thực hiện với lỗi cố ý (gián tiếp hoặc trực tiếp). Có nghĩa là người phạm tội khi thực hiện hành vi nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; hoặc Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra (Cố ý phạm tội được quy định tại Điều 10 BLHS). Trường hợp xác định chính xác mặt khách
  • 24. 18 quan đây là cơ sở quan trọng để xem xét người phạm tội phải chịu mức độ TNHS. Xét về mặt chủ quan của Tội phạm này thì dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này không phải là ở động cơ và mục đích. Tuy vậy, quy định hành vi gây ra thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác cũng có trong một số cấu thành tội phạm về mặt khách quan, nhưng dấu hiệu bắt buộc lại quy định ở dấu hiệu động cơ và mục đích phạm tội qua đó việc xác định được đúng động cơ, mục đích phạm tội sẽ định hướng đúng tội danh và phân biệt tội này với các tội (Tội cố gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác) khác như: trong khi thi hành công vụ (Điều 137 BLHS), do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136 BLHS); Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 113 BLHS). 1.2. Hình phạt Điều 134 BLHS quy định 5 khung hình phạt, bao gồm khung cơ bản và khung tăng nặng, hình phạt này được cụ thể như sau: 1.2.1. Khung cơ bản Quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm mà tỷ lệ tổn thương cơ thể nạn nhân từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp phạm tội từ điểm a đến điểm k như phân tích trên: - Theo quy định tại Khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 thì người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k thì người đó mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự; còn nếu một đối tượng cố ý gây thương tích cho người khác làm giảm dưới 10% sức khoẻ nhưng không thuộc quy định tại các điểm từ a
  • 25. 19 đến k khoản 1 Điều này thì hành vi của người đó không cấu thành tội phạm, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. - Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người: So với BLHS năm 1999 thì BLHS năm 2015 bổ sung thêm 02 tình tiết dùng vũ khí, vật liệu nổ làm tình tiết định khung. Tuy vậy, cá nhân tác giả có quan điểm rằng việc bổ sung này cũng không thật sự cần và đồng tình theo hướng tiếp cận của tác giả Đinh Văn Quế khi xác định hung khí nguy hiểm chính là phương tiện mà người phạm tội thực hiện để gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác, nhưng phương tiện đó cụ thể mang tính chất nguy hiểm như: súng, lựu đạn, thuốc nổ, dao các loại, các loại lê, ... Hung khí nguy hiểm là bản thân nó chứa đựng khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe, nó hoàn toàn không phụ thuộc vào cách sử dụng của người phạm tội [1l,tr.78]. Như vậy, nội hàm của vũ khí nguy hiểm đã bao gồm vật liệu nổ, vũ khí nên việc bổ sung này không thật sự cần thiết. BLHS năm 1999 quy định thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người nhưng còn gặp nhiều khó khăn khi thực tế xác định thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người bởi lẽ chứng tỏ khi hậu quả đã xảy ra và đã gây nguy hại cho nhiều người thì lúc đó mới được coi và áp dụng tình tiết này, nhưng thực tế không phải trường hợp nào hậu quả cũng xảy ra, do đó cho dù cách thức thực hiện có thể xảy ra khả năng gây nguy hại cho nhiều người, nhưng với thực tại chưa gây ra nguy hại cho nhiều người thì vẫn không thể đưa vào áp dụng tình tiết này, bất cập ở thực tiễn khi áp dụng. Vì vậy, Điều 134 BLHS năm 2015 ở khoản 1 tại điểm a: quy định này đã có sự sửa đổi khi bổ sung cụm từ “có khả năng” là hoàn toàn cấp thiết “...hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người”. Bởi đây chính là quy định BLHS năm 2015 đã khắc phục bất cập trên bằng cách bổ sung theo hướng chỉ cần thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người là đủ để áp dụng tình tiết này. Thực sự là rất phù
  • 26. 20 hợp và sự bổ sung tiến bộ. - Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm: Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội khi áp vào tỷ lệ thương tích của nạn nhân thì mức hình phạt đối với hành vi này là không tương xứng. Bởi vậy, việc bổ sung thêm tình tiết “Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm” để xử lý hình sự hành vi này trong trường hợp thương tích của nạn nhân dưới 11% (tại điểm b khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015). Việc pháp điển hóa tình tiết này là rất cần thiết trong thực tiễn đấu tranh, phòng chống tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác bằng a-xít, hóa chất. Trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho cha, mẹ, ông, bà, cô giáo, thầy giáo, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình là trường hợp được áp dụng ngay cả khi tỷ lệ thương tật dưới 11 % là do xuất phát từ truyền thống đạo đức, tôn sư trọng đạo vốn có từ lâu đời của dân tộc Việt Nam. Hoặc trường hợp không là người thân thích với người phạm tội, nhưng là người nuôi dưỡng, chăm sóc người phạm tội ở trong các Trại mồ côi... Cùng trường hợp Phạm tội có tổ chức như trên nhưng không có sự cấu kết chặt chẽ, mà chỉ có sự đồng tình theo tính chất hời hợt thì không phải là cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác có tổ chức. Quy định về chuẩn bị phạm tội tại khoản 6 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015. theo đó, tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác là hành vi cố ý gây ra cho người khác bị thương tích hoặc tổn hại đến sức khoẻ. Thực tiễn áp dụng pháp luật, hậu quả tổn thương về sức khoẻ (được thể hiện trong kết luận giám định của cơ quan chuyên môn) là căn cứ để xác định trách nhiệm hình sự và xác định khung hình phạt đối với người phạm tội. Nạn nhân phải bị thương tích hoặc bị tổn hại đến sức khoẻ ở mức đáng kể thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự còn nếu thương
  • 27. 21 tích hoặc tổn hại về sức khoẻ không đáng kể hoặc không gây ra tổn hại về sức khoẻ thì chưa phải là tội phạm và không phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 thì người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k thì người đó mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự; còn nếu một đối tượng cố ý gây thương tích cho người khác làm giảm dưới 10% sức khoẻ nhưng không thuộc quy định tại các điểm từ a đến k khoản 1 Điều này thì hành vi của người đó không cấu thành tội phạm, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc đưa ra các hình thức xử lý thích đáng theo pháp luật đối với kẻ giết thuê là thực sự cần thiết nhằm ngăn chặn tình trạng “đâm thuê chém mướn”, đối với tình hình hiện nay trong nền kinh tế thị trường với từng nơi hoặc từng địa điểm khác đã thấy xuất hiện tụ tập những nhóm người, những cá nhân bậm trợn chuyên hoạt động chém mướn đâm thuê, do vậy phải trừng trị thật nghiêm khắc là rất cần thiết đối với những đối tượng này. Đối với người đang thi hành công vụ: là trường hợp người bị gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác là người đang thi hành công vụ, tức là người bị gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác đang thực hiện một nhiệm vụ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao phó. Tuy họ không được giao nhiệm vụ nhưng họ tự nguyện tham gia vào những việc nhằm giữ gìn ANCT và TTATXH qua một số trường hợp nhất định thì được coi là đang thi hành công vụ đối với những người như: đuổi theo để bắt người phạm tội bỏ trốn, bắt giữ người phạm tội quả tang; can thiệp ngăn cản, tìm cách hoà giải một số vụ gây gổ đánh nhau tại nơi công cộng v.v...
  • 28. 22 Lúc họ đang làm nhiệm vụ gây thương tích cho nạn nhân hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì lúc đó người phạm tội mới được xem là phạm tội trong trường hợp “đang thi hành công vụ”, do vậy tuỳ từng trường hợp có thể là cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác bình thường hoặc trong trường hợp khác. Hành vi của người thi hành nhiệm vụ đúng pháp luật phải là nạn nhân bị cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe, còn trường hợp người thi hành nhiệm vụ trái với pháp luật mà bị cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe thì lúc này người có hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe sẽ không được xem là “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người đang thi hành công vụ”. 1.2.2. Khung tăng nặng thứ nhất có mức khung hình phạt tù từ 02 năm đến 06 năm Bị áp dụng mức khung hình phạt tù từ 02 năm đến 06 năm khi người phạm tội thuộc một trong những trường hợp như sau: - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%: Nội dung điều luật cho thấy nhà làm luật đã lấy tỷ lệ thương tật của nạn nhân làm căn cứ để định khung hình phạt đối với người phạm tội. Như quy định tại điểm a khoản 2 Điều 134 của BLHS, thì người bị tổn hại đến sức khỏe hoặc bị thương tích phải có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% thì người phạm tội mới bị truy cứu TNHS với mức khung hình phạt từ 02 năm đến 06 năm. Do đó để xác định tỉ lệ thương tật theo Điều 4 Thông tư 20/2014/TT-BYT ngày 12 tháng 6 năm 2014 có quy định về phương pháp xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể sau đây: - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%: Tình tiết này trong BLHS năm 2015 được quy định là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt tại điểm b khoản 2 Điều 134 BLHS 2015.
  • 29. 23 - Phạm tội 02 lần trở lên: Theo BLHS năm 1999 quy định: “Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người”. Tuy vậy, trong pháp luật Hình sự Việt Nam, nhà làm luật lại chưa đưa ra chính thức khái niệm như thế nào là “Phạm tội nhiều lần”. Ở đây “Phạm tội nhiều lần” chỉ có đề cập thông qua một số văn bản hướng dẫn từ phía các cơ quan tư pháp trung ương, giáo trình luật hình sự, vấn đề này được giải thích như sau: Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày 02/01/1998 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS thì: “... tình tiết Phạm tội nhiều lần” được quy định tại khoản 2 của Điều 133 và khoản 2 của Điều 134, người phạm tội phải chịu TNHS về tổng giá trị tài sản của các lần phạm tội cộng lại, căn cứ vào điều luật có quy định về “giá trị tài sản hoặc thiệt hại về tài sản”. Theo giáo trình Luật hình Sự, đại học Luật Hà Nội: “Phạm tội nhiều lần là trường hợp thực hiện tội phạm mà trước đó người phạm tội đã phạm tội này ít nhất là một lần và chưa bị xét xử, hành vi phạm tội trong trường hợp này là sự lặp lại tội đã phạm trước đó nên có mức độ nguy hiểm cao hơn trường hợp bình thường” BLHS 2015 không còn sử dụng tình tiết “phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người” mà cụ thể hóa rõ ràng rằng tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên”. Phạm tội 02 lần trở lên, tức là người phạm tội đó đã thực hiện từ hai hành vi phạm tội trở lên, cùng tác động đến một đối tượng, xâm phạm trực tiếp đến cùng một khách thể, mà từng hành vi này đã có đủ những yếu tố cấu thành độc lập một tội phạm (đều là hành vi cố ý gây thương tích). Theo quy định điều luật đã xác định hai trường hợp được coi là tái phạm nguy hiểm. Tuy vậy qua nghiên cứu học viên đã nhận ra rằng khi áp dụng tình tiết tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung tăng nặng chỉ khi thuộc trường hợp là đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành
  • 30. 24 vi phạm tội do cố ý khi không thể thuộc trường hợp là đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý (theo điểm d khoản 2 điều 134 BLHS năm 2015), do đó nếu phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý (khoản 3, 4, 5 điều 134 BLHS năm 2015) thì lúc đó áp dụng luôn tại khoản 3, 4, 5 Điều 134 BLHS năm 2015 chứ không thể chuyển trở lại áp dụng theo quy định khoản 2 Điều 134 BLHS 2015 được. Trường hợp người phạm tội chỉ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11 % đến 30% nhưng lại nằm trong những trường hợp như đã phân tích ở trên. 1.2.3. Khung tăng nặng thứ hai có mức khung hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm Người phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nhưng không thuộc trường hợp làm chết người; Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 của BLHS 2015. 1.2.4. Khung tăng nặng thứ ba có mức khung hình phạt tù từ 07 năm đến 14 năm - Làm chết người; - Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên; 1.2.5. Khung tăng nặng thứ tư có mức khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân Được áp dụng khi phạm tội sau đây:
  • 31. 25 - Làm chết 02 người trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên (có tỷ lệ tốn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS 2015). 1.3. Phân biệt tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với một số tội phạm khác được quy định trong Bộ luật Hình sự 1.3.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong trường hợp dẫn đến chết người với tội giết người trong trường hợp đã hoàn thành. Trong thực tiễn vấn đề nhầm lẫn giữa những trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn lại cho sức khỏe của người khác dẫn đến sự việc chết người. Vấn đề là ranh giới giữa hai loại tội phạm này không phải lúc nào cũng dễ xác minh một cách rõ ràng, do vậy về mặt lý luận cần định tội đúng sẽ là tiền đề cho việc phân loại TNHS và cá thể hóa hình phạt rất chính xác có căn cứ về điều pháp luật Cần xét đến những đặc trưng dấu hiệu của tội giết người và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác để dẫn đến tình trạng chết người. Theo đó, cả hai mặt lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật có thể lấy ra cơ bản sự khác nhau và giống nhau giữa hai tội này. * Về khác nhau: Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác dẫn đến chết người và hành vi giết người được phân biệt xâm phạm khách thể trực tiếp bằng cách phân biệt cường độ, phương tiện công cụ mà người phạm tội sử dụng, vị trí tấn công người bị hại, đặc biệt là mục đích của người phạm tội cố ý gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dẫn đến chết người bởi mục đích là gây thiệt hại về sức khỏe
  • 32. 26 của người khác đến chết người bởi mục đích là gây thiệt hại về sức khỏe cho người khác, nếu phương tiện, công cụ, cường độ tấn công, vị trí trên thân thể người bị tấn công gây thương tích gây tổn hại sức khỏe về nguyên tắc không thể hiện ý chí của người phạm tội là cố ý đoạt tính mạng người khác. Chết người là hậu quả xảy ra kết quả không mong muốn của người phạm tội hoặc nằm ngoài ý muốn. Do vậy, nếu khoa học luật hình sự coi lẫn trong trường hợp cố ý gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe cho người khác dẫn đến chết người (điểm a khoản 4 Điều 134 BLHS 2015) dẫn đến chết 2 người trở lên (điểm a khoản 5 Điều 134) là trường hợp hỗn hợp lỗi, theo đó đối với hành vi là lỗi cố ý và đối với hậu quả chết người hay chết nhiều người là lỗi vô ý. Với tội giết người, chủ quan trong ý chí phạm tội là hướng vào tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật và mục đích là thực hiện theo chiều hướng đó và sẽ gây ra cái chết cho người khác. * Về mục đích phạm tội: - Mục đích của người phạm tội giết người là muốn tước đoạt mạng sống, xâm phạm trực tiếp và chính diện đến tính mạng, sức khỏe của người khác. Mong muốn khi thực hiện hành vi phạm tội của tội phạm là làm người khác chết. - Mục đích của người phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người là gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng không muốn tước đoạt mạng sống của người khác. Để thực hiện hành vi này, người phạm tội dùng các loại vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại, a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm… và đôi khi đã xảy ra hậu quả ngoài ý muốn là tước đoạt mạng sống của nạn nhân. Tội cố ý gây thương tích * Về lỗi của người thực hiện hành vi phạm tội:
  • 33. 27 - Với tội giết người, người phạm tội mang lỗi cố ý với cả hành vi và hậu quả chết người. Họ ý thức được hành vi của mình sẽ dẫn đến hậu quả là làm người khác chết nhưng vẫn cố ý thực hiện và mong muốn hậu quả chết người xảy ra. - Với tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, người phạm tội chỉ mang lỗi cố ý với hành vi còn vô ý với hậu quả chết người. Tội phạm chỉ ý thức đến mức độ gây thương tích, còn hậu quả gây chết người là nằm ngoài dự tính và họ không hề mong muốn hậu quả này xảy ra. 1.3.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe người khác với tội giết người trong 2 trường hợp chưa đạt * Khi phân biệt điểm khác nhau của cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác với tội giết người trong trường hợp chưa đạt có thể căn cứ vào mặt chủ quan và khách quan của tội phạm về yếu tố lỗi của người phạm tội. Đầu tiên về mặt chủ quan của tội giết người trong trường hợp chưa đạt mong muốn tước đi mạng sống của người khác và hậu quả chết người xảy ra nhưng hậu quả đó xảy ra ngoài ý muốn của họ, còn đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác thì ý định chỉ muốn gây thương tích cho người khác, không mong muốn và cũng không nghĩ đến hậu quả chết người. Tuy nhiên ở mức độ tấn công, hung khí khi sử dụng, địa điểm, vị trí tấn công vào cơ thể của nạn nhân trong những trường hợp có thể được lựa chọn để đạt đến mục đích phạm tội cuối cùng của mình là giết người hay chỉ gây ra những trường hợp thương tích. Với hành vi tấn công có tính chất quyết liệt, sử dụng hung khí nguy hiểm để tấn công vào những vùng trọng yếu trên cơ thể của nạn nhân với quyết tâm phạm tội đến cùng nhưng hậu quả chưa xảy ra chết người là do nguyên nhân khách quan ngoài mong muốn của người phạm tội thì trường hợp này định tội là thỏa đáng. Xét yếu tố lỗi của người phạm tội giết người chưa đạt thì có thể là lỗi cố ý trực tiếp gây ra cái chết trực tiếp cho
  • 34. 28 nạn nhân đó, còn trường hợp không chết là không nằm trong dự tính của người phạm tội. Các trường hợp thực hiện hành vi với lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội mặc dù không mong muốn nhưng chấp nhận hậu quả chết người xảy ra và lúc đó hậu quả đã không xảy ra thì không thể buộc tội người phạm tội phải chịu trách nhiệm về hậu quả chết người, đây cũng chính là điều mà người trong trường hợp này không mong muốn và thực tế cũng không xảy ra. Do đó để định đúng tội danh chúng ta cần phải phân biệt hai tội này trên cơ sở cơ bản như sau: - Nếu lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp thì định tội giết người chưa đạt, đây là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ được hành vi của mình có thể làm nạn nhân chết mà vẫn thực hiện vì muốn nạn nhân chết. Bởi vì nguyên nhân khách quan nên nạn nhân không chết là sự việc ngoài ý muốn của người phạm tội. - Nếu lỗi người phạm tội không phải là lỗi cố ý trực tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân thì định tội cố ý gây thương tích. 1.3.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội chống người thi hành công vụ tại điều 330 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017. Hai tội này đều là xâm phạm đến sức khỏe của người khác, hiện nay vẫn có sự nhầm lẫn giữa định tội danh hai tội này. Những khác biệt như sau: * Về khách thể tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác. Còn khách thể của tội chống người thi hành công vụ là xâm phạm đến hoạt động quản lý hành chính nói riêng và hoạt động quản lý xã hội chung của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức được thực hiện thông qua hoạt động của các nhân viên thuộc các tổ chức, cơ quan đó. Đối tượng tác động
  • 35. 29 của tội phạm này là người đang thi hành công vụ, việc xâm phạm đến người thi hành công vụ cũng là xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ công. * Mặt khách quan của tội phạm: chống người thi hành công vụ, nói chung là gần giống với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. + Hành vi dùng vũ lực là hành vi (hành động) dùng sức mạnh vật chất tấn công, hành hung cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật như dùng: tay đấm, chân đá, cây đánh, đất, đá ném,... nhằm làm cho người thi hành công vụ bị đau đớn để không thực hiện được nhiệm vụ của mình. Hành vi dùng vũ lực này không gây ra hậu quả cho người bị hại thì mới thỏa mãn cấu thành tội chống người thi hành công vụ. Nếu gây ra hậu quả về thương tích hoặc gây chết người thì người phạm tội phải bị xử lý về một tội phạm tương ứng là tội cố ý gây thương tích hoặc tội giết người. + Hành vi đe dọa dùng vũ lực, đó là hành vi uy hiếp tinh thần người thi hành công vụ làm cho họ sợ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao, nhằm cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật. + Hành vi dùng thủ đoạn khác (như lăng mạ, bôi nhọ hoặc vu khống...) nhằm cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, chỉ cần người phạm tội thực hiện một trong các hành vi khách quan nêu trên là tội phạm đã hoàn thành. * Về chủ thế của tội phạm: Chủ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã được phân tích ở mục 1.1.2.3. Đối với Tội chống người thi hành công vụ, người phạm tội phải đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
  • 36. 30 * Mặt chủ quan của tội phạm. Hai tội phạm này đểu được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Sau khi phân tích ta thấy rõ ràng khác biệt của hai tội này chủ yếu tập trung vào khách thể bị xâm phạm đến đối tượng tác động, hành vi phạm tội có gây ra hay không gây ra hậu quả. Thông qua việc xác định các dấu hiệu nêu ở trên có thể định tội danh đúng tội. Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ Theo quy định tại Điều 137 BLHS 2015, là hành vi khi thực hiện công vụ mà sử dụng vũ lực ngoài những trường hợp được cho phép gây hậu quả thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác. Dấu hiệu của tội phạm được thể hiện như: Nạn nhân của hành vi này là những người vi phạm pháp luật và bị người thi hành công bắt giữ. Cũng có trường hợp người bị hại không phải là người có hành vi phạm pháp nhưng bị xâm hại vì lỗi của người thi hành công vụ. Hành vi khách quan của tội phạm là sử dụng vũ lực ngoài những trường hợp được cho phép theo quy định như sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ gây hậu quả thương tật từ 31% trở lên cho nạn nhân. * Các tội về cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác Khác nhau quan trọng nhất giữa các tội danh trên là mục đích của người thực hiện hành vi, nó có ý nghĩa quan trọng để xác định người phạm tội thuộc vào loại tội danh nào và khung hình phạt ra sao. Tuy nhiên giới hạn giữa các tội danh này rất mong manh, dẫn đến có nhiều vụ án xác định sai tội danh là làm tổn hại nghiêm trọng đến các quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội. Có thể khẳng định BLHS, Bộ luật TTHS lần này đã sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe người khác trong hình sự, giúp cho việc thực thi pháp luật được chính xác hơn trong việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người.
  • 37. 31 Tiểu kết Chương 1 Trong chương 1, luận văn đã tập trung làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về khái niệm, dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, đường lối xử lý và làm rõ nhằm phân biệt giữa tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trường hợp dẫn đến chết người với tội giết người trong trường hợp đã hoàn thành. Phân biệt tội này với tội giết người trong trường hợp phạm tội chưa đạt. Phân biệt tội này và tội chống người thi hành công vụ. Đây là những lý luận quan trọng đế tác giả vận dụng làm rõ thực tiễn áp dụng pháp luật về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
  • 38. 32 Chương 2 ÁP DỤNG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TẠI THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI 2.1. Định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác 2.1.1. Cơ sở lý luận của định tội danh đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác: Định tội danh là hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền thực hiện một trong những biện pháp và cách thức để đưa các quy phạm pháp luật hình sự và quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Định tội danh đúng người, đúng tội, đúng pháp luật trong thực tiễn có một số hoạt động có những điểm giống với hoạt động định tội danh ví dụ như: hoạt động nghiên cứu pháp luật, hoạt động giảng dạy học sinh sinh viên ngành luật, hoạt động thực tập của học sinh sinh viên ngành luật, hoạt động của luật sư khi tham gia tố tụng, bào chữa viên, các bài báo, bài viết về các vụ án hình sự… tất cả hoạt động trên chỉ nhằm mục đích khác nhau như học tập, giảng dạy, nghiên cứu , trao đổi thông tin. Nêu quan điểm tranh luận về lĩnh vực tội phạm, các vấn đề định tội danh.. những hoạt động trên không có thẩm quyền về mặt tố tụng để kết luận và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội theo trình tự, thủ tục luật định. Đồng thời các hoạt động trên cũng không phải do cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền. Mục đích của hoạt động định tội danh trong tố tụng hình sự là nhằm giải quyết vụ án hình sự một cách đúng đắn, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai người vô tội và phải buộc người phạm tội phải chịu hình phạt tương xứng với tính chất hành vi mà người phạm tội đã gây ra. Đã có nhiều khái niệm định tội danh của nhiều tác giả qua nhiều thời
  • 39. 33 kỳ ở nước ta nhưng theo quan điểm riêng của tác giả, khái niệm định tội danh phải đầy đủ, cụ thể với các nội dung sau đây: Định tội danh là hoạt động tiến hành đối chiếu sự phù hợp giữa các dấu hiệu cấu thành tội phạm thực tế đã xảy ra với các dấu hiệu về mặt pháp lý của cấu thành tội phạm được mô tả, quy định trong quy phạm pháp luật hình sự, để xác định có hay không có tội phạm xảy ra? Nếu có thì ai là người phạm tội? phạm tội gì? Người bị nghi có phải là người phạm tội không? Bằng việc đưa ra kết luận bằng văn bản, áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền. Từ khái niệm định tội danh trên có thể nhận thấy định tội danh có những đặc điểm sau: Thứ nhất: Định tội danh được tiến hành bởi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền. Đó là một loại hoạt động trong tố tụng hình hình sự. Trên cơ sở pháp luật hoạt động định tội danh được quy định trong Luật tố tụng hình sự gắn liền với việc áp dụng pháp luật về tố tụng hình sự quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có thẩm quyền, tiến hành để giải quyết vụ án. Thứ hai: trên cơ sở áp dụng pháp luật tố tụng hình sự và Luật hình sự, tiến hành hoạt động định tội danh. Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có thẩm quyền trong hoạt động định tội danh ở bất cứ giai đoạn nào đều phải áp dụng cả luật tố tụng hình sự và luật hình sự. Thứ ba: trong quá trình thực hiện định tội danh phải thực hiện bằng việc ra kết luận bằng văn bản tố tụng. Tóm lại hoạt động định tội danh hướng về mục đích cuối cùng là giải quyết vụ án hình sự, tức là phải kết luận có tội phạm xảy ra hay không? Nếu có thì tội phạm gì ? Ai là người phạm tội ? Họ đã phạm tội gì? để ra một hình phạt tương xứng với hành vi mà họ gây ra. Các văn bản kết luận đó phải phù hợp với từng giai đoạn tố tụng được quy định trong bộ luật tố tụng hình sự.
  • 40. 34 Thứ tư: hoạt động đối chiếu sự phù hợp giữa cấu thành tội phạm thực tế xảy ra và dấu hiệu cấu thành tội phạm pháp lý được mô tả trong quy định của bộ luật hình sự là hoạt động định tội danh. Chỉ khi đối chiếu sự phù hợp giữa cấu thành tội phạm thực tế và cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự thì mới đưa ra kết luận được chính xác tội phạm xảy ra là gì? Người phạm tội và người bị nghi phạm tội đã phạm tội gì? để họ phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng về tội danh mình gây ra. Từ cơ sở lý luận trên có thể đưa ra khái niệm cụ thể như sau: Định tội danh tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác là hoạt động của các cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án bằng việc thu thập tài liệu chứng cứ theo luật định với các dấu hiệu cấu thành tội phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác. Trên thực tế đã xảy ra đối chiếu với các dấu hiệu cấu thành tội phạm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trên cơ sở pháp lý được mô tả trong quy định của Bộ luật hình sự ra kết luận bằng văn bản của các cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án, người có thẩm quyền trong các cơ quan đó. 2.1.2. Thực tiễn định tội danh cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai 2.1.2.1. Tình hình tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến năm 2019 Trong thời gian từ năm 2015 đến 2019, tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Biên Hòa diễn ra khá phức tạp. Theo báo cáo tổng kết công tác năm của Công an TP, của các cơ quan bảo vệ pháp luật khác cho thấy: số vụ phạm tội có xu hướng ngày càng tăng về số vụ và số đối tượng, tội phạm ngày càng trẻ hóa, thủ đoạn tội phạm ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Đối với Tội phạm cố ý gây thương tích cũng có xu hướng tăng, giảm không theo quy luật,
  • 41. 35 nhưng nhìn chung ngày càng tăng về số vụ và số đối tượng, sử dụng hung khí nguy hiểm gia tăng, phương thức thủ đoạn ngày càng có sự cố kết hơn. Cụ thể thể hiện dưới bảng thống kê tại bảng Phụ lục 2.1. Qua số liệu thống kê tại bảng Phụ lục 2.1: Tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Biên Hòa là loại tội phạm được xét xử sơ thẩm chiếm tỷ lệ cao trong các loại tội phạm được xét xử, bình quân chiếm 20,5%/năm. Số bị cáo bị xét xử về tội này cũng chiếm tỷ lệ cao trong nhóm các bị cáo bị xét xử về số bị cáo bị đưa ra xét xử, bình quân chiếm 17,6%/năm. Nếu xét về số vụ cũng như số người phạm tội thì tội phạm này chiếm tỷ lệ cao nhất trong các tội đưa ra xét xử. - Xét xử phúc thẩm: Qua thống kê tại bảng Phụ lục 2.2 cho thấy, số vụ án cố ý gây thương tích được xét xử phúc thẩm cũng chiếm tỷ lệ cao trong nhóm các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, bình quân chiếm 14%/năm. Nguyên nhân của tình trạng này sẽ được tác giả làm rõ trong phần thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. - Hình phạt: Xét xử sơ thẩm: Qua thống kê tại bảng 2.3 cho thấy: Hình phạt được áp dụng chủ yếu là hình phạt tù có thời hạn chiếm tỷ lệ 73,92%, phạt tù nhưng cho hưởng án treo chiếm tỷ lệ 13,62%, cải tạo không giam giữ chiếm 12,46%.. Xét xử phúc thẩm: Qua thống kê tại bảng 2.4 cho thấy: Hình phạt được áp dụng chủ yếu là hình phạt tù có thời hạn chiếm tỷ lệ 76,32%, phạt tù nhưng cho hưởng án treo chiếm tỷ lệ 23,68%.
  • 42. 36 Bảng 2.1: Số liệu xét xử sơ thẩm về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại thành phố Biên Hòa Năm Tổng số vụ án (Số vụ) Tổng số bị cáo (Bị cáo) Số vụ án Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Số lượng bị cáo phạm tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 2015 423 798 87 20,57 141 17,67 2016 431 852 101 23,43 131 15,38 2017 464 858 102 21,98 151 17,60 2018 453 857 99 21,68 198 22,08 2019 447 851 95 21,25 167 19,51 Tổng 2,218 4,216 484 21,80 779 18,47 (Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của TAND TP. Biên Hòa từ năm 2015 – 2019) Bảng 2.2: Tổng số vụ án bị xét xử phúc thẩm và số vụ án bị xét xử phúc thẩm về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Năm Tổng số vụ án Số vụ án Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 2015 132 31 2016 128 30 2017 135 36 2018 162 52 2019 157 42 Tổng 714 191 (Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của TAND TP. Biên Hòa từ năm 2015 – 2019)
  • 43. 37 Bảng 2.3: Hình phạt do Tòa án Cấp sơ thẩm áp dụng Năm Tổng số bị cáo Hình phạt Dưới 3 năm Từ 3 đến dưới 7 năm Từ 7 đến dưới 8 năm Từ 8 đến 15 năm Án treo Cải tạo không giam giữ Hình phạt khác 2015 189 30 104 4 3 28 20 0 2016 173 24 91 3 0 26 29 0 2017 142 19 82 4 3 18 16 0 2018 132 21 77 2 1 17 14 0 2019 151 26 81 2 3 19 20 0 Tổng 787 120 435 15 10 108 99 0 (Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của TAND TP. Biên Hòa từ năm 2015 – 2019) Bảng 2.4: Hình phạt do Tòa án Cấp phúc thẩm áp dụng Năm Tổng số bị cáo Hình phạt Dưới 3 năm Từ 3 đến dưới 7 năm Từ 7 đến dưới 8 năm Từ 8 đến 15 năm Án treo Cải tạo không giam giữ Hình phạt khác 2015 31 12 9 1 2 7 0 0 2016 35 10 15 2 0 8 0 0 2017 30 9 14 1 0 6 0 0 2018 62 14 23 5 3 17 0 0 2019 42 12 16 2 3 9 0 0 Tổng 200 57 77 11 8 47 0 0 (Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của TAND TP. Biên Hòa từ năm 2015 – 2019)
  • 44. 38 2.1.2.2. Định tội danh cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo cấu thành tội phạm cơ bản Để định tội cho một hành vi cụ thể, người áp dụng luật hình sự phải căn cứ vào cấu hình tội phạm được rút ra từ những quy định của BLHS. Nếu tình tiết của một nhóm hành vi tội phạm phù hợp với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS, thì hành vi đó được xác định theo tội danh của cấu thành tội phạm đó. Qua nghiên cứu các bản án được xét xử sơ thẩm, phúc thẩm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về các tình tiết định tội danh đối với tội này cho thấy: + Việc xác định mặt khách thể của tội phạm: Các bản án đã tuyên đều xác định rõ khách thể mà các bị cáo đã xâm hại khi thực hiện hành vi phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Không có bản án nào được xét xử sơ thẩm, phúc thẩm về tội trên xác định sai khách thể. + Việc xác định mặt khách quan của tội phạm: Nghiên cứu các bản án đã được xét xử về tội này cho thấy việc xác định mặt khách quan của tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là chính xác và đã áp dụng đúng các quy định của pháp luật. * Về hậu quả xảy ra: Đối với tội phạm này, việc xác định hậu quả xảy ra mà cụ thể là tỷ lệ thương tích gây ra cho người bị hại là một vấn đề rất quan trọng trong việc áp dụng TNHS đối với người phạm tội. Hậu quả xảy ra ở 2 dạng: - Gây thương tích cho người khác. - Gây tổn hại cho sức khỏe người khác. * Về việc xác định hậu quả: Theo quy định tại Điều 104 thì hành vi Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phải gây ra thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phải có tỷ lệ
  • 45. 39 thương tật từ 11% trở lên mới cấu thành tội phạm, nếu dưới 11% phải thuộc các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k Điều 104 BLHS. Qua nghiên cứu các bản án cho thấy, trong các bản án đều xác định rõ tỷ lệ thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác là bao nhiêu % sức khỏe, việc xác định tỷ lệ thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác đều căn cứ vào các kết luận giám định của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. + Việc xác định mặt chủ quan: Tội phạm này thực hiện với lỗi cố ý. Lỗi cố ý bao gồm: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Qua nghiên cứu các bản án đã được xét xử, đều xác định người phạm tội đã thực hiện hành vi cố ý hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với lỗi cố ý. Do đó việc xác định lỗi của bị cáo trong các vụ án trong các vụ án cố ý hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là đúng pháp luật. Qua khảo sát thì không có trường hợp nào áp dụng đối với lỗi vô ý. + Việc xác định chủ thể: Chủ thể của tội cố ý gây thương tích là những người không mắc ác căn bệnh về tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình và là người đủ 16 tuổi trở lên, riêng người 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ chịu TNHS nếu phạm tội được quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 104 của BLHS. Việc xác định độ tuổi của chủ thể của này được Tòa án căn cứ vào các loại giấy tờ được các cơ quan Nhà nước cấp như Giấy khai sinh, học bạ, lời khai của Cha mẹ bị cáo và kết quả giám định tuổi... Qua nghiên cứu thì các bản án của Tòa án đã tuyên đều áp dụng đúng các quy định pháp luật về xác định chủ thể. - Thực tiễn áp dụng pháp luật định hình về các tình tiết định tội trong trường hợp tỷ lệ thương tật dưới 11% + Trường hợp người phạm tội “dùng hung khí nguy hiểm”:
  • 46. 40 Qua thống kê xét xử thì người phạm tội “dùng hung khí nguy hiểm” để thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác rất phổ biến, hung khí mà các người phạm tội thường sử dụng là các loại dao, gậy, tuýp sắt... khi áp dụng tình tiết này trong xét xử, ngoài việc căn cứ vào các quy định của BLHS, Tòa án cũng áp dụng hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Tuy nhiên khi áp dụng tình tiết này, do luật không quy định rõ tỷ lệ thương tật hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác tối thiểu là bao nhiêu phần trăm thì bị truy cứu TNHS, theo đó nếu người phạm tội “dùng hung khí nguy hiểm” để thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác 1% cũng có thể bị truy cứu TNHS. Trong thực tế thì chưa có trường hợp nào bị xét xử rơi vào tình tiết trên, mà chỉ có một số vụ người phạm tội “dùng hung khí nguy hiểm” để thực hiện hành vi phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác từ 5% đến 10%. Tại các bản án xét xử bị cáo phạm tội rơi vào trường hợp trên, Tòa đã đánh giá: hành vi của các bị cáo xâm phạm đến sức khỏe của bị hại, hành vi của các bị cáo thực hiện do cố ý, các bị cáo biết rõ dùng búa, dao, mã tấu,... là hung khí nguy hiểm, sẽ gây thương tích cho bị hại nhưng các bị cáo vẫn thực hiện cho thấy hành vi của các bị cáo là nguy hiểm, gây ảnh hưởng xấu đến ANTT của Địa phương. Trong các trường hợp này, Tòa căn cứ vào khách thể bị xâm hại, mặt khách quan, lỗi của bị cáo, chủ thể tỷ lệ thương tích được xác định dưới 11% công cụ mà các bị cáo sử dụng là búa, dao, gậy, mã tấu,... để áp dụng tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” theo điểm a khoản 1 Điều 104 của BLHS là đúng quy định của pháp luật.