1. Chiết suất và tinh chế carotenoit
Sự phân bố các carotenoit trong động vật và thực vật không tuân theo quy luật tự nhiên nào.
Trong rau xanh (rau ngót) có các β-carotenoit và các xantophyl như lutein, neoxanthin. Lycopen
có nhiều trong cà chua. Trong gấc và cà rốt có α-caroten, β-caroten. Capsanthin là sắc tố đỏ của
ớt, đặc biệt là trong ớt cựa gà (paprika). Màu vàng của lòng đỏ trứng là do có mặt lutein,
zeaxanthin và 1 lượng nhỏ β-caroten. Thịt của cá hồi (saumon) là do màu hồng của astaxanthin.
Tuỳ theo từng đối tượng nguyên liệu cụ thể mà lựa chọn dung môi chiết suất thích hợp.
Các dung môi và hệ dung môi hữu cơ thường được sử dụng là axeton, axeton : n-hexan (4:6), n-
hexan : izopropanol (3:2). EtOH : n-hexan (4:3) là hệ dung môi rất hiệu quả để tách chiết các từ
cà chua (Lin và Chen, 2003). Người ta cũng thường sử dụng n-hexan và dietyl ete làm dung môi
để chiết lutein và zeaxanthin từ hoa cúc vạn thọ.
Nên chiết suất carotenoit từ nguyên liệu tươi, nếu là nguyên liệu khô thì nên hydrat hoá lại trước
khi chiết. Đồng nhất mẫu chiết bằng phương pháp nghiền hoặc nghiền kết hợp với giã. Đối với
các loại lá và các nguyên liệu khó chiết khác nên ngâm nguyên liệu vào dung môi chiết 15-30
phút trước khi nghiền để làm mềm thành tế bào, đồng thời tránh cho carotenoit khỏi bị đồng
phân hoá và bị phân huỷ trong quá trình nghiền. Có thể bổ sung MgCO3 và các tác nhân trung
hoà khác để trung hoà các axit hữu cơ có trong mẫu nhằm tránh sự phân huỷ và đồng phân hoá
nếu việc chiết suất được tiến hành nhanh chóng ngay sau khi xử lý mẫu thì không những ngăn
chặn được sự oxy hoá bởi xúc tác của ezim mà còn không cần thiết phải bổ sung tác nhân trung
hoà.
Việc lọc dịch chiết được thực hiện bằng phễu lọc thuỷ tinh (porosity 3, kích thước lỗ 20-30 μm)
hoặc dùng phễu Buchner. Bã lọc được chiết lại cho đến khi mất màu, thường tiến hành chiết 3
lần.
2. Tiến hành tách nước và dung môi khỏi dịch chiết bằng cách bổ sung ete dầu hoả (điểm sôi 35-
60oC), dietyl ete, n-hexan, diclorometan hoặc hỗn hợp của chúng.
Xà phòng hoá bằng KOH, có bổ sung chất oxy hoá BHT (butyl hydroxytoluen) để loại clorophyl
và các chất béo khác, thu carotenoit tổng.
Để tách từng hợp chất carotenoit tinh khiết, người ta thường sử dụng phương pháp sắc ký cột mở
(OCC) và HPLC điều chế.
Phân tích carotenoit
Sắc ký bản mỏng là một phương pháp đơn giản, dễ thực hiện để phân tích định tính các hợp chất
carotenoit dựa vào giá trị Rf trên sắc ký đồ bằng cách so sánh với sắc ký chuẩn.
Sắc ký lỏng cao áp HPLC là phương pháp phân tích cho độ chính xác cao. Loại cột HPLC
thường dùng để phân tích carotenoit là C18 nghịch đảo pha, dung môi chính thường dùng là
axetonotrin và metanol. Một số dung môi khác cũng được sử dụng là THF (tetrahydrofuran), etyl
axetat, hexan, axeton và nước. Để nhận biết các carotenoit, người ta thường dựa vào thời gian
lưu và phổ UV tương ứng của các pic trong sắc ký đồ HPLC. Hầu hết các carotenoit đều có 3
đỉnh hấp thụ cực đại, chất nào trong phân tử có số nối đôi liên hợp càng nhiều thì các đỉnh hấp
thụ cực đại càng ở bước sóng lớn hơn.