SlideShare una empresa de Scribd logo
1 de 75
1
NAMO
SHAKYAMUNI
BUDDHA
2
卍
Này Long vương , Ông nên biết Bồ-tát có một pháp
có thể đoạn trừ tất cả khổ não trong các đường ác. Ðó
là ngày đêm nhớ nghĩ tư duy, quán sát thiện pháp,
khiến các thiện pháp mỗi niệm mỗi niệm được tăng
trưởng, không để cho bất kỳ pháp bất thiện nào xen
lẫn, pháp ấy có thể khiến các ác pháp vĩnh viễn chấm
dứt, thiện pháp được tràn đầy, thường được gần gũi
chư Phật, chư Bồ-tát và các Thánh chúng.
Nói rằng thiện pháp, nghĩa là thân của các hàng
trời, người, Thanh văn Bồ-đề, Ðộc giác Bồ-đề, Vô
thượng Bồ-đề, đều nương vào pháp này, lấy nó làm
căn bản để được thành tựu cho nên gọi là thiện pháp.
Pháp này chính là Thập thiện nghiệp đạo. Vậy mười
điều đó là gì? Ðó là vĩnh viễn xa lìa sát sanh, trộm cắp,
tà dâm, nói dối, nói đôi chiều, nói ác, nói thêu dệt,
tham lam, sân hận và tà kiến.
Này Long vương , Thí như tất cả thành ấp xóm làng
đều dựa vào trái đất mà được đứng vững, tất cả cây
thuốc cỏ cây vườn rừng cũng nhờ vào đất mà lớn lên.
Mười điều thiện này cũng như vậy, tất cả hàng trời
3
người nương vào nó mà được thành lập, tất cả hàng
Thanh văn, Ðộc giác Bồ-đề, các hạnh Bồ-tát, tất cả Phật
pháp, đều nương vào mảnh đất Thập thiện này mà
được thành tựu.
Nếu có người nghèo khổ nào, không có tiền của
nhưng vẫn có thể bố thí. Lúc người khác bố thí liền
sanh lòng tùy hỷ thì phước báo của họ không khác gì
phước báo của người bố thí kia. Ðó là một việc rất dễ
làm, ai mà không làm được
Ðức Phật dạy: “Thấy người khác làm việc bố thí mà
vui vẻ giúp họ thì được phước báo rất lớn”. Có vị sa
môn hỏi Phật rằng:
- Thưa Thế tôn! Phước này hết chăng?
Ðức Phật Ðáp:
- Ví như ngọn lửa của một cây đuốc, dầu có trăm
ngàn người đem đuốc đến mồi lửa kia để về nấu ăn và
thắp sáng thì lửa của cây đuốc vẫn như cũ. Phước kia
cũng vậy.
4
PHẠM THIÊN
Một hôm, đức Phật ở Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên đón
tiếp sự thăm viếng của trời Phạm thiên. Phạm thiên
hướng về đức Thế tôn đảnh lễ và nêu ra mấy câu hỏi.
Dưới đÂy là cuộc đối thoại giữa đức Phật và Phạm
thiên.
Phạm Thiên hỏi:
- Thưa Thế tôn! Loại kiếm nào sắc nhất, thứ thuốc
nào độc nhất, ngọn lửa nào dữ nhất và đêm tối nào dài
nhất?
- Miệng mắng chửi người khác là thứ kiếm sắc bén
nhất, lòng tham là liều thuốc độc nhất, ngọn lửa hung
dữ nhất là phiền não, và ngu si là đêm dài tối tăm
nhất.
- Vậy, ai được lợi ích lớn nhất, ai bị tổn thất nhiều
nhất, ai là kẻ nham hiểm nhất? Thưa Thế tôn!
- Người bố thí được lợi ích lớn nhất. Biết ơn mà
không báo ơn là người tổn thất nhiều nhất. Người ôm
5
lòng độc ác, mưu mô không kể chi là kẻ nham hiểm
nhất.
- Ðiều gì có sức lôi cuốn nhất, cái gì khiến người ta
xa lánh nhất, điều gì phá tình hữu nghị và ai là vị
lương y tài giỏi nhất?
- Làm thiện có sức lôi cuốn nhất vì nó đưa đến hàng
ngàn thứ công đức. Tội ác khiến người ta xa lánh nhất
vì đưa con người chìm sâu vào hố thẳm luân hồi. Ðố kị
và tư lợi phá vỡ tình hữu nghị. Như lai là vị lương y tài
giỏi nhất.
Vị trời Phạm thiên cảm thấy rất mãn nguyện, chắp
tay tán thán trí tuệ viên mãn của đức Thế tôn đã khéo
phá tan mối nghi hoặc cho mọi người.
Trời Phạm thiên hỏi tiếp:
- Thưa Thế tôn! Cái gì tối thắng nhất, làm thế nào
mới có thể đạt được nó?
Ðức Phật đáp:
6
- Phước đức và trí tuệ là cái tối thắng nhất. Tu cả
phước đức lẫn trí tuệ thì có thể ra khỏi luân hồi, vượt
hẳn ba cõi, tự lợi lợi tha. Dũng mãnh tinh tấn thì có thể
tu phước và tu tuệ.
Phạm Thiên nghe đức Phật dạy xong tâm trí được
khai sáng liền đảnh lễ đức Phật và cáo lui.
PHẬT PHÁP THỰC TIỄN
Một kẻ lữ hành bị lạc trong sa mạc rộng lớn. Ở đó,
khí hậu vô cùng khô nóng, ánh mặt trời như thiêu như
đốt. Anh ta không có nước uống, không có thức ăn,
chung quanh lại chẳng có bóng dáng con người. Anh
bước đi trong sự tàn tạ cô độc và sắp ngã quỵ.
Ðột nhiên có một người đi thẳng về phía anh. Vị ấy
có vẻ mặt tươi vui và vóc dáng rất sung mãn tự tại.
Anh ta liền đến hỏi vị ấy làm như thế nào mà có thể
thoát được sự bức bách của cái nóng và cái khát, đến
nơi nào thì có thể tìm được nguồn nước và bóng cây.
Vị ấy bảo anh rằng:
7
- Từ đây về phía đông có hai con đường, một đường
đi về phía trái, một đường về phía phải. Ði theo con
đường phía phải, nỗ lực tiến về phía trước thì tự nhiên
sẽ gặp được nguồn nước ngon ngọt và bóng cây mát.
Nghe vị ấy nói anh ta rất tin nhưng vì đã quen với
tính biếng nhác nên không chịu đi về phía trước. Kết
quả là anh ta chết khát trong sa mạc.
Người sung mãn thì dụ cho đức Phật, còn kẻ bị đói
khát thì dụ cho chúng sanh. Anh ta tuy có lòng tin
nhưng lại không chịu hành động nên kết quả chỉ có
thất bại. Năm giới, mười điều thiện, Bát chánh đạo v.v...
là đạo lý đức Phật chỉ cho chúng ta tu hành. Ngài chú
trọng thực tiễn, không đề cao nơi việc nói suông, nên
chúng ta phải cố gắng thực hành bằng sức dũng
mãnh tinh tiến thì mới không phụ đạo lý của đức Phật
ÐỨA CON CỦA PHÚ ÔNG
Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật từng thí dụ như vầy:
có một phú ông nọ bị lạc mất đứa con trai khi nó còn
rất bé nên ngày đêm vô cùng nhớ mong. Có một
hôm, phú ông nhìn thấy một kẻ ăn mày và nhận ra đó
là đứa con bị thất lạc của mình, bèn kêu nó đến để
8
nhận cha con. Nhưng đứa trẻ ấy đã lưu lạc lâu năm,
quen bị người ta khinh rẻ, nhục mạ nên nó hiểu lầm là
phú ông lừa nó đến rồi bắt cho quan trị tội, do đó vội
bỏ chạy.
Phú ông nghĩ ra một diệu kế là cho người tìm anh ta
về làm việc để nó yên tâm với hoàn cảnh mới. Phú ông
thường ngồi bên cửa sổ theo dõi công việc rồi dần
thăng chức cho nó. Khi đứa con gánh vác được công
việc, ông cảm thấy thời cơ đã chín muồi nên triệu tập
bạn bè họ hàng rồi nói ra bí mật bấy lâu. Ðứa con biết
được thân phận của mình mới dám nhận lại cha.
Trong thí dụ này, đứa con là chúng sanh, còn phú
ông chính là đức Phật. Chúng sanh mãi quay cuồng
trong sanh tử luân hồi, sớm quên mất bản tánh thành
Phật của mình, chỉ toàn gây nên nghiệp duyên. Ðức
Thế tôn biết trước, giác ngộ trước, bảo rằng chúng
sanh cũng có thể thành Phật như Ngài. Ngài lấy bản
thân làm mẫu mực, dùng các phương pháp khéo léo
hướng dẫn chúng sanh chấm dứt việc ác, làm việc
lành rồi hướng thượng, gắng sức cho đến khi thành
Phật. Chúng ta nên ghi nhận và tu học theo lời giáo
9
huấn của đức Phật, không nên phụ hoài công lao của
Ngài mới đúng lẽ.
TRÌNH TỰ HỌC PHẬT
Người học Phật, đối với Phật pháp, cần phải trải qua
bốn giai đoạn: Tín, giải, hành và chứng.
- Tín: Ðối với Phật pháp, người học Phật trước tiên
cần có tín tâm, như trong kinh thường nói: “Phật
pháp rộng lớn như biển cả, có niềm tin mới có thể
vào”. Có tín tâm, người học Phật mới có thể đạt được
lợi ích chân thật, và khiến chúng ta dũng cảm đương
đầu với ma chướng, thoát khỏi sanh tử khổ não.
- Giải: Ngoài kính tín Phật pháp, đối với nghĩa lý
trong Phật pháp, chúng ta nên có nhận thức rõ ràng,
tìm hiểu đầy đủ, được như vậy thì niềm tin càng vững
chắc.
- Hành: Ðối với Phật pháp, sau khi hiểu rõ và có
niềm tin kiên cố, lại phải tự mình thực hành, giữ gìn
10
năm giới, mười điều thiện, Bát chánh đạo v.v... phải
luôn luôn tu tập, thực hành mới mong được ích lợi.
- Chứng: Người học Phật có niềm tin, sự hiểu biết và
thực hành rồi thì nhất định sẽ gặt hái kết quả, chứng
minh rằng sự nỗ lực không phải uổng phí. Bản thân
chúng ta tự nhiên thể nghiệm được cảnh giới giác ngộ,
đạt được công đức lớn và giải thoát lớn
BA CHÚNG ÐỆ TỬ CỦA PHẬT
Người học Phật, lý tưởng và chí nguyện không ai
giống ai cho nên sự thành tựu cũng chẳng người nào
giống người nào. Nói một cách tóm lược thì có ba loại:
một là sanh vào cõi trời cõi người, hai là làm A-la-hán,
và ba là làm Bồ-tát.
1. Sanh vào cõi trời cõi người: Hạng người học Phật
này bỏ ác làm lành, tích nhóm phước đức, hy vọng
kiếp sau sẽ được yên vui. Ví dụ như: dung mạo, thọ
mạng, hoàn cảnh gia đình và sức khỏe v.v... đều được
trội hẳn hơn so với đời này. Nhưng sự mong ước này
vẫn chưa triệt để vì sự vui sướng của cõi trời và cõi
11
người đều ngắn ngủi, vẫn phải bị sanh tử luân hồi, lưu
chuyển trong ba cõi, chịu khổ não vô cùng.
2. A-la-hán: Những vị học Phật này biết rằng ba cõi
hoàn toàn không yên ổn, giống như nhà lửa, cũng
như một ngọn lửa lớn cơ thể thiêu rụi hết mọi thứ cho
nên sanh tâm nhàm chán. Vì chán bỏ sinh tử nên cầu
mau chóng thoát khỏi sanh tử. Những vị ấy nỗ lực
chấm dứt tất cả sự vay trả của túc nghiệp, tu tập Phật
pháp, chỉ hoàn thiện cho chính bản thân, cuối cùng
vượt ra ngoài vòng sanh tử, được gọi là A-la-hán. Ðây
là quả vị của tiểu thừa.
3. Bồ-tát: Những vị học Phật này phát tâm rộng lớn,
không muốn chỉ hoàn thiện cho chính mình, riêng
mình giải thoát mà phát nguyện cứu mình, cứu người,
tự lợi lợi tha, hy vọng chúng sanh đều được giải thoát.
Việc làm này rất khó, phải có đại trí tuệ, đại từ bi, đại
nguyện lực, đại công đức mới có thể thực hiện được.
Bồ-tát phát tâm, thực hành, đời đời kiếp kiếp không nề
hà mệt nhọc, không thối tâm, mãi mãi giữ vững lý
12
tưởng cầu Phật đạo và độ sanh. Ðây là một giá trị sống
rất cao quý của những người đại thừa. Vì vậy, người
học Phật nên lập chí làm Bồ-tát
CHÚNG SANH VÀ THẾ GIỚI
Phật giáo gọi những sinh vật có tri giác, có sinh
mạng, bao quát nhân loại, cầm thú, côn trùng v.v... là
chúng sanh. Nơi chúng sanh ở có ba chốn: Dục giới,
Sắc giới và Vô sắc giới. Chúng sanh trong cõi Dục có
năm loại, còn gọi là ngũ thú: trời, người, địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh.
- Trời: Chúng sanh làm lành được sanh lên cõi trời,
gọi là Trời. Ðây cũng chính là thiên đường mà ngoại
đạo sùng bái. Chúng sanh cõi này có sự hưởng thụ
khoái lạc, nhưng sau khi hưởng thụ xong cũng phải
chết và chịu luân hồi trở lại.
- Người: Nhân gian là thế giới vật chất, chúng sanh
hiền thiện hoặc tội ác đều có thể sanh vào, nên gọi là
Người.
- Ðịa ngục: Là nơi chúng sanh gây tội rất nặng sanh
vào. Chúng sanh ở đây luôn chịu sự bức bách của
13
thống khổ - khổ báo hết rồi mới có thể chuyển sanh
sang cõi khác.
- Ngạ quỷ: Là nơi chúng sanh tham dục sanh vào.
- Súc sanh: Chính là nơi chúng sanh ngu độn sanh
vào.
Năm tình huống trên đây chính là tướng của chúng
sanh trong Dục giới. Còn Sắc giới và Vô sắc giới là nơi
cư ngụ của chúng sanh hiền thiện, có phước và định
lực. Ðức Phật dùng trí tuệ quán sát tướng trạng của ba
cõi và nói cho chúng ta biết rằng: luân hồi năm nẻo là
một hiện tượng tự nhiên, làm lành thì sanh thiên, làm
ác thì đọa địa ngục. Chúng sanh từ cõi trời cho đến địa
ngục tuy khổ đau, hạnh phúc không giống nhau
nhưng lại giống nhau là còn bị chết và luân hồi. Trong
khoảng thời gian vô tận không gian vô hạn, chúng
sanh cứ diễn đi diễn lại vở diễn buồn-vui-ly-hợp.
Nghiệp báo của mỗi cá nhân cũng theo sự tích tập mà
trở thành gánh nặng khổ não. Cho nên, đức Phật - bậc
trí tuệ từ bi - dạy chúng ta phải phát Bồ-đề tâm, học
Bát chánh đạo, giải thoát luân hồi, vượt khỏi ba cõi
mới là phương pháp triệt để.
14
BÁT CHÁNH ÐẠO
Ðức Phật thường diễn giảng Bát chánh đạo cho
hàng đệ tử của Người. Bát chánh đạo chính là tám việc
hợp lý và chánh đáng.
1. Thấy biết đúng đắn: Ðối với những sự việc trên cõi
đời này, chúng ta cần có một cách nhìn cho đúng đắn
và chân thực như làm thiện thì được quả thiện, làm ác
thì mắc quả báo ác.
2. Suy nghĩ đúng đắn: Chúng ta nên có tư tưởng
trong sáng, không suy nghĩ những chuyện xằng bậy,
như không có ý nghĩ trộm cắp, không nghĩ đến việc
sát sanh, không rắp tâm làm tổn thương người khác.
3. Nói lời chân thật: Không nói lời hư dối, không
mắng chửi nguyền rủa kẻ khác, không xúi dục mọi
người làm chuyện sai trái.
4. Việc làm chân chính: Giữ gìn trật tự, không làm
ác, không sát sanh, không trộm cắp v.v...
5. Nếp sống chân chính: Làm các việc có lợi cho xã
hội và chọn nghề nghiệp chính đáng.
15
6. Nỗ lực chân chính: Nỗ lực làm việc thiện, tránh
những việc sai trái, tội lỗi.
7. Nhớ nghĩ chân chính: Thường nghĩ nhớ đức Phật
và ghi nhớ lời dạy của Ngài.
8. Chuyên chú chơn chánh: Nghĩa là tập trung tinh
thần (đúng với chánh pháp).
Bát chánh đạo là giới luật trọng yếu của người học
Phật. Người hành trì Bát chánh đạo tâm hồn sẽ thanh
khiết, hành vi đoan chánh và có một tương lai tươi
sáng, hạnh phúc
Bài 34: HỌC ÐẠO
Có vị sa môn nọ ban đêm tụng kinh Di giáo của đức
Phật Ca-diếp. Tiếng tụng nghe bi ai như hối hận và
thối chí. Ðức Phật hỏi thầy sa môn:
- Xưa kia ở nhà thầy từng làm nghề gì?
Ðáp rằng:
- Con thích gảy đàn cầm.
16
- Vậy nếu dây đàn bị chùn thì thế nào?
- Thưa, không kêu.
- Dây đàn quá căng thì sao?
- Dạ, tiếng kêu chát và ngắn.
- Còn không quá căng và không quá chùn thì sao?
- Tiếng đàn sẽ ngân dài.
Ðức Phật dạy:
- Sa môn học đạo cũng như vậy, nếu giữ tâm chừng
mực thì có thể đắc đạo. Ðối với sự tu tập nếu quá gấp
gáp thì thân sẽ mỏi mệt. Thân nếu mỏi mệt thời ý sẽ
sanh phiền não. Ý nếu sanh phiền não tức sẽ thối chí.
Nếu thân đã thối chí thì tội sẽ lớn mạnh. Chỉ có thanh
tịnh an lạc thì đạo mới không mất.
BẬC HỌA SƯ VĨ ÐẠI
17
Vào thời nhà Ðường, hoàng đế
rất sùng tín Phật giáo. Vua chiêu
mộ hàng loạt các bậc họa sư đến
đẽo đục các vách núi ở Ðôn
Hoàng, kiến thiết các động đá,
nhào nặn nên các bức bích họa Phật giáo và tượng
Phật để truyền bá Phật giáo.
Có họa sư nọ, nguyên là một tín đồ Phật giáo thuần
thành, phát nguyện điêu khắc một trăm vị đại Bồ-tát
với các tư thế khác nhau. Nơi động đá ông ấy làm việc
có một ô cửa, ánh sáng và không khí theo lối ấy để
vào trong động. Ðến buổi chiều, khi hoàng hôn buông
xuống, ông phải thắp đèn mới có thể thấy rõ mọi vật.
Làm việc suốt hơn mười năm, ông không khi nào rời
khỏi động nên quên hết bầu trời ở ngoài. Ông chỉ chú
tâm cần mẫn đến việc mô phỏng và sáng tạo.
Một hôm, ông đếm thử các bức tượng đã hoàn
thành thì thấy được chín mươi chín bức rồi, chỉ còn
một vị nữa thôi thì có thể hoàn thành tâm nguyện.
18
Thế là ông miệt mài cố hình dung ra một vị Bồ-tát có
vẻ mặt nghiêm nghị, nhưng dù cố thế nào cũng nghĩ
không ra dung mạo mới. Nhiều ngày sau, một tối nọ,
ông nằm mộng thấy một vị Bồ-tát thân sắc vàng óng
ánh nói với ông rằng:
- Không nên phí sức như vậy, đã đủ một trăm tượng
rồi, ông họa sư ạ!
Họa sư tỉnh dậy, cẩn thận đếm lại một lần nữa
nhưng vẫn chỉ được chín mươi chín bức tượng. Ông
cảm thấy rất buồn nên quyết định ra ngoài tìm các tập
tranh về vẽ. Ngoài biên cương cảnh vật lạnh lẽo hoang
vu, sa mạc chạy tít tận chân trời, chẳng một dấu chân
người, chỉ may có đâu đôi ba vị tu khổ hạnh trên các
chóp núi. Ông tìm đến một vị tăng và nhờ vị ấy chỉ
giáo cho mình.
Vị tăng ấy nói:
- Anh không cần tìm kiếm gì cho mệt, giấc mộng
của anh thật linh dị, đúng là đủ một trăm vị rồi đó!
19
Họa sư giật bắn mình, cho rằng vị Tăng đã đùa mình.
Nhưng vị ấy vỗ vai ông họa sư, trang trọng nói tiếp:
- Anh rời quê hương, ngàn dặm xa xôi đến đây hiến
mình cho Phật pháo, sự cống hiến và tinh thần vĩ đại
này chính là hành vi của Bồ-tát, chín mươi chín vị cộng
thêm anh chẳng phải đủ một trăm vị đó sao?
Vị họa sư quá khiêm tốn và không dám nghĩ như
vậy nên vội vàng cáo từ vị Tăng. Về sau, hoàng đế biết
được chuyện này bèn hạ chiếu khen thưởng. Ở một
đoạn trong thánh chỉ, vua ra lệnh cho điêu khắc dung
mạo của vị họa sư để lưu lại kỷ niệm. Cuối cùng, vị họa
sư kia cũng hoàn thành ước nguyện vĩ đại là điêu khắc
một trăm vị Bồ-tát
LỤC ÐỘ
Chúng ta qua sông, muốn từ bờ này qua bờ bên kia
thì nhất định phải đi ngang cây cầu hoặc đi thuyền bè.
20
Cũng vậy, người học đạo muốn từ bờ sanh tử khổ đau
bên này vượt thoát sang bờ Niết-bàn an lạc bên kia
thì tất yếu cần có phương pháp tu tập giống như công
năng của chiếc cầu và con thuyền. Phương pháp này
có sáu: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định
và trí tuệ. Bây giờ xin giải thích các phương pháp trên
như sau:
1. Bố thí: Gồm tài thí, pháp thí và vô úy thí.
a. Tài thí: Tùy khả năng kinh tế của bản thân mà
đem của cải giúp đỡ cho những kẻ nghèo khó.
b. Pháp thí: Tùy theo trình độ nhận thức đúng đắn
của mình rồi theo đó hướng dẫn mọi người kính trọng
Phật pháp.
c. Vô úy thí: Tùy theo oai đức của mình, cứu giúp
người khác thoát khỏi sự nguy hiểm và sợ hãi.
2. Trì giới: Giới có nghĩa là quy tắc. Tuân theo giới
luật sẽ khiến tất cả hành vi trở nên đúng đắn. Cả ý
nghĩ, hành động và lời nói đều được thanh tịnh hóa,
không còn phạm lỗi lầm nữa. Giới có nhiều loại, hễ là
những việc thích hợp chuẩn mực đạo đức thì nên làm
21
theo. Bát chánh đạo, năm giới, mười điều thiện chính
là những khuôn phép mà chúng ta nên hành trì.
3. Nhẫn nhục: Tức là nhẫn chịu sự đau khổ trong
những nghịch cảnh như: hạn hán, giông bão, động
đất, nóng lạnh... của hoàn cảnh; sự ngheøo khổ, bệnh
tật, đói khát... của đời người; lòng tham lam, sân hận,
oán hờn... của tâm lý.
4. Tinh tấn: Người học Phật kể từ khi phát tâm Bồ-đề
rộng lớn cho đến lúc thành Phật, quả thực thời gian rất
dài và trách nhiệm rất nặng nề. Cho nên phải có một
tinh thần không sợ sệt, dũng mãnh và tinh tấn; phải
nỗ lực chuyển hóa tâm lý và các hành vi tà hạnh như
tham lam, sân hận, ngu si; tu tập các phẩm hạnh tốt
đẹp như bố thí, trì giới, nhẫn nhục v.v... phải có một
tinh thần không biết mệt mỏi mới diệt trừ được tập
quán bất thiện nhiều đời và tích lũy vô lượng công đức
để bước dần lên quả vị Bồ-tát, Phật.
5. Thiền định: Thường ngày thân tâm chúng ta quen
với lối sống loạn động và ý chí lại bạc nhược. Nếu
muốn tiến đến sự nghiệp vĩ đại, thành Phật thành
Thánh thì quả thực rất khó thành tựu. Tu tập thiền
định khiến tư tưởng đi vào khuôn phép thánh thiện,
22
tinh thần an định, sau nữa là thanh lọc dục niệm và tất
cả vọng tưởng. Người thực tập thiền định nhuần
nhuyễn thì sức chuyên chú rất mạnh, ý chí vững vàng
và không dễ bị hoàn cảnh cám dỗ, lại thêm thân thể
được nhẹ nhàng, an lạc và tự tại. Niệm Phật là một
phương pháp thiền định, miệng niệm danh hiệu Phật,
tâm quán tưởng tướng hảo trang nghiêm của Phật thì
tự nhiên sức chú ý được tập trung. Cho nên, niệm Phật
cũng là một phương pháp tốt để tu tập thiền định.
Chúng ta đừng bao giờ cười cợt cho rằng niệm Phật là
việc làm mê tín.
6. Trí tuệ: Chúng ta học Phật, một mặt cần tiếp thu
học vấn, tri thức, kỹ năng của thế gian, rồi tùy khả
năng trợ giúp chúng sanh khiến họ được lợi ích. Mặt
khác, nghiên cứu Phật pháp, học rộng, thông hiểu, tư
duy, cầu chứng để đạt được đại trí tuệ.
Tu hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền
định, trí tuệ thì có thể khiến chúng ta thành Bồ-tát,
thành Phật. Nó giống như chiếc cầu và con thuyền
nên được gọi là Lục độ.
TỨ ÐẾ
23
Giáo lý căn bản của Phật giáo chính là pháp Tứ đế.
Tứ đế tức là bốn chân lý: khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo
đế. Khổ đế và tập đế là đạo lý giải thích thế gian; diệt đế
và đạo đế là đạo lý nghiên cứu xuất ly thế gian.
- Khổ đế: Khổ đế có nghĩa là khổ não, bất an. Ngay
trong thân thể và tinh thần của chúng sanh luôn có sự
tồn tại của khổ não và bất an. Có thứ khổ não vốn có
và có từ lúc sanh, có thứ khổ não sanh ra từ cuộc
sống, từ tuổi già sức yếu, từ bệnh tật và từ cái chết. Ở
phương diện con người mà nói thì có khổ não thương
yêu mà biệt ly, khổ não mong cầu nhưng không được,
khổ não oán đối ghen ghét và khổ của ngũ ấm xí
thạnh. Ðức Phật dùng trí tuệ quán sát các hiện tượng
của thế gian và đưa ra kết luận rằng thế gian là một bể
khổ.
- Tập đế: Tập đế có nghĩa là chiêu tập. Nguồn gốc
của khổ não chính là do ảnh hưởng từ các tâm lý xấu,
ví dụ như: tham lam, sân hận, ngu muội, kieâu mạn,
nghi hoặc, tà kiến v.v... Nó ảnh hưởng đến lời nói, việc
làm, dần dà trở thành thói quen, hình thành một lực
lượng; mà lực lượng này còn được gọi là tập lực, tức là
24
lực lượng được tích lũy từ thói quen và cũng chính là
sự chiêu tập của khổ não.
- Diệt đế: Chúng sanh đã biết sanh tử là khổ, lại biết
nguồn gốc của sự khổ, muốn trừ bỏ nó cần phải diệt
khổ não. Diệt trừ khổ não, thoát khỏi sanh tử, ra ngoài
vòng luân hồi, đạt đến cảnh giới thanh tịnh vĩnh hằng
an lạc, đó gọi là chân lý của diệt đế.
- Ðạo đế: Là phương pháp diệt trừ khổ não, hướng
dẫn chúng sanh đến cảnh giới thanh tịnh vĩnh hằng,
an lạc. Lời huấn thị thiết thực vô cùng trọng tâm, vô
cùng chính xác mà đức Thế tôn đã để lại cho chúng ta
chính là Bát chánh đạo.
Chúng ta hiểu rõ Tứ đế, thực hành đạo đế thì thân
tâm sẽ đạt được sự an lạc.
TỨ VÔ LƯỢNG TÂM
Chúng ta phát tâm làm những việc tự lợi lợi tha thì
phải có đầy đủ tâm từ bi hỷ xả lượng vô biên đối với
chúng sanh. Có tâm vô lượng như vậy mới có thể thực
hiện tất cả hành vi hiền thiện. Tứ vô lượng tâm bao
25
gồm: tâm từ vô lượng, tâm bi vô lượng, tâm hỷ vô
lượng và tâm xả vô lượng.
Vô lượng có nghĩa là không thể hạn lượng. Chúng
sanh vô lượng cho nên đối tượng làm ích lợi người
khác cũng phải vô lượng. Chư Phật, chư Bồ-tát tạo vô
lượng công đức, độ vô lượng chúng sanh, cho nên có
tâm nguyện vĩ đại: “Chúng sanh độ hết, mới chứng
Bồ-đề; địa ngục chưa trống, thề không thành Phật”.
Dưới đây xin lần lượt giải thích các tâm vô lượng như
sau:
- Tâm từ vô lượng: Từ là nhân ái, có nhân ái thì một
mặt khiến người vui vẻ, không khởi một ý nghĩ não hại
người khác; mặt khác, lòng dạ hiền từ, không khởi
tâm giận hờn, tự nhiên, hòa nhã, rộng lượng, hài hòa.
- Tâm bi vô lượng: Tâm bi có nghĩa là tâm thông
cảm, thương xót sự khổ đau của người khác, dứt trừ
khổ não cho người. Luôn luôn nhớ nghĩ đến tâm từ bi,
vĩnh viễn không thối chuyển tâm ấy, mãi mãi không
xao lãng việc giúp đỡ mọi người, gọi là tâm bi vô
lượng.
26
- Tâm hỷ vô lượng: Hỷ là hoan hỷ, thấy người làm
việc thiện thì không ngăn cản, hoặc họ có chuyện vui
mừng thì cũng không nên có sự đố kỵ, mà trong lòng
nên vui vẻ hướng đến họ chúc mừng, giúp họ thành
công. Thường thường làm như vậy, mãi mãi làm như
vậy thì gọi là tâm hỷ vô lượng.
- Tâm xả vô lượng: Xả là bình đẳng, nghĩa là đối với
tất cả chuyện oan gia nghịch cảnh, việc không như ý,
trong tâm vẫn an tịnh, không có một chút oán hờn.
Ðối với mọi cảnh thuận duyên cũng không ái luyến.
Tình cảm và lý trí được giữ thăng bằng, không vì ngoại
cảnh mê hoặc mà dao động, con người sẽ được đứng
đắn, hòa bình. Ðây gọi là tâm xả vô lượng.
Tứ vô lượng tâm là những pháp rất trọng yếu để
thực hành hạnh Bồ-tát.
LÀM THIỆN
Ðức Phật dạy mọi người làm các việc thiện. Vậy chữ
“thiện” mà Ngài muốn nói có nghĩa là tất cả những
gì có thể khích lệ con người tiến bộ, có thể đưa đến
27
hạnh phúc và lợi ích cho tha nhân. Thiện gồm mười
một loại:
1. Tín tâm: Có niềm tin sâu sắc đối với đạo lý làm
thiện được phước, làm ác gặt hái điều không tốt.
2. Bất phóng dật: Tuân thủ tập quán đạo đức, vun
bồi hành vi hiền thiện và mãi mãi giữ gìn các việc này.
3. Khinh an: Khiến thân tâm khỏe mạnh, nhẹ nhàng.
4. Xả: Chánh trực, bình đẳng, thân tâm không có
tình huống hôn trầm.
5. Tàm: Cảm thấy xấu hổ khi mình có những hành vi
sai trái, do đó mà không làm ác nữa.
6. Quý: Ðối với những hành vi sai trái mà mình đã
làm, cảm thấy xấu xa khi có tội với người khác, do đó
chấm dứt không làm ác nữa.
7. Vô tham: Không ái luyến và chạy theo hoàn cảnh
khoái lạc.
8. Vô sân: Không giận hờn, phẫn nộ khi gặp nghịch
cảnh.
9. Vô si: Có nhận thức rõ ràng xác thực đối với mọi
việc.
28
10. Bất hại: Nhân từ thương yêu động vật, có lòng
trắc ẩn và cảm thông.
11. Cần: Vâng theo lời giáo huấn đạo đức, siêng
năng học tập, dõng mãnh tinh tấn.
Người thường giữ gìn các hành vi thiện tâm thì tâm
hồn thanh khiết, hành vi cao thượng, đời sống hạnh
phúc an vui.
BÁO ÂN
Làm người thì phải biết ơn và đền ơn. Ngoài công
ơn của cha mẹ thầy cô, còn có hai ơn nữa mà chúng ta
không được quên mất và cần phải báo đáp, đó là ơn
của Phật vàø ơn của chúng sanh.
1. Ơn Phật: Ðức Thế tôn xuất hiện ở nhân gian đem
chân lý “cuộc đời là khổ, chúng sanh có thể thành
Phật” nói với mọi người, độ người thoát khỏi đường
mê, thành chánh giác. Ân đức này cần phải báo đáp.
2. Ơn chúng sanh: Ðức Phật dạy rằng chúng sanh từ
rất nhiều kiếp sống đã kết duyên qua lại với nhau,
hoặc làm cha mẹ, hoặc làm thân thuộc, hoặc làm thầy
bạn, quan hệ rất mật thiết. Ðời đời kiếp kiếp trong quá
29
khứ, mọi người đã có ơn với ta. Ðồng thời, các vấn đề
nhu yếu đời này như y phục lương thực, nơi ở, phương
tiện đi lại v.v... đều nhờ mọi người và xã hội duy trì
cung cấp. Ví dụ: người nông dân trồng ngũ cốc, người
công nhân làm công nghệ, thương nhân thì buôn
bán, thầy thuốc thì khám bệnh, cảnh sát thì duy trì trật
tự an ninh, nhân viên bưu điện thì truyền đạt tin tức,
thầy giáo thì dạy dỗ v.v... Mọi người giúp đỡ lẫn nhau,
nương tựa lẫn nhau, cống hiến hết năng lực của mình,
tiếp nhận mọi nhu cầu thiết yếu, thúc đẩy xã hội tiến bộ
và phồn vinh. Mọi người thật sự đều có ơn huệ đối với
ta.
Ðức Phật Ðã dạy: “Tương thử thân tâm phụng trần
sát, thị tắc danh vi báo Phật ân” (Ðem thân tâm này
để phụng sự cho xã hội và chúng sanh, đó là báo đáp
công ơn của Phật). “Trần Sát” là xã hội và chúng
sanh, chúng ta làm những việc có ích cho xã hội, thì
cũng có nghĩa là báo đáp ân Phật.
Bây giờ, chúng ta còn nhỏ, nên cần phải bồi dưỡng
các phẩm chất đạo đức tốt và cần nỗ lực học hỏi. Ðến
khi sự nghiệp học vấn và nhân cách được trưởng
30
thành thì chính lúc ấy là thời điểm để chúng ta báo
đáp ơn Phật và ơn chúng sanh.
PHIỀN NÃO
Nhà Phật gọi những chuyện ưu phiền, não loạn về
thân và tâm là phiền não. Phiền não có hai loại lớn:
loại thứ nhất là căn bản phiền não, loại thứ hai là tùy
phiền não. Căn bản phiền não có sáu loại: tham, sân,
si, mạn, nghi và ác kiến.
1. Tham: Ðối với vật chất thì muốn chiếm hữu và quá
theo đuổi. Ðối với tình cảm thì luyến ái không xả bỏ.
Hoặc là ham tiếc những vật của mình nên không chịu
bố thí (ban bố cho ai).
2. Sân: Là giận hờn thịnh nộ. Ðối với việc không
bằng lòng thì không thể nhẫn nhịn, đùng đùng nổi
giận, nóng nảy, thô tháo và trút cơn thịnh nộ lên
người khác, hoặc chửi bới, đánh đập v.v...
3. Si: Ngu si mê muội, không hiểu rõ chân lý, không
xác định được thiện ác, không phân biệt được trắng
đen, không biết rõ phải trái, trong tâm chỉ có dục
vọng và căm hờn, vì đó mà đưa đến các hành vi tội ác.
31
4. Mạn: Là kiêu mạn, thờ ơ, xem thường người khác,
cho rằng mình là tất cả, ưu việt hơn mọi người, không
chịu khiêm tốn học tập.
5. Nghi: Là hoài nghi, là người do dự không dứt
khoát, không có năng lực phán đoán. Ðối với Phật
pháp và vấn đề thiện ác thì do dự không nhất quyết,
kết quả là bỏ con đường chánh mà không chịu theo.
6. Ác kiến: Là người có ác kiến, kiến giải lệch lạc,
không tin nhân quả, không tin Phật pháp, không
kiêng dè điều gì cho nên mới làm tất cả mọi điều xấu
xa.
Các loại căn bản phiền não này chiếm cứ trong tâm,
và theo đó sản sinh ra rất nhiều phiền não nhỏ hơn,
cho nên gọi các phiền não nhỏ là tùy phiền não. Ví dụ
các tâm lý xấu như: không xấu hổ, căm hờn, che dấu,
đố kỵ, nịnh hót, kiêu ngạo, lười biếng, phóng túng, tán
loạn, bỏn xẻn .v.v... Cái tâm lý ấy có lúc chỉ đơn độc
nhiễu loạn tâm trí, có khi mấy loại cùng lúc xuất hiện,
khiến con người tâm thần không yên ổn, đau buồn và
thống khổ.
32
Tư tưởng có thể thao túng hành vi, tư tưởng tốt
sinh ra hành vi tốt, tư tưởng xấu ác sinh ra hành vi sai
trái. Cho nên, đức Phật dạy mọi người chú ý hễ tâm ý
được mạnh khỏe thì các phiền não sẽ không thể phát
sanh.
Tư tưởng không lúc nào dừng nghỉ, nếu phiền não
đã được ngăn chặn thì tư tưởng thấm nhuần pháp
thiện sẽ xuất hiện thay thế pháp ác. Cho nên, suy niệm
về Phật-Pháp-Tăng, nghĩ về bố thí, rộng lượng, nhẫn
nhịn, trì giới, tinh tấn .v.v... chính là phẩm chất đạo đức
cao đẹp trong đời sống người học Phật. Lúc nào cũng
nhớ nghĩ, thường thường nhớ nghĩ như vậy thì ý thức
sẽ được ý nghĩ thiện hun đúc, lâu dần ý nghĩ ác tự
nhiên bị tiêu diệt.
Phiền não dần dần trừ sạch, ác nghiệp cũng theo đó
giảm đi. Ðời sống quang minh chánh đại, sẽ bước trên
con đường đúng đắn. Nếu phiền não được đoạn trừ
một cách triệt để thời sẽ đạt đến giai đoạn giải thoát
luân hồi, vượt ra ngoài ba cõi.
PHẬT PHÁP
33
Trong hành trình giáo hóa suốt bốn mươi chín năm,
đức Phật Ðã giảng thuyết hơn ba trăm hội với nhiều
nội dung rất phong phú. Theo như chân lý mà đức
Thế tôn đã thể nghiệm thì mạng sống luân chuyển liên
tục chứ không hạn cuộc trong một thời kỳ nhất định.
Ðã là sự sống thì không sao tránh khỏi tạo nghiệp, sự
sống hiện hữu thì nghiệp báo cũng đồng thời hiện
hữu, trong đó có cả nghiệp thiện lẫn nghiệp ác.
Nghiệp quá khứ đưa đến quả hiện tại, nghiệp hiện tại
đưa đến quả tương lai. Nó hỗ tương làm nhân quả cho
nhau, tạo nên một dòng tiếp nối vô cùng vô tận của
bể nghiệp mênh mông và ngút ngàn kiếp sống.
Dù cho cuộc đời có nhiều nỗi thống khổ nhưng đức
Phật vẫn tuyệt đối không dạy mọi người phải yếm thế,
và cũng chẳng chủ trương bi quan. Bởi đức Phật xét
thấy trong vòng luân chuyển không cùng ấy vẫn tiềm
tàng khả năng giải thoát, tất nhiên khổ não cũng sẽ có
hồi chấm dứt. Cho nên, Ngài dạy chúng sanh hãy đối
mặt với hiện thực khổ đau để tìm ra nguyên nhân đưa
đến đau khổ, và chọn lựa phương cách loại bỏ chúng
thì biết được cảnh giới sau khi thoát khổ. Nếu làm
34
được vậy, đời sống tương lai sẽ xán lạn toàn mỹ và
chẳng phải là chuyện ngoài tầm tay.
Phương pháp giải thoát khổ đau tuy nhiều nhưng
có thể tóm gọn như sau:
“Không làm các việc ác,
Hãy làm các việc lành,
Giữ tâm ý trong sạch,
Ðó là lời Phật dạy”.
Ngoài điều này ra chúng ta cũng cần phải:
- Giữ năm giới: Không sát sanh, không trộm cắp,
không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.
- Làm mười điều thiện: Không sát sanh, không trộm
cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói lời ác
độc, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời hoa mỹ,
không tham lam, không sân hận, không si mê.
- Thực hành Bát chánh đạo: Chánh kiến, chánh
nghiệp, chánh tinh tấn, chánh tư duy, chánh mạng,
chánh ngữ, chánh niệm, chánh định.
- Hành trì sáu ba la mật: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục,
tinh tấn, thiền định và trí tuệ.
35
Thực hành theo lời dạy của đức Phật thì cho dù ở
nơi nào, thời điểm nào, đời sống của chúng ta cũng
được tươi sáng và an lạc, đời này đến kiếp khác sẽ dần
trút bỏ gánh nặng phiền não. Khi đạt đến đời sống
hoàn toàn thanh khiết, công đức phước tuệ đầy đủ,
chúng ta sẽ tùy tâm đến nơi này hoặc nơi khác để làm
những việc lợi ích hơn, trang nghiêm hơn.
PHẬT A DI ÐÀ
Phật A Di Ðà có nghĩa là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng
Quang. Ngài và đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều là đạo
sư của ba cõi, là cha lành của bốn loài, là bậc thầy cao
cả của trời người. Lúc đương còn tu hạnh Bồ-tát, Ngài
có phát thệ nguyện rộng lớn, nguyện kiến tạo một cõi
nước thanh tịnh an lạc cho tất cả chúng sanh. Theo sự
ghi chép trong kinh, cõi tịnh độ ấy rất đẹp đẽ thanh
tịnh, được trang nghiêm bởi muôn vàn châu báu.
Nhân dân cõi ấy đều là những vị lương thiện ngay
thẳng, thân thể không còn bị khổ lụy bởi sanh già
bệnh chết, tâm tánh sạch hết các phiền não như: tham
lam, sân hận, kiến chấp sai lầm và kiêu mạn.
36
Chúng sanh cõi Tịnh độ ngày ngày được nghe đức
Phật A Di Ðà nói pháp, được gần gũi với các vị bằng
hữu thánh thiện. Một khi sanh về đây thì tu tập cho
đến lúc thành tựu rồi mới trở lại nhân gian cứu giúp
mọi loài; nhưng phải là những người thiện mới có thể
sanh về nơi đây. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ có
nói rằng:
1.Phải là những người quy y Tam bảo.
2.Người phát tâm Bồ-đề.
3.Người hiếu thảo với cha mẹ.
4.Người tu tập mười điều thiện.
Hằng ngày niệm danh hiệu đức Phật A Di Ðà, tưởng
nhớ đến các hạnh nguyện vĩ đại trang nghiêm, học
theo hạnh nguyện của Ngài, làm điều ích lợi cho
chúng sanh thì tự nhiên những người ấy thân tâm
được an lạc và sẽ được Phật A Di Ðà hộ niệm sanh về
tịnh độ. Ðức Phật A Di Ðà với những hạnh nguyện, cõi
nước, nhân dân ... chính là những điều mà đức Phật
Thích Ca Mâu Ni đã giới thiệu với các đệ tử của Người.
Về sau, những lời ấy được biên chép thành một tập
sách có tên là kinh A Di Ðà
KINH A DI ÐÀ
37
Vì sao đức Phật ấy có danh hiệu là A Di Ðà? Này
Xá-lợi-phất! Ðức Phật ấy có hào quang rực rỡ chiếu
khắp mười phương thế giới mà không bị chướng ngại
cho nên gọi là A Di Ðà. Vả lại, này Xá-lợi-phất! Thọ
mạng của đức Phật và nhân dân cõi tịnh độ thì vô
lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp1
cho nên gọi là A Di Ðà.
Này Xá-lợi-phất! Ðức Phật A Di Ðà có vô lượng vô
biên chúng đệ tử Thanh văn, đều là những vị A-la-hán,
chẳng thể tính toán biết được số ấy, và chúng Bồ-tát
lại cũng như vậy. Xá-lợi-phất! Cõi nước đức Phật ấy
thành tựu công đức trang nghiêm như vậy. Này
Xá-lợi-phất! Chúng sanh sanh về cõi nước cực lạc đều
là những bậc A-bệ-bạt-trí2
, trong đó Nhất sanh bổ
xứ3
số nhiều vô kể, chẳng phải tính đếm có thể biết
được. Chỉ có thể nói rằng số ấy vô lượng vô biên
A-tăng-kỳ.
Xá-lợi-phất! Chúng sanh nghe được lời này nên
phát nguyện sanh về nước ấy. Bởi vì sao? Vì được trú
ngụ cùng với các bậc thánh. Xá-lợi-phất! Không thể
38
chỉ chút ít nhân duyên thiện căn phước đức mà có thể
sinh về nước ấy. Xá-lợi-phất! Nếu có người nam hoặc
người nữ nào nghe được danh hiệu Phật A Di Ðà rồi
hết lòng niệm danh hiệu Phật ấy, hoặc là một ngày,
hai ngày, ba ngày... cho đến bảy ngày mà nhất tâm bất
loạn thì khi lâm chung người đó sẽ được đức Phật A Di
Ðà và các thánh chúng hiện đến trước người ấy. Do đó,
khi lâm chung, tâm người ấy không điên đảo, liền
được sanh về cõi cực lạc của đức Phật A Di Ðà.
Xá-lợi-phất! Ta thấy việc ấy rất ích lợi cho nên mới nói
ra. Nếu có người nào nghe lời Ta nói, hãy nên phát
tâm sanh về nước ấy.
ÐỨC PHẬT DƯỢC SƯ VÀ BỒ-TÁT DI LẶC
Trong các đức Phật có một vị mang danh hiệu là
Dược Sư Lưu Ly Quang Như lai. Cõi nước của đức Phật
này rất thanh tịnh trang nghiêm, chúng sanh ở đó đã
sạch hết các phiền não và xã hội không còn chuyện
xấu ác. Lúc đang còn tu hạnh Bồ-tát, Ngài từng lập thệ
39
nguyện rộng lớn khiến chúng sanh cầu gì được nấy,
trong đó có một lời nguyện như vầy: “Nếu người nào
mắc bệnh mà không có thuốc men, không gặp được
thầy thuốc, chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật Dược Sư
thì thân tâm kẻ ấy liền được an lạc và mạnh khỏe lại
như cũ”. Bởi đức Phật này có lời nguyện rất vĩ đại là
nguyện tiêu trừ tai nạn, tăng thêm tuổi thọ cho mọi
người nên người đời thường xưng tụng Ngài là Tiêu
Tai Diên Thọ Dược Sư Phật.
Bồ-tát Di Lặc là vị Phật kế tiếp đức Phật Thích Ca
Mâu Ni và sẽ sanh xuống thế giới chúng ta. Theo lời
kinh ghi lại thì Bồ-tát Di Lặc giáng sinh từ cung trời
Ðâu Suất. Lúc đó, thế giới này rất lý tưởng: đẹp đẽ, hòa
bình, yên ổn, nhân dân vui vẻ, thuận hòa, giữ gìn phép
tắc đạo đức xã hội, cùng sống trong đời sống hạnh
phúc tiến bộ.
Bồ-tát Di Lặc đem Phật pháp ban bố khắp nơi,
khuyên mọi người giữ năm giới, mười điều thiện, thực
hành Bát chánh đạo.... Dân chúng lúc ấy đều rất tin
40
tưởng thực hành theo lời dạy của Ngài nên đời sống
hiện thời rất an lạc và đời sau sanh lại nhân gian hoặc
sanh lên cõi trời. Ngoài ra cũng có một số vị phát tâm
Bồ-đề, tích cực tu tập hành thiện, làm những việc lợi
người lợi mình, thành Phật chứng thánh. Bức tượng
mà ta thường thấy đặt trước chùa chính là Bồ-tát Di
Lặc. Nay chúng ta kết duyên với Ngài là vì muốn gieo
xuống hạt giống làm Phật trong tương lai, và muốn
tạo duyên lành để được Ngài độ thoát.
VĂN THÙ VÀ PHỔ HIỀN
Bồ-tát Văn Thù là một vị Bồ-tát phát chí nguyện đại
thừa, là bậc có trí tuệ đệ nhất và rất có tài trong việc
hóa độ chúng sanh. Ðặc biệt, Ngài có tài biện luận nên
giáo lý mà Bồ-tát giảng giải luôn có khả năng hướng
dẫn con người đến chỗ chí thiện. Số người đạt đến sự
giác ngộ do chính Ngài dìu dắt nhiều vô kể.
41
Trong lúc nói kinh Hoa Nghiêm, đức Phật có khen
ngợi rằng: “Bồ-tát Văn Thù luôn là mẹ vô lượng chư
Phật, là bậc thầy của vô số Bồ-tát, là vị giáo hóa thành
tựu cho rất nhiều chúng sanh”. Bồ-tát Văn Thù vì
thương tưởng đến tất cả chúng sanh nên phát nguyện
vĩ đại như vầy:
- Nếu chúng sanh cần phải hiện thân người giàu có,
kẻ bần cùng, người đức hạnh, kẻ gây nhiều tội ác,
thậm chí phải hiện thân người đồng nghiệp mới có thể
giáo hóa được họ thì tôi xin nguyện làm các thân ấy.
Rồi dần đem giáo lý hướng dẫn, cảm hóa khiến họ
được hạnh phúc ngay kiếp sống hiện tại và đời sau
cũng được giải thoát.
Ngài hướng dẫn và thanh tịnh hóa đời sống cho tất
cả mọi người, luôn luôn phát nguyện, luôn luôn làm
những việc có ích cho mọi loài nên Bồ-tát thành tựu
công đức rất tối thượng. Bồ-tát Văn Thù thường cỡi
con sư tử có bộ lông màu xanh, đây tượng trưng cho
sự dũng mãnh không sợ sệt và chí nguyện không bao
42
giờ thối thất của Ngài. Bồ-tát là tấm gương sáng cho
tất cả chúng ta noi theo.
Bồ-tát Phổ Hiền cũng là một vị Bồ-tát phát chí
nguyện đại thừa và có vô lượng vô biên công đức.
Ngài lập nguyện rằng: “Cõi hư không có thể cùng
tận, chúng sanh có thể cùng tận nhưng thệ nguyện
của Tôi sẽ không bao giờ cùng tận. Cho dù gặp nhiều
khó khăn đau khổ, Tôi cũng xin nguyện không bao giờ
nản chí”. Ngài thường dạy mọi người:
- Nếu muốn thành tựu trí tuệ vĩ đại như chư Phật thì
cần phải đem tâm từ bi rộng lớn làm lợi ích cho tất cả
chúng sanh, giúp đỡ mọi người đi trên con đường
hoàn toàn vắng bóng tội ác và đau khổ.
Bồ-tát có mười hạnh nguyện rất vĩ đại: Một là lễ kính
chư Phật, hai là xưng tán Như lai, ba là rộng tu cúng
dường, bốn là sám hối nghiệp chướng, năm là tùy hỷ
công đức, sáu là thỉnh chuyển pháp luân, bảy là thỉnh
Phật trụ thế, tám là thường theo Phật học, chín là hằng
thuận chúng sanh, mười là hồi hướng cho khắp cả.
43
Ngài thường ngồi trên con voi trắng tượng trưng cho
Bồ-tát có tinh thần vững chãi, kiên nghị, sức mạnh vĩ
đại và có đủ sự kham nhẫn gánh vác tất cả những việc
khó khăn.
Bồ-tát Văn Thù và Bồ-tát Phổ Hiền là những vị tiêu
biểu cho Phật giáo đại thừa. Vì vậy, chúng ta nên hết
lòng tán dương và học theo hạnh nguyện của các
Ngài.
BỒ-TÁT QUÁN THẾ ÂM
Năm nọ, thành Hàng Châu bị bệnh ôn dịch hoành
hành, vụ mùa lại mất trắng nên dân chúng lâm vào
cảnh đói kém bệnh tật thật đáng thương. Một ngày nọ,
có một thiếu nữ nhan sắc kiều diễm ngồi trước mũi
một chiếc thuyền lớn đang cặp bến vào bờ hồ trong
thành. Vì những người đang lâm nạn, cô gái ấy có lời
thỉnh cầu rằng: “Hễ ai bỏ tiền mua cô thì cô sẽ về nhà
44
hầu hạ cho kẻ ấy và xin đem số tiền này giúp đỡ dân
chúng trong thành”.
Trên bờ hồ mọi người tranh nhau mua và chẳng ai
chịu nhường ai. Cuối cùng, họ quyết định dùng
phương pháp ném tiền, hễ ai ném tiền trúng cô gái thì
người đó được quyền rước nàng về nhà. Lúc ấy, tiền
đồng tiền vàng tiền bạc được ném tới tấp, tiền rơi đầy
ắp cả mũi thuyền, khoang thuyền nhưng chẳng có
đồng nào ném trúng nàng. Mọi người đều thất vọng
và không muốn ném nữa. Cô gái ngồi trên thuyền
mỉm cười hướng về những người trên hồ chắp tay
cám ơn rồi đem tất cả số tiền giúp người nghèo.
Tin này nhanh chóng làm chấn động khắp thành
Hàng Châu. Những người giàu có hết sức cảm động
trước sự nghĩa hiệp của nàng nên hăng hái bố thí. Lúc
đó, người nghèo được lương thực, kẻ bần cùng thì
được tiền của, người bệnh thì có thuốc chữa, mọi
người được no đủ và rất hạnh phúc.
45
Nhưng bỗng nhiên chiếc thuyền của cô gái bừng
lên ánh sáng muôn màu bao trùm khắp một vùng.
Một vị Bồ-tát dung mạo trang nghiêm đang chắp tay
với nụ cười hiền từ. Mọi người thấy vậy rất đỗi ngạc
nhiên. Ngài bảo: “Ta chính là Bồ-tát Quán Thế Âm, ta
hiện đến đây để thức tỉnh và khơi dậy lòng nhân từ của
mọi người. Thông cảm, thương mến và giúp đỡ mọi
người là tính cách cao quý, là trách nhiệm thiêng
liêng, là thiên chức mà nhân loại không thể chối từ.
Hôm nay, các người đã thể hiện những nghĩa cử thật
đáng khen ngợi, nhất định các người sẽ được hạnh
phúc”. Dân chúng nghe Bồ-tát dạy, vừa cảm động
vừa sung sướng, không ai bảo ai tự động chấp tay
đồng niệm nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát.
Câu chuyện này được phổ biến rộng rãi ở Trung
Quốc và làm cho niềm tín ngưỡng của mọi người đối
với Bồ-tát ngày càng sâu sắc hơn. Bồ-tát Quán Thế
Âm rất có duyên với dân chúng Trung Quốc. Ngài để
lại rất nhiều sự tích kỳ lạ và nghiễm nhiên chúng trở
46
thành một tín ngưỡng sâu đậm trong dân gian. Ngài
thường hiện thân nữ vì tánh cách của nữ giới nhu hòa
dịu dàng, điều này tượng trưng cho lòng nhân từ của
Bồ-tát đối với chúng sanh như mẹ hiền thương con.
Người đời gọi danh hiệu của Ngài là Bồ-tát Quán
Thế Âm cũng bởi có nguyên nhân và lai lịch của nó.
Ngài có chí nguyện vĩ đại, năng lực thù thắng. Hễ
người nào niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thì
dầu cho lâm vào hoàn cảnh nào, thậm chí gặp các nạn
như lửa lớn, bão dữ, tử hình, binh đao, giặc cướp,
bệnh tật v.v... Ngài đều từ bi đến cứu thoát, khiến
người đang lâm nạn thoát khỏi thống khổ được an vui
hạnh phúc. Vì luôn luôn lắng nghe tiếng đau khổ của
chúng sanh ở thế gian nên Ngài có danh hiệu là Quán
Thế Âm. Từ vô số kiếp về trước, Bồ-tát Quán Thế Âm
đã thành Phật nhưng do lòng từ bi bao la nên Ngài
không trụ vào Niết-bàn mà luôn hiện thân thuyết
pháp cứu độ mọi loài. Thậm chí, để phù hợp với hoàn
cảnh và mong ước của mỗi chúng sanh, Ngài còn hiện
47
thân Phật, thân Bồ-tát, Ðế thích, trưởng giả, Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo ni, thân nam, thân nữ, trẻ em v.v... để gần gũi
cuộc sống mọi người rồi sau đó dần cảm hóa giác ngộ
họ.
Mỗi khi tinh thần chúng ta bất an, phiền muộn, sợ
hãi, giận dỗi; cuộc sống chúng ta khó khăn, đói khổ,
bệnh tật, thất vọng, thì những lúc đó chúng ta nên
thành kính niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm. Sự
cảm ứng qua lại của tinh thần sẽ giúp ta loại bỏ những
phiền muộn, tinh thần được hài hòa thanh tịnh và tạo
ra một sức mạnh tinh thần khiến ta dễ dàng vượt qua
mọi khó khăn gian khổ.
CHẾT VÌ NÓNG GIẬN
Ðức Phật kể rằng:
Trong ao nước nọ có
một con rùa đen rất
nóng tính. Lúc trời hạn
hán, nước ao khô cạn
48
nên nó muốn chuyển đến một nơi khác. Hai chú chim
nhạn là bạn thân lâu nay của nó liền đem đến một
nhành cây rồi bảo rùa ngậm vào giữa, còn mỗi chú
chim ngậm vào mỗi đầu nhành cây. Trước lúc lên
đường, hai bạn ấy cẩn thận dặn bạn rùa đứng nói
chuyện rồi vỗ cánh bay lên cao.
Những đứa trẻ bên đường thấy chuyện này rất kỳ lạ
và khôi hài nên chúng vỗ tay chế giễu. Nghe tiếng
cười, rùa liền giận dỗi chửi mắng lại. Ðâu hay rằng
miệng vừa mở thì thân đã lìa nhành cây rơi trúng đá
chết tươi. Chim nhạn thấy bạn chết vô duyên nên đau
lòng than rằng:
- Ôi! Cứ luôn giận dữ như thế thì có lợi gì đâu!
CHÚ CHIM CÔNG HAM CHƠI
49
Ðức Phật kể: Có một con chim công mẹ đi kiếm ăn.
Lúc đi, nó dặn con giữ nhà và đừng đi chơi lung tung.
Ở nhà, chim con không nghe lời mẹ dặn, nó lén lút
trốn khỏi nhà rồi đi tìm lũ bạn chơi đùa. Dọc đường, nó
hết ăn trái cây lại tìm đến bờ suối uống nước. Thấy
đám cỏ, nó liền xòe cánh nhảy múa.
Kết quả, chim con bị thợ săn dùng lưới giăng bắt.
Lúc đó, nó mới biết mình quá khờ dại lầm lỗi và khóc
òa lên. Nhưng khóc để làm gì, ai bảo không chịu nghe
lời mẹ
NÓI CHUYỆN PHIẾM
Thầy Di-đa thích bàn luận việc tốt xấu của người
khác nên ai cũng xa lánh thầy. Hễ thấy thầy đi đến đâu
thì mọi người bỏ đi nơi khác hoặc ra dấu cho thầy đi.
Chẳng một ai muốn tiếp chuyện với thầy cả. Di-đa lẻ
loi và cảm thấy rất buồn.
Nhân chuyện xảy ra không mấy tốt đẹp với thầy
Di-đa, đức Phật dạy đại chúng:
50
- Nói chuyện không hay của người khác là một
hành vi không tốt, chẳng những gây tổn thương cho
mọi người mà còn tự chuốc lấy sầu muộn về mình.
Như thế không dại dột lắm sao
THÍ DỤ NẮM LÁ
Vào độ thu, dưới các tán cây trong rừng, những
chiếc lá vàng bắt đầu rơi đều trên mặt đất. Các thầy
Tỳ-kheo ba bốn người quây quần nói chuyện bên các
gốc cây. Quý thầy vui vẻ mãn nguyện cho rằng kiến
thức mà mình theo học với đức Phật bấy lâu nhiều vô
kể và phong phú lắm. Nghe mọi người bàn tán như
vậy, đức Phật liền đến giải thích. Ngài đến bên một gốc
cây bốc một nắm lá rồi chỉ rừng cây hỏi rằng:
- Các thầy thử nói xem số lá cây trong tay Như lai
nhiều hay số lá cây trong rừng nhiều?
Các thầy đồng trả lời:
- Bạch đức Thế tôn! Ðương nhiên lá trong rừng
nhiều hơn số là Người nắm trong tay.
- Ðúng thế! Giáo pháp mà Ta đã giảng dạy cũng ít
như nắm lá trong bàn tay. Nhưng, những điều mà Ta
51
chưa nói với các thầy còn nhiều lắm, nhiều như lá cây
trong rừng. Quý thầy nên nỗ lực tu tập học hỏi, đừng
nên lấy chút ít hiểu biết cho rằng đã đủ.
LÒNG KIÊN ÐỊNH
Châu-lợi-bàn-đà-già là một vị Tỳ-kheo có trí nhớ rất
kém, và điều tội nghiệp là thầy chẳng nhớ được một
câu kinh câu kệ nào. Mọi người tuy thương thầy
nhưng không cách gì để có thể khiến thầy nhớ được.
Ðức Phật thương thầy trí nhớ kém nên đích thân
đến hướng dẫn cho thầy học. Ngài giao cho
Châu-lợi-bàn-đà-già một cây chổi, một cái hốt rác rồi
bảo thầy vừa quét vừa đọc: “Quét sạch rác bẩn”.
Ðức Phật hy vọng với lối phối hợp việc học đúng như
công việc thực tế mà thầy đang làm sẽ dễ học hơn, dễ
gây ấn tượng sâu đậm trong trí nhớ của thầy hơn.
Nghe lời Phật dạy, Châu-lợi-bàn-đà-già hết lòng
học tập, thầy vừa quét rác vừa đọc: “Quét sạch rác
bẩn”. Thấy thầy kiên trì lẩm nhẩm một cách khó
nhọc, đại chúng ai cũng cảm động. Cứ hễ gặp Châu Lợi
ở đâu thì mọi người liền giúp thầy đọc: ”Quét sạch
rác bẩn, quét sạch rác bẩn...”.
52
Sau một thời gian dài kiên trì, thầy bắt đầu nhớ được
và biết rõ ý nghĩa của câu nói ấy. Thầy hiểu rằng, rác
bẩn là những thứ không dùng được nữa và cần phải
vứt bỏ. Lòng tham lam, sân hận, ngu si, kiêu ngạo
cũng vậy, nó là những thứ “rác rưởi độc hại”, phải
quét sạch thì cuộc sống mới hạnh phúc lâu dài. Lúc ấy,
tâm trí thầy bỗng nhiên bừng sáng, thầy cấp tốc đến
chỗ đức Phật cảm tạ sự chỉ dạy của Ngài.
Tinh thần kiên trì học hỏi của Châu-lợi-bàn-đà-già
thật đáng nể và đáng để chúng ta ghi nhớ trong lòng.
ÐẦU XÀ ÐUÔI RẮN
Có mẩu chuyện vui như vầy: Có
một con rắn. Hôm nọ không biết
vì nguyên cớ gì, đầu rắn bỗng cãi
nhau dữ dội với cái đuôi của nó.
Trước tiên đầu rắn bảo:
- Này đuôi! Tao có hai mắt nhìn đường, tao có
miệng để ăn no nên quyền thủ lãnh và dẫn đầu phải
thuộc về tao.
Cái đuôi cự nự lại:
53
- Không phải thế! Mỗi lúc bò về phía trước anh đều
dựa vào tôi, nếu tôi không hợp tác thì đố anh trườn
lên được.
Nói xong, đuôi rắn quấn chặt vào gốc cây suốt ba
ngày liền. Thấy đuôi quá cương quyết, đầu rắn bỗng
đâm hoảng và đành nhượng bộ cho cái đuôi. Ðắc
thắng, đuôi ngạo nghễ trườn về phía trước, nhưng do
thiếu kinh nghiệm dẫn đầu và cái đầu cũng làm ngơ
không giúp nên bò đâu được một đoạn thì cả hai rớt
ngay xuống hầm lửa chết không kịp ngáp.
Ðức Phật kể mẩu chuyện trên để nhắc nhở mọi
người rằng: cãi vã, giận hờn nhau chẳng bao giờ đưa
đến một kết quả tốt đẹp
KẾT BẠN
Một lần nọ, đức Phật và A-nan-đà
đi vào thành hóa duyên. Trên
đường đi, lúc hai thầy trò đến gian
hàng bán cá thì đức Phật đi chậm lại.
Thấy trên sạp bày bán rất nhiều cá và có để một ít lá cỏ
tranh buộc cá ở bênh cạnh, nên Ngài ghé chân
54
vào. Trước tiên đức Phật bảo thầy A-nan-đà đến nắm
mớ cỏ tranh rồi bảo thầy ngửi xem nó có mùi gì. Thầy
ngửi thì thấy có mùi hôi tanh rất khó chịu.
Khi thầy trò đi ngang một cửa tiệm bán hương liệu,
đức Phật lại ghé vào. Ðức Phật bảo thầy A-nan-đà sờ
các mảnh giấy gói hương liệu, rồi nói thầy ngửi tay
một lần nữa. A-nan-đà chỉ ngửi qua thôi đã thấy có
mùi thơm thơm dễ chịu.
Ðức Phật dạy:
- Kết bạn cũng giống như chạm
vào vật có mùi thơm và vật có mùi
hôi khó chịu. Gần gũi bạn hiền, thầy sẽ được học hỏi và
tiếp thu những điều hay lẽ phải từ họ; đời sống thầy sẽ
thăng hoa và thơm lừng những đức tính tốt đẹp như
mùi hương giữ lại trên tay. Làm bạn với kẻ xấu, thầy sẽ
bị nhiễm bởi những thói hư tật xấu từ họ và chuốc lấy
các hậu quả tồi tệ.
Chúng ta cần gần gũi những người bạn siêng năng,
tính tình hiền hậu, trung thành với bè bạn và tránh xa
55
lũ bạn lười biếng, tham lam, tránh xa những kẻ có tính
nết hung bạo.
ÐỨC PHẬT GIÚP ÐỆ TỬ XÂU CHỈ
Tôn giả A-na-luật là một vị tu
tập rất tinh tấn. Thầy chuyên
tâm đọc tụng lời Phật dạy có
khi suốt đêm không ngủ nghỉ.
Bởi lao lực lâu ngày như vậy
nên đôi mắt của thầy bị mù hẳn. Tuy rất buồn nhưng
thầy không bao giờ ủ rũ, mà ngược lại càng chuyên
cần tu tập hơn trước.
Một hôm, khi biết chiếc áo bị rách một mảnh, thầy
liền lấy kim chỉ vá lại. Làm được một lúc thì kim bị tuột
mối chỉ, do thầy không thấy đường nên cứ lúng ta
lúng túng mãi. Ðức Phật biết A-na-luật gặp khó khăn
bèn đến giúp thầy ấy xâu chỉ.
A-na-luật rụt rè hỏi:
56
- Xin hỏi huynh nào đang xâu chỉ giúp đệ vậy?
- Ta đây! Như lai đang khâu giúp thầy.
Ðức Phật vừa trả lời vừa vá lại chỗ rách trên áo. Thầy
A-na-luật đã bật khóc trong niềm tôn kính, cảm động.
Ðức Phật dạy đại chúng:
- Cảm thông và tận tình giúp đỡ người khác là trách
nhiệm mà chúng ta không nên chối từ.
Ðức Phật luôn lấy những hành động của bản thân
để làm những lời dạy sống động cho mọi người. Biết
đức Thế tôn giúp thầy A-na-luật, mọi người vô cùng
cảm động. Từ đó, đại chúng giúp đỡ, sách tấn lẫn nhau
và hết lòng vì mọi người.
NGƯỜI PHỤ NỮ THANH KHIẾT
Ở nước Xá-vệ có một người phụ nữ
chuyên làm công tác vệ sinh quét
dọn trên các đường phố mỗi ngày.
57
Bởi áo quần của cô lấm bẩn nên người trong thành
đều xa lánh cô, hễ thấy cô là họ vội bịt mũi đi nhanh
qua.
Ðức Phật bảo cô đến nghe pháp và khuyến khích cô
tinh tấn làm việc. Biết được tin này, dân chúng trong
thành dường như không tán thành cho lắm nên vội
đến trách đức Phật rằng:
- Bạch Thế tôn! Ngài thường nói với chúng con
những lời thanh tịnh, dạy mọi người hãy làm việc
trong sạch. Cớ sao nay Ngài lại nói chuyện với người
phụ nữ thấp hèn như thế? Chẳng lẽ Ngài không thật
sự cảm thấy việc này đáng ghét đó sao!
Ðức Phật nghiêm nghị nhìn mọi người một lượt rồi
đáp:
- Người phụ nữ kia giữ gìn cho thành phố sạch đẹp,
đó là sự cống hiến rất lớn đối với xã hội. Hơn nữa, cô ấy
cũng rất khiêm nhường, siêng năng làm công việc cô
đảm trách. Vậy tại sao mọi người lại khinh miệt cô ấy?
58
Lúc đó, cô lao công tắm gội sạch sẽ, thay đổi y phục
và nét mặt rạng rỡ đi ra diện kiến mọi người.
Ðức Thế tôn nói tiếp:
- Quý vị bề ngoài tuy sạch sẽ nhưng trong lòng lại
xấu xa, kiêu ngạo. Nên biết rằng, cái dơ bẩn bên ngoài
của cô ấy thì dễ rửa sạch, cái dơ bẩn trong lòng quý vị
mới là khó cải đổi.
Dân chúng trong thành biết mình đã sai nên từ đó
không dám chê bai người khác nữa.
TÍN TÂM
Phía Bắc thành Xá-vệ có một ngôi làng nhỏ ở cạnh
ngay bờ sông, đó là nơi đức Phật có chủ ý đến hóa đạo.
Oai nghi của Ngài khiến dân chúng trong thôn kính
trọng nhưng họ không tin Phật pháp.
Sau đó, khi đức Thế tôn rời thành Xá-vệ, Xá-lợi-phất
muốn tới chỗ đức Phật nên vội vã đi đến nhưng Phật
Ðã qua bên kia sông. Dưới sông, dòng nước vẫn chảy
rất xiết. Thấy bóng đức Phật, trong lòng Xá-lợi-phất
59
tràn trề niềm tin và lội ngay qua sông. Ở giữa dòng,
nước rất sâu và chảy mạnh nhưng Xá-lợi-phất không
nao núng, vẫn mạnh dạn bước tới và sóng dữ đã
không lay chuyển nổi. Cuối cùng Xá-lợi-phất qua được
bờ bên kia.
Xá-lợi-phất bước đến trước đức Phật, Ngài hiền từ
nhìn thầy với ánh mắt tán thán, khích lệ và bảo :
- Thầy là một người trí tuệ, có tín tâm, tinh tấn. Thầy
có thể học Phật, thành Phật và cứu độ tất cả mọi loài.
Xá-lợi-phất chiêm ngưỡng dung nhan của đức Phật
mà lòng ngập tràn niềm hạnh phúc. Dân chúng trong
thôn nghe đức Phật dạy và thấy hành vi kỳ lạ của
Xá-lợi-phất nên phát khởi niềm tin đối với Phật pháp.
NGƯỜI HOẰNG PHÁP
GƯƠNG MẪU
Tôn giả Phú-lâu-na rất nhiệt
tâm truyền bá Phật giáo và thầy
60
biện luận cũng vô cùng tài tình. Mỗi khi bàn luận với
mọi người, thầy thường khiến cho họ hoan hỉ và thán
phục. Do vậy mà thầy nổi tiếng là “thuyết pháp đệ
nhất”.
Mặc dầu nước Thâu-lô-na là một nơi không có văn
hóa nhưng thầy Phú-lâu-na vẫn xin đức Thế tôn cho
phép mình đến đó giảng đạo.
Ðức Phật dạy:
- Phú-lâu-na! Như lai rất taùn thán chí nguyện của
thầy nhưng dân chúng nơi đó thô lỗ, không dễ cảm
hóa đâu. Họ sẽ nhục mạ thầy đó!
- Họ chửi mắng con, con có thể nhận chịu được.
Con cảm thấy họ vẫn còn lương tâm vì họ không đánh
con.
- Còn giả như họ đánh ông, lấy đá ném ông?
- Con sẵng sàng tha thứ cho họ. Con lại cảm thấy họ
cũng còn rất tốt bởi họ chỉ đánh con mà chưa giết chết
con!
61
- Giả như họ giết thầy?
- Con sẽ hy sinh vì pháp, chết không có gì phải hối
tiếc.
Ðức Phật khen ngợi thầy ấy rằng:
- Phú-lâu-na! Tinh thần tu tập, truyền bá giáo pháp
và sự nhẫn chịu của ông thật đáng làm mẫu mực cho
tất cả tín đồ Phật giáo.
Tôn giả Phú-lâu-na hoằng pháp ở nước Thâu-lô-na
rất thành công và khiến vô số người quy y Phật pháp.
NGHIÊM CẤM THẦN THÔNG
Tôn giả Mục-kiền-liên là một trong mười đệ tử lớn
của đức Phật. Thầy nổi tiếng là bậc có thần thông đệ
nhất. Những việc mà người thường không thể thấy
được, nghe được và không làm được thì thầy lại thấy
được, nghe được và làm được. Ðức Phật không bao
giờ tán thành việc thi triển thần thông của thầy, bởi vì
sự kỳ diệu của thần thông chẳng có chút liên hệ gì đến
sự nghiệp giải thoát sanh tử.
62
Tôn giả Mục-kiền-liên luôn hết lòng bảo vệ Phật
giáo, sớt chia khổ cực cùng đại chúng nên rất được
mọi người yêu quý. Ðạo hạnh cao vời của thầy đã đưa
đến sự đố kỵ của hàng ngoại đạo và bọn họ đã rắp tâm
hại ngài. Một hôm, thầy đang thiền định dưới triền núi,
các ngoại đạo nhân dịp ấy lăn một tảng đá to từ dốc
núi xuống làm đè nát thân thể của thầy. Việc này khiến
mọi người vô cùng đau xót.
Ðức Thế tôn dạy đại chúng:
- Không nên ỷ lại nơi thần thông vì nghiệp báo
nặng hơn tất cả. Thầy Mục-kiền-liên là một ví dụ cho
điều này.
Chỉ có việc cần mẫn gìn giữ Phật pháp, học tập Bát
chánh đạo, cầu giải thoát khỏi nghiệp báo mới là
phương pháp tối thắng nhất. Phật giáo không bao giờ
dựa dẫm vào chú thuật, đoán số mệnh, lên đồng, xem
bói, đốt đồ vàng mã v.v... vì đây là bùa mê thuốc lú làm
nhiễu loạn lòng người. Ðệ tử Phật không nên làm
những việc này.
63
SÁM HỐI
Vua A-xà-thế nước Ma-kiệt-đà vì nghe theo lời
gièm pha của kẻ xấu nên đem cha ruột của mình bỏ
vào ngục tối rồi lên ngôi vua. Vua cha bị bệnh nặng và
băng hà ngay trong ngục. Vua A-xà-thế biết mình đã
phạm vào một lầm lỗi tày trời, do đó cảm thấy vô cùng
đau buồn hối hận đến nỗi sinh bệnh.
Vua A-xà-thế bị lương tâm giày vò cắn rứt, tâm hồn
không giây phút nào thanh thản. Nên cuối cùng, vua
quyết định đến diện kiến đức Phật và cầu Ngài chỉ
phương pháp để sửa mình.
Ðức Thế tôn ân cần dạy:
- Nguồn gốc của tội lỗi là do các tâm lý tham dục,
tàn bạo, tà kiến, kiêu ngạo v.v... ảnh hưởng và dẫn đến
hành vi sai trái. Ðại vương vì muốn làm vua, lòng tham
dục hừng hẩy nên mới làm ra chuyện lú lẫn mất hẳn lý
trí như vậy. Ðại vương phải sám hối!
64
A-xà-thế hỏi lại:
- Sám hối có nghĩa là gì?
- Sám hối là nhận rõ những chuyện lầm lỗi đã qua,
lập tức nói ra tội lỗi rồi sửa đổi và không làm chuyện
sai trái nữa. Làm được như vậy, tương lai sẽ có cuộc
sống tươi sáng và hạnh phúc.
Sau khi nghe Phật dạy, vua A-xà-thế tự nói ra lỗi lầm
của mình, lập thệ nguyện sửa đổi, làm thiện, quy y
Tam bảo và làm một tín đồ thuần thành của Phật giáo.
PHỤC THIỆN
Vua Chiên Ðàn tánh tình hung bạo, ưa chiến tranh
và thường thống lĩnh quân đội đi chinh phạt các nước
xa xôi. Về sau, vua tôn thờ Phật giáo, nhận rõ các điều
sai trái trước kia của mình, nên đối với các hành vi tàn
bạo ở quá khứ, vua hết mực chân thành sám hối. Kể từ
đó, vua bỏ ác làm thiện, chấm dứt chuyện chiến tranh,
giao hảo trở lại với các nước lân cận. Ở trong nước,
vua thi hành chính trị nhân từ, xiển bá Phật pháp.
65
Nhưng các vị quan vẫn hoài nghi: “Lỗi lầm đã gây rồi,
bây giờ sửa đổi thì có tác dụng gì đâu?”
Vua Chiên Ðàn vì muốn giải thích mối nghi hoặc
cho quần thần nên nghĩ ra một cách như vầy. Vua sai
người đem đến một chảo đựng đầy nước nóng, cho
thêm lửa dưới chảo để nước sôi liên tục rồi bỏ vào đấy
một chiếc nhẫn và bảo mọi người thọc tay vào lấy. Mọi
người chẳng ai dám thử.
Vua chậm rải nói:
- Trước đây ta rất hung ác, cực đoan và tàn bạo cho
nên tâm hồn không bao giờ được thanh tịnh. Giống
như nước trong chảo càng lúc càng nóng nên không
thể thò tay vào lấy chiếc nhẫn.
Vua Chiên Ðàn rút hết củi, đổ nhiều nước lạnh vào
chảo và đưa tay lấy chiếc nhẫn ra. Vua nói tiếp:
- Bây giờ ta không làm ác nữa, cải tà quy chánh,
chuộc lại những tội lỗi quá khứ. Do đó tội lỗi được tiêu
trừ, tâm tánh thanh khiết, thanh tịnh. Như dưới chảo
thôi đốt lửa, lại thêm nước lạnh vào thì có thể lấy được
chiếc nhẫn ở trong chảo.
66
Chư quần thần đều tỉnh ngộ, đồng thanh ca ngợi
vua Chiên Ðàn. Mọi người từ đấy đều sám hối, sửa lỗi
và làm một người tốt.
LA-HẦU-LA
Thuở nhỏ, La-hầu-la sống trong hoàng cung đã
quen với lối sống kiêu ngạo phóng túng nên rất thích
trêu đùa người khác. Vả lại, chú hay ưa nói dối nên
mọi người đều xa lánh. Một hôm, đức Phật đến thăm.
La-hầu-la cảm thấy rất vui. Chú lấy nước rửa chân cho
đức Phật. Sau khi rửa chân xong, đức Phật nói với chú
rằng:
- Nước trong chậu có thể
uống và súc miệng được không
La-hầu-la?
- Dạ không, đây là chậu nước rửa chân, nó đã bị bẩn
nên không thể sử dụng được.
- Ðúng vậy La-hầu-la! Chú cũ ng chẳng khác gì
chậu nước này. Thân tuy là dòng dõi vua chúa nhưng
chú bỏ sự phú quý của trần tục đ ể xuất gia học đ ạo,
việc đ ó vốn rất quý báu. Song, chú không chịu học
67
theo đ iều thiện, lại chẳng tu tập đ àng hoàng. Chú
giống như chiếc chậu nước này vậy, không có công
dụng gì hết!
La-hầu-la vô cùng xấu hổ, chú cúi đ ầu xuống và
đ em nước đ i đ ổ.
Ðức Phật hỏi:
-Bây giờ trong chậu không còn gì hết, có thể
đ ựng đ ồ ă n đ ược không, La-hầu-la?
-Bạch Thế tôn! Không đ ược ạ, nó đ ã đ ựng nước
bẩn, còn dính đ ồ bẩn nên không thể.
- Ðúng thế, chú cũ ng vậy. Tuy là một người xuất
gia tu hành nhưng lại có tiếng tă m không tốt,
chẳng khác gì chiếc chậu dơ không thể đ ựng đ ồ
ă n.
Ðức Thế tôn đ ưa ngón chân hất tung chiếc chậu,
nó lă n tròn trên đ ất. Một lúc sau cái chậu dừng lại,
đ ức Phật hỏi tiếp:
- Nếu cái chậu này bị hư, chú có tiếc
không, La-hầu-la?
68
- Cái chậu này thô sơ không có giá trị lắm nên
không đ áng tiếc.
- Ðúng, chú cũ ng như thế! Thân là đ ệ tử Phật
nhưng không giữ giới luật, miệng nói nă ng thô lỗ,
không thành thật trong lời nói. Với hành vi như vậy,
chú sẽ không đ ược đ ại chúng giúp đ ỡ, không
đ ược bậc có trí thương tiếc. Tiền đ ồ của chú đ au
khổ vô cùng.
Nghe lời dạy của đ ức Phật, La-hầu-la vô cùng ray
rứt. Dòng nước mắt ă n nă n lă n đ ều trên má, chú
quỳ xuống hết lòng xin sám hối. Từ đ ấy về sau,
chú sửa đ ổi lỗi lầm, làm một người thành thật, đ ứng
đ ắn, khiêm nhường. Mọi người đ ều kính trọng và
yêu thương chú.
BẬC TU HÀNH NHẪN NHỤC
Thuở xưa có ông vua nọ dẫn
theo rất nhiều cung phi mỹ nữ
vào rừng să n bắn. Nhà vua
mãi mê đ uổi theo một con thỏ
hoang còn các cung nữ phải đ ứng đ ợi dưới rừng
69
cây. Bất chợt thấy một vị tu hành đ ang ngồi trầm
mặc, các cung nữ liền đ ến tham vấn hỏi đ ạo. Khi
nhà vua trở về thấy thế liền nổi giận trách mắng
các cung nữ và vị tu sĩ kia. Vị tu sĩ khoan thai trả lời
vua rằng:
- Bần đ ạo chỉ hướng dẫn mọi người học nhẫn
nhục chớ chẳng có ý gì khác.
- Ha! Ha! Ngươi tự cho mình là người nhẫn nhục
sao? Ta phải thử xem ngươi tu nhẫn nhục đ ến mức
nào mới đ ược!
Nói xong, ông ta tuốt gươm chặt đ ứt cánh tay vị tu
sĩ .
- Bây giờ chắc chắn ngươi phải că m phẫn rồi!
Vị tu sĩ tuy rất đ au đ ớn nhưng vẫn khoan thai
nhìn vua đ áp rằng:
-Bần đ ạo không giận hờn đ âu, ôm lòng thù hận
chỉ đ ưa đ ến oan oan tương báo. Sau khi thành đ
70
ạo, người đ ầu tiên tôi hóa đ ộ chính là ngài, đ ến đ
ó nghiệp duyên sẽ chấm dứt.
Nhẫn nhịn và tha thứ, nét mặt của vị tu sĩ chẳng
biểu lộ chút gì thay đ ổi. Nhà vua rất cảm đ ộng và qu
ỳ xuống đ ất hết lòng sám hối.
Vị tu sĩ kia lấy tinh thần đ ức đ ộ đ ể báo oán,
hoàn thành trọn vẹn hạnh tu nhẫn nhục. Trong vô
lượng kiếp tu hành của vị ấy, đ ây là hành đ ộng huy
hoàng nhất. Về sau, nhờ tích lũ y công đ ức mà con
đ ường tu tập đ ược viên mãn, đ ó chính là đ ức
Phật Thích Ca Mâu Ni.
TỰ LỰC CÁNH SINH
Thiện-la-ni-tân rất sùng tín thần thánh. Hễ gặp việc
khó khă n là anh đ i tế thần khấn Phật. Nhưng, lần
này qua mười mấy ngày rồi mà lòng thành của anh
vẫn không mãn nguyện, không đ ược hạnh phúc.
Gần đ ây, anh ta lại có chuyện buồn phiền, thân thể
71
thường sanh bệnh. Thiện-la-ni-tân nghe nói đ ức
Phật thuyết pháp rất hay và có thể hóa giải những
khúc mắc cho mọi người, nên liền đ i yết kiến đ ức
Phật, cầu Ngài chỉ cho mình cách thức như thế nào
đ ể đ ược mạnh khỏe. Ðức Phật từ tốn bảo:
- Thiện-la-ni-tân! Ông thấy những người nông phu
kia chă ng? Mùa xuân họ cần cù gieo giống, cày xới,
mùa thu lại thu hoạch. Nếu họ không gieo giống,
không cày bừa mà hằng ngày chỉ cầu nguyện, làm như
thế họ sẽ thu hoạch đ ược vụ mùa không?
Anh liền đ áp:
- Không có chuyện đ ó! Nếu các người nông phu
không gieo mầm, không cày cấy thì dù cho cầu khấn gì
đ i nữa, họ cũ ng chẳng thu hoạch đ ược gì trên mảnh
đ ất hoang vu ấy.
- Ðúng thế, này Thiện-la-ni-tân! Cũ ng vậy, cầu
khấn thần linh không thể nào hết khổ đ au. Chỉ có tự
lo lắng cho bản thân, chú ý chuyện ă n uống, vận đ ộng
cơ thể, nghỉ ngơi, đ iều tiết cơ thể và tâm sinh lý cho
72
hợp lý thì tự nhiên sẽ đ ược mạnh khỏe giống như
mảnh ruộng đ ược cày cấy, dần dần tươi tốt.
Thiện-la-ni-tân nghe đ ức Phật dạy, trong lòng như
bừng sáng và tinh thần cảm thấy rất phấn chấn. Anh
liền quy y đ ức Phật, làm một tín đ ồ Phật giáo thuần
thành.
LUÂN HỒI
Ðức Phật dạy chúng ta rằng: “Mạng sống luân hồi
bất tận, chúng sanh mãi sống sống chết chết kéo
dài không dứt, giống như bánh xe chuyển đ ộng xoay
tròn cho nên gọi là luân hồi”.
Lúc luân hồi, do nơi thiện nghiệp mà đ ược sanh
lên cõi trời, do vừa có thiện nghiệp vừa có ác nghiệp
nên sanh vào nhân gian, do ác nghiệp nên sanh vào
đ ịa ngục ngạ quỷ hoặc súc sanh. Luân hồi và nhân
sinh có một mối quan hệ rất lớn. Xét về tánh của mỗi
con người mà nói thì trí tuệ hay ngu si, hiền lương
73
hay hư hỏng đ ều do tập khí truyền lại từ đ ời trước.
Còn về mặt hoàn cảnh thì phú quý, bần tiện, đ ược
mất, sống thọ, chết yểu, đ ều do hành vi đ ời trước
ảnh hưởng đ ến quả báo đ ời này.
Ðời quá khứ gây nhân thiện hoặc nhân ác đ ều đ
ưa đ ến quả báo, nhưng quả báo phải đ ợi duyên hỗ
trợ mới sanh đ ược. Ðời này nỗ lực, trung thành, dũ
ng cảm, siêng nă ng, giản dị, nhân từ, rộng lượng,
nhẫn nhịn .v.v..., những đ ức tính tốt này chính là
duyên hỗ trợ cho nhân thiện. Nếu chúng ta vận
dụng đ ược thiện duyên, thời có thể khiến cho
nghiệp thiện đ ời trước biểu hiện và dĩ nhiên là đ
ưa đ ến hạnh phúc tiến bộ. Cũ ng như vậy, do khắc
phục các hành vi không tốt như sự nóng nảy, tham
dục, tà kiến, kiêu ngạo v.v... cũ ng có thể làm cho các
ác báo đ ời trước không có đ iều kiện đ ược phát
khởi. Vậy tức là có thể hưởng trọn một kiếp sống mỹ
mãn. Chúng ta tin tưởng đ ạo lý Nhân duyên quán
của Phật giáo, xây dựng một thái đ ộ đ úng đ ắn về
74
nhân sinh, bồi dưỡng phẩm chất đ ạo đ ức cao
thượng, bỏ ác làm lành, một mặt đ ể trả nghiệp cũ ,
một mặt triển vọng vào tương lai. Ðược vậy thì cuộc
sống nhất đ ịnh sẽ đ ược cải thiện và tiến bộ. Như th
ế thì chắc chắn chúng ta sẽ không còn phải lo sợ về
kiếp sống luân hồi dài lâu và đ au khổ kia nữa.
75
KHI NHÌN THẤY HOA NÀY MỌI ƯU PHIỀN SẼ BIẾN MẤT
HÃY TINH TẤN

Más contenido relacionado

La actualidad más candente

Nhân quả thời đại khoa học
Nhân quả thời đại khoa họcNhân quả thời đại khoa học
Nhân quả thời đại khoa họcHoàng Lý Quốc
 
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 7 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 7 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordGiảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 7 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 7 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordNhân Quả Luân Hồi
 
Quần tiên gia ngôn lục
Quần tiên gia ngôn lụcQuần tiên gia ngôn lục
Quần tiên gia ngôn lụcHoàng Lý Quốc
 
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 5 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 5 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordGiảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 5 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 5 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordNhân Quả Luân Hồi
 
Lữ Tổ Thuần Dương Lược Truyện
Lữ Tổ Thuần Dương Lược TruyệnLữ Tổ Thuần Dương Lược Truyện
Lữ Tổ Thuần Dương Lược TruyệnPhát Nhất Tuệ Viên
 
Sau khi cầu đạo đừng quên đi tam bảo và tu đạo
Sau khi cầu đạo đừng quên đi tam bảo và tu đạoSau khi cầu đạo đừng quên đi tam bảo và tu đạo
Sau khi cầu đạo đừng quên đi tam bảo và tu đạoHoàng Lý Quốc
 
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 8 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 8 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordGiảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 8 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 8 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordNhân Quả Luân Hồi
 
17 7-22-kinh chiêm sát
17 7-22-kinh chiêm sát17 7-22-kinh chiêm sát
17 7-22-kinh chiêm sátLong NguyenThe
 
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 2 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 2 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordGiảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 2 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 2 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordNhân Quả Luân Hồi
 
Hoạt ngục hiện hình ký
Hoạt ngục hiện hình kýHoạt ngục hiện hình ký
Hoạt ngục hiện hình kýHoàng Lý Quốc
 
AN CHUNG DAO CHANH LY CHANH THIEN MENH CHANH
AN CHUNG DAO CHANH LY CHANH THIEN MENH CHANHAN CHUNG DAO CHANH LY CHANH THIEN MENH CHANH
AN CHUNG DAO CHANH LY CHANH THIEN MENH CHANHPhát Nhất Tuệ Viên
 
Ấn Chứng Thảm Trạng Ngày Mạt Kiếp
Ấn Chứng Thảm Trạng Ngày Mạt KiếpẤn Chứng Thảm Trạng Ngày Mạt Kiếp
Ấn Chứng Thảm Trạng Ngày Mạt KiếpPhát Nhất Tuệ Viên
 
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 3 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 3 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordGiảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 3 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 3 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordNhân Quả Luân Hồi
 
Hoat Phật Sư Tôn Chú Giải Nhất Quán Đạo Nghi Vấn Giải Đáp
Hoat Phật Sư Tôn Chú Giải Nhất Quán Đạo Nghi Vấn Giải ĐápHoat Phật Sư Tôn Chú Giải Nhất Quán Đạo Nghi Vấn Giải Đáp
Hoat Phật Sư Tôn Chú Giải Nhất Quán Đạo Nghi Vấn Giải ĐápPhát Nhất Tuệ Viên
 
Bát nhã ba la mật đa tâm kinh chú giải
Bát nhã ba la mật đa tâm kinh   chú giảiBát nhã ba la mật đa tâm kinh   chú giải
Bát nhã ba la mật đa tâm kinh chú giảiHoàng Lý Quốc
 

La actualidad más candente (20)

Nhân quả thời đại khoa học
Nhân quả thời đại khoa họcNhân quả thời đại khoa học
Nhân quả thời đại khoa học
 
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 7 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 7 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordGiảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 7 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 7 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
 
Quần tiên gia ngôn lục
Quần tiên gia ngôn lụcQuần tiên gia ngôn lục
Quần tiên gia ngôn lục
 
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 5 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 5 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordGiảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 5 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 5 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
 
Lữ Tổ Thuần Dương Lược Truyện
Lữ Tổ Thuần Dương Lược TruyệnLữ Tổ Thuần Dương Lược Truyện
Lữ Tổ Thuần Dương Lược Truyện
 
Sau khi cầu đạo đừng quên đi tam bảo và tu đạo
Sau khi cầu đạo đừng quên đi tam bảo và tu đạoSau khi cầu đạo đừng quên đi tam bảo và tu đạo
Sau khi cầu đạo đừng quên đi tam bảo và tu đạo
 
Tru tiên trận
Tru tiên trậnTru tiên trận
Tru tiên trận
 
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 8 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 8 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordGiảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 8 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 8 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
 
17 7-22-kinh chiêm sát
17 7-22-kinh chiêm sát17 7-22-kinh chiêm sát
17 7-22-kinh chiêm sát
 
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 2 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 2 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordGiảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 2 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 2 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
 
Đại Đạo Tam Bảo
Đại Đạo Tam BảoĐại Đạo Tam Bảo
Đại Đạo Tam Bảo
 
Hoạt ngục hiện hình ký
Hoạt ngục hiện hình kýHoạt ngục hiện hình ký
Hoạt ngục hiện hình ký
 
AN CHUNG DAO CHANH LY CHANH THIEN MENH CHANH
AN CHUNG DAO CHANH LY CHANH THIEN MENH CHANHAN CHUNG DAO CHANH LY CHANH THIEN MENH CHANH
AN CHUNG DAO CHANH LY CHANH THIEN MENH CHANH
 
Ấn Chứng Thảm Trạng Ngày Mạt Kiếp
Ấn Chứng Thảm Trạng Ngày Mạt KiếpẤn Chứng Thảm Trạng Ngày Mạt Kiếp
Ấn Chứng Thảm Trạng Ngày Mạt Kiếp
 
Nghiep Luc Va Nguyen Luc
Nghiep Luc Va Nguyen LucNghiep Luc Va Nguyen Luc
Nghiep Luc Va Nguyen Luc
 
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 3 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 3 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordGiảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 3 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 3 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
 
Hoat Phật Sư Tôn Chú Giải Nhất Quán Đạo Nghi Vấn Giải Đáp
Hoat Phật Sư Tôn Chú Giải Nhất Quán Đạo Nghi Vấn Giải ĐápHoat Phật Sư Tôn Chú Giải Nhất Quán Đạo Nghi Vấn Giải Đáp
Hoat Phật Sư Tôn Chú Giải Nhất Quán Đạo Nghi Vấn Giải Đáp
 
Bát nhã ba la mật đa tâm kinh chú giải
Bát nhã ba la mật đa tâm kinh   chú giảiBát nhã ba la mật đa tâm kinh   chú giải
Bát nhã ba la mật đa tâm kinh chú giải
 
HIẾU KINH - KHỔNG TỪ
HIẾU KINH - KHỔNG TỪHIẾU KINH - KHỔNG TỪ
HIẾU KINH - KHỔNG TỪ
 
15 Điều Phật Quy
15 Điều Phật Quy15 Điều Phật Quy
15 Điều Phật Quy
 

Destacado

Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 11
Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 11Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 11
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 11Đỗ Bình
 
Kinh nhan qua luan hoi
Kinh nhan qua luan hoiKinh nhan qua luan hoi
Kinh nhan qua luan hoiĐỗ Bình
 
Truyen phatthichca doantrungcon-2
Truyen phatthichca doantrungcon-2Truyen phatthichca doantrungcon-2
Truyen phatthichca doantrungcon-2Đỗ Bình
 
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 12
Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 12Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 12
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 12Đỗ Bình
 
Ăn nhiều thịt - Mắc bệnh nguy hiểm
Ăn nhiều thịt - Mắc bệnh nguy hiểm Ăn nhiều thịt - Mắc bệnh nguy hiểm
Ăn nhiều thịt - Mắc bệnh nguy hiểm Đỗ Bình
 
Du lichxuphat doantrungcon
Du lichxuphat doantrungconDu lichxuphat doantrungcon
Du lichxuphat doantrungconĐỗ Bình
 
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 4
Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 4Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 4
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 4Đỗ Bình
 
Kinh a dida-doantrungcon
Kinh a dida-doantrungconKinh a dida-doantrungcon
Kinh a dida-doantrungconĐỗ Bình
 

Destacado (8)

Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 11
Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 11Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 11
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 11
 
Kinh nhan qua luan hoi
Kinh nhan qua luan hoiKinh nhan qua luan hoi
Kinh nhan qua luan hoi
 
Truyen phatthichca doantrungcon-2
Truyen phatthichca doantrungcon-2Truyen phatthichca doantrungcon-2
Truyen phatthichca doantrungcon-2
 
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 12
Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 12Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 12
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 12
 
Ăn nhiều thịt - Mắc bệnh nguy hiểm
Ăn nhiều thịt - Mắc bệnh nguy hiểm Ăn nhiều thịt - Mắc bệnh nguy hiểm
Ăn nhiều thịt - Mắc bệnh nguy hiểm
 
Du lichxuphat doantrungcon
Du lichxuphat doantrungconDu lichxuphat doantrungcon
Du lichxuphat doantrungcon
 
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 4
Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 4Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 4
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 4
 
Kinh a dida-doantrungcon
Kinh a dida-doantrungconKinh a dida-doantrungcon
Kinh a dida-doantrungcon
 

Similar a Này long vương , ông nên biết bồ tát có một pháp có thể đoạn trừ tất cả khổ não trong các đường ác. ðó là ngày đêm nhớ nghĩ tư duy, quán sát thiện pháp, khiến các thiện pháp mỗi niệm mỗi niệm

bồ đề tâm- phẩm 39-KINH HOA NGHIÊM.docx
bồ đề tâm- phẩm 39-KINH HOA NGHIÊM.docxbồ đề tâm- phẩm 39-KINH HOA NGHIÊM.docx
bồ đề tâm- phẩm 39-KINH HOA NGHIÊM.docxHuongMinhNguyen
 
Bổn Kinh Của Phật Tổ (Thích Huyền Vi)
Bổn Kinh Của Phật Tổ (Thích Huyền Vi)Bổn Kinh Của Phật Tổ (Thích Huyền Vi)
Bổn Kinh Của Phật Tổ (Thích Huyền Vi)Phật Ngôn
 
Tinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoang
Tinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoangTinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoang
Tinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoangtung truong
 
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 2
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 2Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 2
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 2Ngọa Long
 
Bát Đại Nhân Giác Giảng Giải - Thích Thanh Từ
Bát Đại Nhân Giác Giảng Giải - Thích Thanh TừBát Đại Nhân Giác Giảng Giải - Thích Thanh Từ
Bát Đại Nhân Giác Giảng Giải - Thích Thanh TừPhật Ngôn
 
An bình tĩnh lặng
An bình tĩnh lặngAn bình tĩnh lặng
An bình tĩnh lặngzukisiwa
 
Hoa Vô Ưu Tập 7 (Thích Thanh Từ)
Hoa Vô Ưu Tập 7 (Thích Thanh Từ)Hoa Vô Ưu Tập 7 (Thích Thanh Từ)
Hoa Vô Ưu Tập 7 (Thích Thanh Từ)Phật Ngôn
 
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn Phẩm thứ 13
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn Phẩm thứ 13Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn Phẩm thứ 13
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn Phẩm thứ 13Phật Ngôn
 
Lá Thư Tịnh Độ (đã hiệu đính).docx
Lá Thư Tịnh Độ (đã hiệu đính).docxLá Thư Tịnh Độ (đã hiệu đính).docx
Lá Thư Tịnh Độ (đã hiệu đính).docxNight Lotuses
 
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục BiênẤn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục BiênGarena Beta
 
Ấn Quang Pháp Sư GIa Ngôn Lục Tục BIên
Ấn Quang Pháp Sư GIa Ngôn Lục Tục BIênẤn Quang Pháp Sư GIa Ngôn Lục Tục BIên
Ấn Quang Pháp Sư GIa Ngôn Lục Tục BIênGarena Beta
 
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Phật Ngôn
 
Những chuyện nhân quả
Những chuyện nhân quảNhững chuyện nhân quả
Những chuyện nhân quảHung Duong
 

Similar a Này long vương , ông nên biết bồ tát có một pháp có thể đoạn trừ tất cả khổ não trong các đường ác. ðó là ngày đêm nhớ nghĩ tư duy, quán sát thiện pháp, khiến các thiện pháp mỗi niệm mỗi niệm (20)

bồ đề tâm- phẩm 39-KINH HOA NGHIÊM.docx
bồ đề tâm- phẩm 39-KINH HOA NGHIÊM.docxbồ đề tâm- phẩm 39-KINH HOA NGHIÊM.docx
bồ đề tâm- phẩm 39-KINH HOA NGHIÊM.docx
 
Bổn Kinh Của Phật Tổ (Thích Huyền Vi)
Bổn Kinh Của Phật Tổ (Thích Huyền Vi)Bổn Kinh Của Phật Tổ (Thích Huyền Vi)
Bổn Kinh Của Phật Tổ (Thích Huyền Vi)
 
Chúng ta từ lúc sinh ra đã sợ sệt nhiều điều sợ bóng tối, sợ cô đơn, sợ đau ...
Chúng ta từ lúc sinh ra đã sợ sệt nhiều điều  sợ bóng tối, sợ cô đơn, sợ đau ...Chúng ta từ lúc sinh ra đã sợ sệt nhiều điều  sợ bóng tối, sợ cô đơn, sợ đau ...
Chúng ta từ lúc sinh ra đã sợ sệt nhiều điều sợ bóng tối, sợ cô đơn, sợ đau ...
 
Tinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoang
Tinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoangTinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoang
Tinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoang
 
Phat tucanbiet5 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Phat tucanbiet5 - THẦY THÍCH THÔNG LẠCPhat tucanbiet5 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Phat tucanbiet5 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
 
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 2
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 2Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 2
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 2
 
Bát Đại Nhân Giác Giảng Giải - Thích Thanh Từ
Bát Đại Nhân Giác Giảng Giải - Thích Thanh TừBát Đại Nhân Giác Giảng Giải - Thích Thanh Từ
Bát Đại Nhân Giác Giảng Giải - Thích Thanh Từ
 
Giao ancn cusi-5
Giao ancn cusi-5Giao ancn cusi-5
Giao ancn cusi-5
 
Giao ancn cusi-5 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Giao ancn cusi-5 - THẦY THÍCH THÔNG LẠCGiao ancn cusi-5 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Giao ancn cusi-5 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
 
An bình tĩnh lặng
An bình tĩnh lặngAn bình tĩnh lặng
An bình tĩnh lặng
 
Hoa Vô Ưu Tập 7 (Thích Thanh Từ)
Hoa Vô Ưu Tập 7 (Thích Thanh Từ)Hoa Vô Ưu Tập 7 (Thích Thanh Từ)
Hoa Vô Ưu Tập 7 (Thích Thanh Từ)
 
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn Phẩm thứ 13
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn Phẩm thứ 13Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn Phẩm thứ 13
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn Phẩm thứ 13
 
LỜI KHAI THỊ CỦA TĂNG
LỜI KHAI THỊ CỦA TĂNGLỜI KHAI THỊ CỦA TĂNG
LỜI KHAI THỊ CỦA TĂNG
 
Lá Thư Tịnh Độ (đã hiệu đính).docx
Lá Thư Tịnh Độ (đã hiệu đính).docxLá Thư Tịnh Độ (đã hiệu đính).docx
Lá Thư Tịnh Độ (đã hiệu đính).docx
 
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục BiênẤn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên
 
Ấn Quang Pháp Sư GIa Ngôn Lục Tục BIên
Ấn Quang Pháp Sư GIa Ngôn Lục Tục BIênẤn Quang Pháp Sư GIa Ngôn Lục Tục BIên
Ấn Quang Pháp Sư GIa Ngôn Lục Tục BIên
 
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên
 
Phat tucanbiet4 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Phat tucanbiet4 - THẦY THÍCH THÔNG LẠCPhat tucanbiet4 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Phat tucanbiet4 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
 
430
430430
430
 
Những chuyện nhân quả
Những chuyện nhân quảNhững chuyện nhân quả
Những chuyện nhân quả
 

Más de Đỗ Bình

Từ điển phật học kinh đại bát niết bàn - Kinh đại bát niết bàn đoàn trung c...
Từ điển phật học kinh đại bát niết bàn - Kinh đại bát niết bàn   đoàn trung c...Từ điển phật học kinh đại bát niết bàn - Kinh đại bát niết bàn   đoàn trung c...
Từ điển phật học kinh đại bát niết bàn - Kinh đại bát niết bàn đoàn trung c...Đỗ Bình
 
Kinh đại bát niết bàn đoàn trung còn 2015 - https://www.facebook.com/bangki...
Kinh đại bát niết bàn   đoàn trung còn 2015 - https://www.facebook.com/bangki...Kinh đại bát niết bàn   đoàn trung còn 2015 - https://www.facebook.com/bangki...
Kinh đại bát niết bàn đoàn trung còn 2015 - https://www.facebook.com/bangki...Đỗ Bình
 
Từ điển phật học kinh đại bát niết bàn - https://www.facebook.com/bangkieuhanoi
Từ điển phật học kinh đại bát niết bàn - https://www.facebook.com/bangkieuhanoiTừ điển phật học kinh đại bát niết bàn - https://www.facebook.com/bangkieuhanoi
Từ điển phật học kinh đại bát niết bàn - https://www.facebook.com/bangkieuhanoiĐỗ Bình
 
Le syminhtung kinhthulangnghiemgianggiai2 - Nam Mô Phật
Le syminhtung kinhthulangnghiemgianggiai2 - Nam Mô PhậtLe syminhtung kinhthulangnghiemgianggiai2 - Nam Mô Phật
Le syminhtung kinhthulangnghiemgianggiai2 - Nam Mô PhậtĐỗ Bình
 
Kinh phap-hoa-giang-giai- Nam Mô Phật
Kinh phap-hoa-giang-giai- Nam Mô PhậtKinh phap-hoa-giang-giai- Nam Mô Phật
Kinh phap-hoa-giang-giai- Nam Mô PhậtĐỗ Bình
 
KINH ĐAỊ BÁT NIẾT BÀN
KINH ĐAỊ BÁT NIẾT BÀNKINH ĐAỊ BÁT NIẾT BÀN
KINH ĐAỊ BÁT NIẾT BÀNĐỗ Bình
 
KINH ĐAỊ BÁT NIẾT BÀN - XÁ LỢI PHẬT
KINH ĐAỊ BÁT NIẾT BÀN - XÁ LỢI PHẬTKINH ĐAỊ BÁT NIẾT BÀN - XÁ LỢI PHẬT
KINH ĐAỊ BÁT NIẾT BÀN - XÁ LỢI PHẬTĐỗ Bình
 
DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH
DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINHDIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH
DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINHĐỗ Bình
 
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN - NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN - NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬTKINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN - NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN - NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬTĐỗ Bình
 
Kinh Pháp Cú (song ngữ Anh-Việt) 卍 Bản dịch Anh ngữ của Tỳ kheo Khantipalo, v...
Kinh Pháp Cú (song ngữ Anh-Việt) 卍 Bản dịch Anh ngữ của Tỳ kheo Khantipalo, v...Kinh Pháp Cú (song ngữ Anh-Việt) 卍 Bản dịch Anh ngữ của Tỳ kheo Khantipalo, v...
Kinh Pháp Cú (song ngữ Anh-Việt) 卍 Bản dịch Anh ngữ của Tỳ kheo Khantipalo, v...Đỗ Bình
 
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA 卍 Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch Tỳ Kheo Th...
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA 卍 Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch Tỳ Kheo Th...KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA 卍 Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch Tỳ Kheo Th...
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA 卍 Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch Tỳ Kheo Th...Đỗ Bình
 
KINH LỜI VÀNG Tác giả Dương Tú Hạc Dịch giả HT Thích Trí Nghiêm
KINH LỜI VÀNG Tác giả Dương Tú Hạc Dịch giả HT Thích Trí NghiêmKINH LỜI VÀNG Tác giả Dương Tú Hạc Dịch giả HT Thích Trí Nghiêm
KINH LỜI VÀNG Tác giả Dương Tú Hạc Dịch giả HT Thích Trí NghiêmĐỗ Bình
 
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN - ĐOÀN TRUNG CÒN 2000 TRANG
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN - ĐOÀN TRUNG CÒN 2000 TRANG KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN - ĐOÀN TRUNG CÒN 2000 TRANG
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN - ĐOÀN TRUNG CÒN 2000 TRANG Đỗ Bình
 
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 23
Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 23Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 23
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 23Đỗ Bình
 
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 21
Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 21Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 21
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 21Đỗ Bình
 
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 20
Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 20Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 20
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 20Đỗ Bình
 
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 18
Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 18Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 18
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 18Đỗ Bình
 
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 16
Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 16Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 16
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 16Đỗ Bình
 
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 14
Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 14Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 14
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 14Đỗ Bình
 
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 10
Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 10Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 10
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 10Đỗ Bình
 

Más de Đỗ Bình (20)

Từ điển phật học kinh đại bát niết bàn - Kinh đại bát niết bàn đoàn trung c...
Từ điển phật học kinh đại bát niết bàn - Kinh đại bát niết bàn   đoàn trung c...Từ điển phật học kinh đại bát niết bàn - Kinh đại bát niết bàn   đoàn trung c...
Từ điển phật học kinh đại bát niết bàn - Kinh đại bát niết bàn đoàn trung c...
 
Kinh đại bát niết bàn đoàn trung còn 2015 - https://www.facebook.com/bangki...
Kinh đại bát niết bàn   đoàn trung còn 2015 - https://www.facebook.com/bangki...Kinh đại bát niết bàn   đoàn trung còn 2015 - https://www.facebook.com/bangki...
Kinh đại bát niết bàn đoàn trung còn 2015 - https://www.facebook.com/bangki...
 
Từ điển phật học kinh đại bát niết bàn - https://www.facebook.com/bangkieuhanoi
Từ điển phật học kinh đại bát niết bàn - https://www.facebook.com/bangkieuhanoiTừ điển phật học kinh đại bát niết bàn - https://www.facebook.com/bangkieuhanoi
Từ điển phật học kinh đại bát niết bàn - https://www.facebook.com/bangkieuhanoi
 
Le syminhtung kinhthulangnghiemgianggiai2 - Nam Mô Phật
Le syminhtung kinhthulangnghiemgianggiai2 - Nam Mô PhậtLe syminhtung kinhthulangnghiemgianggiai2 - Nam Mô Phật
Le syminhtung kinhthulangnghiemgianggiai2 - Nam Mô Phật
 
Kinh phap-hoa-giang-giai- Nam Mô Phật
Kinh phap-hoa-giang-giai- Nam Mô PhậtKinh phap-hoa-giang-giai- Nam Mô Phật
Kinh phap-hoa-giang-giai- Nam Mô Phật
 
KINH ĐAỊ BÁT NIẾT BÀN
KINH ĐAỊ BÁT NIẾT BÀNKINH ĐAỊ BÁT NIẾT BÀN
KINH ĐAỊ BÁT NIẾT BÀN
 
KINH ĐAỊ BÁT NIẾT BÀN - XÁ LỢI PHẬT
KINH ĐAỊ BÁT NIẾT BÀN - XÁ LỢI PHẬTKINH ĐAỊ BÁT NIẾT BÀN - XÁ LỢI PHẬT
KINH ĐAỊ BÁT NIẾT BÀN - XÁ LỢI PHẬT
 
DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH
DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINHDIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH
DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH
 
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN - NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN - NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬTKINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN - NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN - NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
 
Kinh Pháp Cú (song ngữ Anh-Việt) 卍 Bản dịch Anh ngữ của Tỳ kheo Khantipalo, v...
Kinh Pháp Cú (song ngữ Anh-Việt) 卍 Bản dịch Anh ngữ của Tỳ kheo Khantipalo, v...Kinh Pháp Cú (song ngữ Anh-Việt) 卍 Bản dịch Anh ngữ của Tỳ kheo Khantipalo, v...
Kinh Pháp Cú (song ngữ Anh-Việt) 卍 Bản dịch Anh ngữ của Tỳ kheo Khantipalo, v...
 
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA 卍 Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch Tỳ Kheo Th...
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA 卍 Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch Tỳ Kheo Th...KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA 卍 Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch Tỳ Kheo Th...
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA 卍 Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch Tỳ Kheo Th...
 
KINH LỜI VÀNG Tác giả Dương Tú Hạc Dịch giả HT Thích Trí Nghiêm
KINH LỜI VÀNG Tác giả Dương Tú Hạc Dịch giả HT Thích Trí NghiêmKINH LỜI VÀNG Tác giả Dương Tú Hạc Dịch giả HT Thích Trí Nghiêm
KINH LỜI VÀNG Tác giả Dương Tú Hạc Dịch giả HT Thích Trí Nghiêm
 
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN - ĐOÀN TRUNG CÒN 2000 TRANG
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN - ĐOÀN TRUNG CÒN 2000 TRANG KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN - ĐOÀN TRUNG CÒN 2000 TRANG
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN - ĐOÀN TRUNG CÒN 2000 TRANG
 
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 23
Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 23Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 23
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 23
 
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 21
Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 21Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 21
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 21
 
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 20
Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 20Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 20
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 20
 
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 18
Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 18Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 18
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 18
 
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 16
Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 16Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 16
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 16
 
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 14
Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 14Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 14
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 14
 
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 10
Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 10Kinh đại bát nhã ba la mật đa   tập 10
Kinh đại bát nhã ba la mật đa tập 10
 

Này long vương , ông nên biết bồ tát có một pháp có thể đoạn trừ tất cả khổ não trong các đường ác. ðó là ngày đêm nhớ nghĩ tư duy, quán sát thiện pháp, khiến các thiện pháp mỗi niệm mỗi niệm

  • 2. 2 卍 Này Long vương , Ông nên biết Bồ-tát có một pháp có thể đoạn trừ tất cả khổ não trong các đường ác. Ðó là ngày đêm nhớ nghĩ tư duy, quán sát thiện pháp, khiến các thiện pháp mỗi niệm mỗi niệm được tăng trưởng, không để cho bất kỳ pháp bất thiện nào xen lẫn, pháp ấy có thể khiến các ác pháp vĩnh viễn chấm dứt, thiện pháp được tràn đầy, thường được gần gũi chư Phật, chư Bồ-tát và các Thánh chúng. Nói rằng thiện pháp, nghĩa là thân của các hàng trời, người, Thanh văn Bồ-đề, Ðộc giác Bồ-đề, Vô thượng Bồ-đề, đều nương vào pháp này, lấy nó làm căn bản để được thành tựu cho nên gọi là thiện pháp. Pháp này chính là Thập thiện nghiệp đạo. Vậy mười điều đó là gì? Ðó là vĩnh viễn xa lìa sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói đôi chiều, nói ác, nói thêu dệt, tham lam, sân hận và tà kiến. Này Long vương , Thí như tất cả thành ấp xóm làng đều dựa vào trái đất mà được đứng vững, tất cả cây thuốc cỏ cây vườn rừng cũng nhờ vào đất mà lớn lên. Mười điều thiện này cũng như vậy, tất cả hàng trời
  • 3. 3 người nương vào nó mà được thành lập, tất cả hàng Thanh văn, Ðộc giác Bồ-đề, các hạnh Bồ-tát, tất cả Phật pháp, đều nương vào mảnh đất Thập thiện này mà được thành tựu. Nếu có người nghèo khổ nào, không có tiền của nhưng vẫn có thể bố thí. Lúc người khác bố thí liền sanh lòng tùy hỷ thì phước báo của họ không khác gì phước báo của người bố thí kia. Ðó là một việc rất dễ làm, ai mà không làm được Ðức Phật dạy: “Thấy người khác làm việc bố thí mà vui vẻ giúp họ thì được phước báo rất lớn”. Có vị sa môn hỏi Phật rằng: - Thưa Thế tôn! Phước này hết chăng? Ðức Phật Ðáp: - Ví như ngọn lửa của một cây đuốc, dầu có trăm ngàn người đem đuốc đến mồi lửa kia để về nấu ăn và thắp sáng thì lửa của cây đuốc vẫn như cũ. Phước kia cũng vậy.
  • 4. 4 PHẠM THIÊN Một hôm, đức Phật ở Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên đón tiếp sự thăm viếng của trời Phạm thiên. Phạm thiên hướng về đức Thế tôn đảnh lễ và nêu ra mấy câu hỏi. Dưới đÂy là cuộc đối thoại giữa đức Phật và Phạm thiên. Phạm Thiên hỏi: - Thưa Thế tôn! Loại kiếm nào sắc nhất, thứ thuốc nào độc nhất, ngọn lửa nào dữ nhất và đêm tối nào dài nhất? - Miệng mắng chửi người khác là thứ kiếm sắc bén nhất, lòng tham là liều thuốc độc nhất, ngọn lửa hung dữ nhất là phiền não, và ngu si là đêm dài tối tăm nhất. - Vậy, ai được lợi ích lớn nhất, ai bị tổn thất nhiều nhất, ai là kẻ nham hiểm nhất? Thưa Thế tôn! - Người bố thí được lợi ích lớn nhất. Biết ơn mà không báo ơn là người tổn thất nhiều nhất. Người ôm
  • 5. 5 lòng độc ác, mưu mô không kể chi là kẻ nham hiểm nhất. - Ðiều gì có sức lôi cuốn nhất, cái gì khiến người ta xa lánh nhất, điều gì phá tình hữu nghị và ai là vị lương y tài giỏi nhất? - Làm thiện có sức lôi cuốn nhất vì nó đưa đến hàng ngàn thứ công đức. Tội ác khiến người ta xa lánh nhất vì đưa con người chìm sâu vào hố thẳm luân hồi. Ðố kị và tư lợi phá vỡ tình hữu nghị. Như lai là vị lương y tài giỏi nhất. Vị trời Phạm thiên cảm thấy rất mãn nguyện, chắp tay tán thán trí tuệ viên mãn của đức Thế tôn đã khéo phá tan mối nghi hoặc cho mọi người. Trời Phạm thiên hỏi tiếp: - Thưa Thế tôn! Cái gì tối thắng nhất, làm thế nào mới có thể đạt được nó? Ðức Phật đáp:
  • 6. 6 - Phước đức và trí tuệ là cái tối thắng nhất. Tu cả phước đức lẫn trí tuệ thì có thể ra khỏi luân hồi, vượt hẳn ba cõi, tự lợi lợi tha. Dũng mãnh tinh tấn thì có thể tu phước và tu tuệ. Phạm Thiên nghe đức Phật dạy xong tâm trí được khai sáng liền đảnh lễ đức Phật và cáo lui. PHẬT PHÁP THỰC TIỄN Một kẻ lữ hành bị lạc trong sa mạc rộng lớn. Ở đó, khí hậu vô cùng khô nóng, ánh mặt trời như thiêu như đốt. Anh ta không có nước uống, không có thức ăn, chung quanh lại chẳng có bóng dáng con người. Anh bước đi trong sự tàn tạ cô độc và sắp ngã quỵ. Ðột nhiên có một người đi thẳng về phía anh. Vị ấy có vẻ mặt tươi vui và vóc dáng rất sung mãn tự tại. Anh ta liền đến hỏi vị ấy làm như thế nào mà có thể thoát được sự bức bách của cái nóng và cái khát, đến nơi nào thì có thể tìm được nguồn nước và bóng cây. Vị ấy bảo anh rằng:
  • 7. 7 - Từ đây về phía đông có hai con đường, một đường đi về phía trái, một đường về phía phải. Ði theo con đường phía phải, nỗ lực tiến về phía trước thì tự nhiên sẽ gặp được nguồn nước ngon ngọt và bóng cây mát. Nghe vị ấy nói anh ta rất tin nhưng vì đã quen với tính biếng nhác nên không chịu đi về phía trước. Kết quả là anh ta chết khát trong sa mạc. Người sung mãn thì dụ cho đức Phật, còn kẻ bị đói khát thì dụ cho chúng sanh. Anh ta tuy có lòng tin nhưng lại không chịu hành động nên kết quả chỉ có thất bại. Năm giới, mười điều thiện, Bát chánh đạo v.v... là đạo lý đức Phật chỉ cho chúng ta tu hành. Ngài chú trọng thực tiễn, không đề cao nơi việc nói suông, nên chúng ta phải cố gắng thực hành bằng sức dũng mãnh tinh tiến thì mới không phụ đạo lý của đức Phật ÐỨA CON CỦA PHÚ ÔNG Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật từng thí dụ như vầy: có một phú ông nọ bị lạc mất đứa con trai khi nó còn rất bé nên ngày đêm vô cùng nhớ mong. Có một hôm, phú ông nhìn thấy một kẻ ăn mày và nhận ra đó là đứa con bị thất lạc của mình, bèn kêu nó đến để
  • 8. 8 nhận cha con. Nhưng đứa trẻ ấy đã lưu lạc lâu năm, quen bị người ta khinh rẻ, nhục mạ nên nó hiểu lầm là phú ông lừa nó đến rồi bắt cho quan trị tội, do đó vội bỏ chạy. Phú ông nghĩ ra một diệu kế là cho người tìm anh ta về làm việc để nó yên tâm với hoàn cảnh mới. Phú ông thường ngồi bên cửa sổ theo dõi công việc rồi dần thăng chức cho nó. Khi đứa con gánh vác được công việc, ông cảm thấy thời cơ đã chín muồi nên triệu tập bạn bè họ hàng rồi nói ra bí mật bấy lâu. Ðứa con biết được thân phận của mình mới dám nhận lại cha. Trong thí dụ này, đứa con là chúng sanh, còn phú ông chính là đức Phật. Chúng sanh mãi quay cuồng trong sanh tử luân hồi, sớm quên mất bản tánh thành Phật của mình, chỉ toàn gây nên nghiệp duyên. Ðức Thế tôn biết trước, giác ngộ trước, bảo rằng chúng sanh cũng có thể thành Phật như Ngài. Ngài lấy bản thân làm mẫu mực, dùng các phương pháp khéo léo hướng dẫn chúng sanh chấm dứt việc ác, làm việc lành rồi hướng thượng, gắng sức cho đến khi thành Phật. Chúng ta nên ghi nhận và tu học theo lời giáo
  • 9. 9 huấn của đức Phật, không nên phụ hoài công lao của Ngài mới đúng lẽ. TRÌNH TỰ HỌC PHẬT Người học Phật, đối với Phật pháp, cần phải trải qua bốn giai đoạn: Tín, giải, hành và chứng. - Tín: Ðối với Phật pháp, người học Phật trước tiên cần có tín tâm, như trong kinh thường nói: “Phật pháp rộng lớn như biển cả, có niềm tin mới có thể vào”. Có tín tâm, người học Phật mới có thể đạt được lợi ích chân thật, và khiến chúng ta dũng cảm đương đầu với ma chướng, thoát khỏi sanh tử khổ não. - Giải: Ngoài kính tín Phật pháp, đối với nghĩa lý trong Phật pháp, chúng ta nên có nhận thức rõ ràng, tìm hiểu đầy đủ, được như vậy thì niềm tin càng vững chắc. - Hành: Ðối với Phật pháp, sau khi hiểu rõ và có niềm tin kiên cố, lại phải tự mình thực hành, giữ gìn
  • 10. 10 năm giới, mười điều thiện, Bát chánh đạo v.v... phải luôn luôn tu tập, thực hành mới mong được ích lợi. - Chứng: Người học Phật có niềm tin, sự hiểu biết và thực hành rồi thì nhất định sẽ gặt hái kết quả, chứng minh rằng sự nỗ lực không phải uổng phí. Bản thân chúng ta tự nhiên thể nghiệm được cảnh giới giác ngộ, đạt được công đức lớn và giải thoát lớn BA CHÚNG ÐỆ TỬ CỦA PHẬT Người học Phật, lý tưởng và chí nguyện không ai giống ai cho nên sự thành tựu cũng chẳng người nào giống người nào. Nói một cách tóm lược thì có ba loại: một là sanh vào cõi trời cõi người, hai là làm A-la-hán, và ba là làm Bồ-tát. 1. Sanh vào cõi trời cõi người: Hạng người học Phật này bỏ ác làm lành, tích nhóm phước đức, hy vọng kiếp sau sẽ được yên vui. Ví dụ như: dung mạo, thọ mạng, hoàn cảnh gia đình và sức khỏe v.v... đều được trội hẳn hơn so với đời này. Nhưng sự mong ước này vẫn chưa triệt để vì sự vui sướng của cõi trời và cõi
  • 11. 11 người đều ngắn ngủi, vẫn phải bị sanh tử luân hồi, lưu chuyển trong ba cõi, chịu khổ não vô cùng. 2. A-la-hán: Những vị học Phật này biết rằng ba cõi hoàn toàn không yên ổn, giống như nhà lửa, cũng như một ngọn lửa lớn cơ thể thiêu rụi hết mọi thứ cho nên sanh tâm nhàm chán. Vì chán bỏ sinh tử nên cầu mau chóng thoát khỏi sanh tử. Những vị ấy nỗ lực chấm dứt tất cả sự vay trả của túc nghiệp, tu tập Phật pháp, chỉ hoàn thiện cho chính bản thân, cuối cùng vượt ra ngoài vòng sanh tử, được gọi là A-la-hán. Ðây là quả vị của tiểu thừa. 3. Bồ-tát: Những vị học Phật này phát tâm rộng lớn, không muốn chỉ hoàn thiện cho chính mình, riêng mình giải thoát mà phát nguyện cứu mình, cứu người, tự lợi lợi tha, hy vọng chúng sanh đều được giải thoát. Việc làm này rất khó, phải có đại trí tuệ, đại từ bi, đại nguyện lực, đại công đức mới có thể thực hiện được. Bồ-tát phát tâm, thực hành, đời đời kiếp kiếp không nề hà mệt nhọc, không thối tâm, mãi mãi giữ vững lý
  • 12. 12 tưởng cầu Phật đạo và độ sanh. Ðây là một giá trị sống rất cao quý của những người đại thừa. Vì vậy, người học Phật nên lập chí làm Bồ-tát CHÚNG SANH VÀ THẾ GIỚI Phật giáo gọi những sinh vật có tri giác, có sinh mạng, bao quát nhân loại, cầm thú, côn trùng v.v... là chúng sanh. Nơi chúng sanh ở có ba chốn: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Chúng sanh trong cõi Dục có năm loại, còn gọi là ngũ thú: trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. - Trời: Chúng sanh làm lành được sanh lên cõi trời, gọi là Trời. Ðây cũng chính là thiên đường mà ngoại đạo sùng bái. Chúng sanh cõi này có sự hưởng thụ khoái lạc, nhưng sau khi hưởng thụ xong cũng phải chết và chịu luân hồi trở lại. - Người: Nhân gian là thế giới vật chất, chúng sanh hiền thiện hoặc tội ác đều có thể sanh vào, nên gọi là Người. - Ðịa ngục: Là nơi chúng sanh gây tội rất nặng sanh vào. Chúng sanh ở đây luôn chịu sự bức bách của
  • 13. 13 thống khổ - khổ báo hết rồi mới có thể chuyển sanh sang cõi khác. - Ngạ quỷ: Là nơi chúng sanh tham dục sanh vào. - Súc sanh: Chính là nơi chúng sanh ngu độn sanh vào. Năm tình huống trên đây chính là tướng của chúng sanh trong Dục giới. Còn Sắc giới và Vô sắc giới là nơi cư ngụ của chúng sanh hiền thiện, có phước và định lực. Ðức Phật dùng trí tuệ quán sát tướng trạng của ba cõi và nói cho chúng ta biết rằng: luân hồi năm nẻo là một hiện tượng tự nhiên, làm lành thì sanh thiên, làm ác thì đọa địa ngục. Chúng sanh từ cõi trời cho đến địa ngục tuy khổ đau, hạnh phúc không giống nhau nhưng lại giống nhau là còn bị chết và luân hồi. Trong khoảng thời gian vô tận không gian vô hạn, chúng sanh cứ diễn đi diễn lại vở diễn buồn-vui-ly-hợp. Nghiệp báo của mỗi cá nhân cũng theo sự tích tập mà trở thành gánh nặng khổ não. Cho nên, đức Phật - bậc trí tuệ từ bi - dạy chúng ta phải phát Bồ-đề tâm, học Bát chánh đạo, giải thoát luân hồi, vượt khỏi ba cõi mới là phương pháp triệt để.
  • 14. 14 BÁT CHÁNH ÐẠO Ðức Phật thường diễn giảng Bát chánh đạo cho hàng đệ tử của Người. Bát chánh đạo chính là tám việc hợp lý và chánh đáng. 1. Thấy biết đúng đắn: Ðối với những sự việc trên cõi đời này, chúng ta cần có một cách nhìn cho đúng đắn và chân thực như làm thiện thì được quả thiện, làm ác thì mắc quả báo ác. 2. Suy nghĩ đúng đắn: Chúng ta nên có tư tưởng trong sáng, không suy nghĩ những chuyện xằng bậy, như không có ý nghĩ trộm cắp, không nghĩ đến việc sát sanh, không rắp tâm làm tổn thương người khác. 3. Nói lời chân thật: Không nói lời hư dối, không mắng chửi nguyền rủa kẻ khác, không xúi dục mọi người làm chuyện sai trái. 4. Việc làm chân chính: Giữ gìn trật tự, không làm ác, không sát sanh, không trộm cắp v.v... 5. Nếp sống chân chính: Làm các việc có lợi cho xã hội và chọn nghề nghiệp chính đáng.
  • 15. 15 6. Nỗ lực chân chính: Nỗ lực làm việc thiện, tránh những việc sai trái, tội lỗi. 7. Nhớ nghĩ chân chính: Thường nghĩ nhớ đức Phật và ghi nhớ lời dạy của Ngài. 8. Chuyên chú chơn chánh: Nghĩa là tập trung tinh thần (đúng với chánh pháp). Bát chánh đạo là giới luật trọng yếu của người học Phật. Người hành trì Bát chánh đạo tâm hồn sẽ thanh khiết, hành vi đoan chánh và có một tương lai tươi sáng, hạnh phúc Bài 34: HỌC ÐẠO Có vị sa môn nọ ban đêm tụng kinh Di giáo của đức Phật Ca-diếp. Tiếng tụng nghe bi ai như hối hận và thối chí. Ðức Phật hỏi thầy sa môn: - Xưa kia ở nhà thầy từng làm nghề gì? Ðáp rằng: - Con thích gảy đàn cầm.
  • 16. 16 - Vậy nếu dây đàn bị chùn thì thế nào? - Thưa, không kêu. - Dây đàn quá căng thì sao? - Dạ, tiếng kêu chát và ngắn. - Còn không quá căng và không quá chùn thì sao? - Tiếng đàn sẽ ngân dài. Ðức Phật dạy: - Sa môn học đạo cũng như vậy, nếu giữ tâm chừng mực thì có thể đắc đạo. Ðối với sự tu tập nếu quá gấp gáp thì thân sẽ mỏi mệt. Thân nếu mỏi mệt thời ý sẽ sanh phiền não. Ý nếu sanh phiền não tức sẽ thối chí. Nếu thân đã thối chí thì tội sẽ lớn mạnh. Chỉ có thanh tịnh an lạc thì đạo mới không mất. BẬC HỌA SƯ VĨ ÐẠI
  • 17. 17 Vào thời nhà Ðường, hoàng đế rất sùng tín Phật giáo. Vua chiêu mộ hàng loạt các bậc họa sư đến đẽo đục các vách núi ở Ðôn Hoàng, kiến thiết các động đá, nhào nặn nên các bức bích họa Phật giáo và tượng Phật để truyền bá Phật giáo. Có họa sư nọ, nguyên là một tín đồ Phật giáo thuần thành, phát nguyện điêu khắc một trăm vị đại Bồ-tát với các tư thế khác nhau. Nơi động đá ông ấy làm việc có một ô cửa, ánh sáng và không khí theo lối ấy để vào trong động. Ðến buổi chiều, khi hoàng hôn buông xuống, ông phải thắp đèn mới có thể thấy rõ mọi vật. Làm việc suốt hơn mười năm, ông không khi nào rời khỏi động nên quên hết bầu trời ở ngoài. Ông chỉ chú tâm cần mẫn đến việc mô phỏng và sáng tạo. Một hôm, ông đếm thử các bức tượng đã hoàn thành thì thấy được chín mươi chín bức rồi, chỉ còn một vị nữa thôi thì có thể hoàn thành tâm nguyện.
  • 18. 18 Thế là ông miệt mài cố hình dung ra một vị Bồ-tát có vẻ mặt nghiêm nghị, nhưng dù cố thế nào cũng nghĩ không ra dung mạo mới. Nhiều ngày sau, một tối nọ, ông nằm mộng thấy một vị Bồ-tát thân sắc vàng óng ánh nói với ông rằng: - Không nên phí sức như vậy, đã đủ một trăm tượng rồi, ông họa sư ạ! Họa sư tỉnh dậy, cẩn thận đếm lại một lần nữa nhưng vẫn chỉ được chín mươi chín bức tượng. Ông cảm thấy rất buồn nên quyết định ra ngoài tìm các tập tranh về vẽ. Ngoài biên cương cảnh vật lạnh lẽo hoang vu, sa mạc chạy tít tận chân trời, chẳng một dấu chân người, chỉ may có đâu đôi ba vị tu khổ hạnh trên các chóp núi. Ông tìm đến một vị tăng và nhờ vị ấy chỉ giáo cho mình. Vị tăng ấy nói: - Anh không cần tìm kiếm gì cho mệt, giấc mộng của anh thật linh dị, đúng là đủ một trăm vị rồi đó!
  • 19. 19 Họa sư giật bắn mình, cho rằng vị Tăng đã đùa mình. Nhưng vị ấy vỗ vai ông họa sư, trang trọng nói tiếp: - Anh rời quê hương, ngàn dặm xa xôi đến đây hiến mình cho Phật pháo, sự cống hiến và tinh thần vĩ đại này chính là hành vi của Bồ-tát, chín mươi chín vị cộng thêm anh chẳng phải đủ một trăm vị đó sao? Vị họa sư quá khiêm tốn và không dám nghĩ như vậy nên vội vàng cáo từ vị Tăng. Về sau, hoàng đế biết được chuyện này bèn hạ chiếu khen thưởng. Ở một đoạn trong thánh chỉ, vua ra lệnh cho điêu khắc dung mạo của vị họa sư để lưu lại kỷ niệm. Cuối cùng, vị họa sư kia cũng hoàn thành ước nguyện vĩ đại là điêu khắc một trăm vị Bồ-tát LỤC ÐỘ Chúng ta qua sông, muốn từ bờ này qua bờ bên kia thì nhất định phải đi ngang cây cầu hoặc đi thuyền bè.
  • 20. 20 Cũng vậy, người học đạo muốn từ bờ sanh tử khổ đau bên này vượt thoát sang bờ Niết-bàn an lạc bên kia thì tất yếu cần có phương pháp tu tập giống như công năng của chiếc cầu và con thuyền. Phương pháp này có sáu: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Bây giờ xin giải thích các phương pháp trên như sau: 1. Bố thí: Gồm tài thí, pháp thí và vô úy thí. a. Tài thí: Tùy khả năng kinh tế của bản thân mà đem của cải giúp đỡ cho những kẻ nghèo khó. b. Pháp thí: Tùy theo trình độ nhận thức đúng đắn của mình rồi theo đó hướng dẫn mọi người kính trọng Phật pháp. c. Vô úy thí: Tùy theo oai đức của mình, cứu giúp người khác thoát khỏi sự nguy hiểm và sợ hãi. 2. Trì giới: Giới có nghĩa là quy tắc. Tuân theo giới luật sẽ khiến tất cả hành vi trở nên đúng đắn. Cả ý nghĩ, hành động và lời nói đều được thanh tịnh hóa, không còn phạm lỗi lầm nữa. Giới có nhiều loại, hễ là những việc thích hợp chuẩn mực đạo đức thì nên làm
  • 21. 21 theo. Bát chánh đạo, năm giới, mười điều thiện chính là những khuôn phép mà chúng ta nên hành trì. 3. Nhẫn nhục: Tức là nhẫn chịu sự đau khổ trong những nghịch cảnh như: hạn hán, giông bão, động đất, nóng lạnh... của hoàn cảnh; sự ngheøo khổ, bệnh tật, đói khát... của đời người; lòng tham lam, sân hận, oán hờn... của tâm lý. 4. Tinh tấn: Người học Phật kể từ khi phát tâm Bồ-đề rộng lớn cho đến lúc thành Phật, quả thực thời gian rất dài và trách nhiệm rất nặng nề. Cho nên phải có một tinh thần không sợ sệt, dũng mãnh và tinh tấn; phải nỗ lực chuyển hóa tâm lý và các hành vi tà hạnh như tham lam, sân hận, ngu si; tu tập các phẩm hạnh tốt đẹp như bố thí, trì giới, nhẫn nhục v.v... phải có một tinh thần không biết mệt mỏi mới diệt trừ được tập quán bất thiện nhiều đời và tích lũy vô lượng công đức để bước dần lên quả vị Bồ-tát, Phật. 5. Thiền định: Thường ngày thân tâm chúng ta quen với lối sống loạn động và ý chí lại bạc nhược. Nếu muốn tiến đến sự nghiệp vĩ đại, thành Phật thành Thánh thì quả thực rất khó thành tựu. Tu tập thiền định khiến tư tưởng đi vào khuôn phép thánh thiện,
  • 22. 22 tinh thần an định, sau nữa là thanh lọc dục niệm và tất cả vọng tưởng. Người thực tập thiền định nhuần nhuyễn thì sức chuyên chú rất mạnh, ý chí vững vàng và không dễ bị hoàn cảnh cám dỗ, lại thêm thân thể được nhẹ nhàng, an lạc và tự tại. Niệm Phật là một phương pháp thiền định, miệng niệm danh hiệu Phật, tâm quán tưởng tướng hảo trang nghiêm của Phật thì tự nhiên sức chú ý được tập trung. Cho nên, niệm Phật cũng là một phương pháp tốt để tu tập thiền định. Chúng ta đừng bao giờ cười cợt cho rằng niệm Phật là việc làm mê tín. 6. Trí tuệ: Chúng ta học Phật, một mặt cần tiếp thu học vấn, tri thức, kỹ năng của thế gian, rồi tùy khả năng trợ giúp chúng sanh khiến họ được lợi ích. Mặt khác, nghiên cứu Phật pháp, học rộng, thông hiểu, tư duy, cầu chứng để đạt được đại trí tuệ. Tu hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ thì có thể khiến chúng ta thành Bồ-tát, thành Phật. Nó giống như chiếc cầu và con thuyền nên được gọi là Lục độ. TỨ ÐẾ
  • 23. 23 Giáo lý căn bản của Phật giáo chính là pháp Tứ đế. Tứ đế tức là bốn chân lý: khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế. Khổ đế và tập đế là đạo lý giải thích thế gian; diệt đế và đạo đế là đạo lý nghiên cứu xuất ly thế gian. - Khổ đế: Khổ đế có nghĩa là khổ não, bất an. Ngay trong thân thể và tinh thần của chúng sanh luôn có sự tồn tại của khổ não và bất an. Có thứ khổ não vốn có và có từ lúc sanh, có thứ khổ não sanh ra từ cuộc sống, từ tuổi già sức yếu, từ bệnh tật và từ cái chết. Ở phương diện con người mà nói thì có khổ não thương yêu mà biệt ly, khổ não mong cầu nhưng không được, khổ não oán đối ghen ghét và khổ của ngũ ấm xí thạnh. Ðức Phật dùng trí tuệ quán sát các hiện tượng của thế gian và đưa ra kết luận rằng thế gian là một bể khổ. - Tập đế: Tập đế có nghĩa là chiêu tập. Nguồn gốc của khổ não chính là do ảnh hưởng từ các tâm lý xấu, ví dụ như: tham lam, sân hận, ngu muội, kieâu mạn, nghi hoặc, tà kiến v.v... Nó ảnh hưởng đến lời nói, việc làm, dần dà trở thành thói quen, hình thành một lực lượng; mà lực lượng này còn được gọi là tập lực, tức là
  • 24. 24 lực lượng được tích lũy từ thói quen và cũng chính là sự chiêu tập của khổ não. - Diệt đế: Chúng sanh đã biết sanh tử là khổ, lại biết nguồn gốc của sự khổ, muốn trừ bỏ nó cần phải diệt khổ não. Diệt trừ khổ não, thoát khỏi sanh tử, ra ngoài vòng luân hồi, đạt đến cảnh giới thanh tịnh vĩnh hằng an lạc, đó gọi là chân lý của diệt đế. - Ðạo đế: Là phương pháp diệt trừ khổ não, hướng dẫn chúng sanh đến cảnh giới thanh tịnh vĩnh hằng, an lạc. Lời huấn thị thiết thực vô cùng trọng tâm, vô cùng chính xác mà đức Thế tôn đã để lại cho chúng ta chính là Bát chánh đạo. Chúng ta hiểu rõ Tứ đế, thực hành đạo đế thì thân tâm sẽ đạt được sự an lạc. TỨ VÔ LƯỢNG TÂM Chúng ta phát tâm làm những việc tự lợi lợi tha thì phải có đầy đủ tâm từ bi hỷ xả lượng vô biên đối với chúng sanh. Có tâm vô lượng như vậy mới có thể thực hiện tất cả hành vi hiền thiện. Tứ vô lượng tâm bao
  • 25. 25 gồm: tâm từ vô lượng, tâm bi vô lượng, tâm hỷ vô lượng và tâm xả vô lượng. Vô lượng có nghĩa là không thể hạn lượng. Chúng sanh vô lượng cho nên đối tượng làm ích lợi người khác cũng phải vô lượng. Chư Phật, chư Bồ-tát tạo vô lượng công đức, độ vô lượng chúng sanh, cho nên có tâm nguyện vĩ đại: “Chúng sanh độ hết, mới chứng Bồ-đề; địa ngục chưa trống, thề không thành Phật”. Dưới đây xin lần lượt giải thích các tâm vô lượng như sau: - Tâm từ vô lượng: Từ là nhân ái, có nhân ái thì một mặt khiến người vui vẻ, không khởi một ý nghĩ não hại người khác; mặt khác, lòng dạ hiền từ, không khởi tâm giận hờn, tự nhiên, hòa nhã, rộng lượng, hài hòa. - Tâm bi vô lượng: Tâm bi có nghĩa là tâm thông cảm, thương xót sự khổ đau của người khác, dứt trừ khổ não cho người. Luôn luôn nhớ nghĩ đến tâm từ bi, vĩnh viễn không thối chuyển tâm ấy, mãi mãi không xao lãng việc giúp đỡ mọi người, gọi là tâm bi vô lượng.
  • 26. 26 - Tâm hỷ vô lượng: Hỷ là hoan hỷ, thấy người làm việc thiện thì không ngăn cản, hoặc họ có chuyện vui mừng thì cũng không nên có sự đố kỵ, mà trong lòng nên vui vẻ hướng đến họ chúc mừng, giúp họ thành công. Thường thường làm như vậy, mãi mãi làm như vậy thì gọi là tâm hỷ vô lượng. - Tâm xả vô lượng: Xả là bình đẳng, nghĩa là đối với tất cả chuyện oan gia nghịch cảnh, việc không như ý, trong tâm vẫn an tịnh, không có một chút oán hờn. Ðối với mọi cảnh thuận duyên cũng không ái luyến. Tình cảm và lý trí được giữ thăng bằng, không vì ngoại cảnh mê hoặc mà dao động, con người sẽ được đứng đắn, hòa bình. Ðây gọi là tâm xả vô lượng. Tứ vô lượng tâm là những pháp rất trọng yếu để thực hành hạnh Bồ-tát. LÀM THIỆN Ðức Phật dạy mọi người làm các việc thiện. Vậy chữ “thiện” mà Ngài muốn nói có nghĩa là tất cả những gì có thể khích lệ con người tiến bộ, có thể đưa đến
  • 27. 27 hạnh phúc và lợi ích cho tha nhân. Thiện gồm mười một loại: 1. Tín tâm: Có niềm tin sâu sắc đối với đạo lý làm thiện được phước, làm ác gặt hái điều không tốt. 2. Bất phóng dật: Tuân thủ tập quán đạo đức, vun bồi hành vi hiền thiện và mãi mãi giữ gìn các việc này. 3. Khinh an: Khiến thân tâm khỏe mạnh, nhẹ nhàng. 4. Xả: Chánh trực, bình đẳng, thân tâm không có tình huống hôn trầm. 5. Tàm: Cảm thấy xấu hổ khi mình có những hành vi sai trái, do đó mà không làm ác nữa. 6. Quý: Ðối với những hành vi sai trái mà mình đã làm, cảm thấy xấu xa khi có tội với người khác, do đó chấm dứt không làm ác nữa. 7. Vô tham: Không ái luyến và chạy theo hoàn cảnh khoái lạc. 8. Vô sân: Không giận hờn, phẫn nộ khi gặp nghịch cảnh. 9. Vô si: Có nhận thức rõ ràng xác thực đối với mọi việc.
  • 28. 28 10. Bất hại: Nhân từ thương yêu động vật, có lòng trắc ẩn và cảm thông. 11. Cần: Vâng theo lời giáo huấn đạo đức, siêng năng học tập, dõng mãnh tinh tấn. Người thường giữ gìn các hành vi thiện tâm thì tâm hồn thanh khiết, hành vi cao thượng, đời sống hạnh phúc an vui. BÁO ÂN Làm người thì phải biết ơn và đền ơn. Ngoài công ơn của cha mẹ thầy cô, còn có hai ơn nữa mà chúng ta không được quên mất và cần phải báo đáp, đó là ơn của Phật vàø ơn của chúng sanh. 1. Ơn Phật: Ðức Thế tôn xuất hiện ở nhân gian đem chân lý “cuộc đời là khổ, chúng sanh có thể thành Phật” nói với mọi người, độ người thoát khỏi đường mê, thành chánh giác. Ân đức này cần phải báo đáp. 2. Ơn chúng sanh: Ðức Phật dạy rằng chúng sanh từ rất nhiều kiếp sống đã kết duyên qua lại với nhau, hoặc làm cha mẹ, hoặc làm thân thuộc, hoặc làm thầy bạn, quan hệ rất mật thiết. Ðời đời kiếp kiếp trong quá
  • 29. 29 khứ, mọi người đã có ơn với ta. Ðồng thời, các vấn đề nhu yếu đời này như y phục lương thực, nơi ở, phương tiện đi lại v.v... đều nhờ mọi người và xã hội duy trì cung cấp. Ví dụ: người nông dân trồng ngũ cốc, người công nhân làm công nghệ, thương nhân thì buôn bán, thầy thuốc thì khám bệnh, cảnh sát thì duy trì trật tự an ninh, nhân viên bưu điện thì truyền đạt tin tức, thầy giáo thì dạy dỗ v.v... Mọi người giúp đỡ lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau, cống hiến hết năng lực của mình, tiếp nhận mọi nhu cầu thiết yếu, thúc đẩy xã hội tiến bộ và phồn vinh. Mọi người thật sự đều có ơn huệ đối với ta. Ðức Phật Ðã dạy: “Tương thử thân tâm phụng trần sát, thị tắc danh vi báo Phật ân” (Ðem thân tâm này để phụng sự cho xã hội và chúng sanh, đó là báo đáp công ơn của Phật). “Trần Sát” là xã hội và chúng sanh, chúng ta làm những việc có ích cho xã hội, thì cũng có nghĩa là báo đáp ân Phật. Bây giờ, chúng ta còn nhỏ, nên cần phải bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức tốt và cần nỗ lực học hỏi. Ðến khi sự nghiệp học vấn và nhân cách được trưởng
  • 30. 30 thành thì chính lúc ấy là thời điểm để chúng ta báo đáp ơn Phật và ơn chúng sanh. PHIỀN NÃO Nhà Phật gọi những chuyện ưu phiền, não loạn về thân và tâm là phiền não. Phiền não có hai loại lớn: loại thứ nhất là căn bản phiền não, loại thứ hai là tùy phiền não. Căn bản phiền não có sáu loại: tham, sân, si, mạn, nghi và ác kiến. 1. Tham: Ðối với vật chất thì muốn chiếm hữu và quá theo đuổi. Ðối với tình cảm thì luyến ái không xả bỏ. Hoặc là ham tiếc những vật của mình nên không chịu bố thí (ban bố cho ai). 2. Sân: Là giận hờn thịnh nộ. Ðối với việc không bằng lòng thì không thể nhẫn nhịn, đùng đùng nổi giận, nóng nảy, thô tháo và trút cơn thịnh nộ lên người khác, hoặc chửi bới, đánh đập v.v... 3. Si: Ngu si mê muội, không hiểu rõ chân lý, không xác định được thiện ác, không phân biệt được trắng đen, không biết rõ phải trái, trong tâm chỉ có dục vọng và căm hờn, vì đó mà đưa đến các hành vi tội ác.
  • 31. 31 4. Mạn: Là kiêu mạn, thờ ơ, xem thường người khác, cho rằng mình là tất cả, ưu việt hơn mọi người, không chịu khiêm tốn học tập. 5. Nghi: Là hoài nghi, là người do dự không dứt khoát, không có năng lực phán đoán. Ðối với Phật pháp và vấn đề thiện ác thì do dự không nhất quyết, kết quả là bỏ con đường chánh mà không chịu theo. 6. Ác kiến: Là người có ác kiến, kiến giải lệch lạc, không tin nhân quả, không tin Phật pháp, không kiêng dè điều gì cho nên mới làm tất cả mọi điều xấu xa. Các loại căn bản phiền não này chiếm cứ trong tâm, và theo đó sản sinh ra rất nhiều phiền não nhỏ hơn, cho nên gọi các phiền não nhỏ là tùy phiền não. Ví dụ các tâm lý xấu như: không xấu hổ, căm hờn, che dấu, đố kỵ, nịnh hót, kiêu ngạo, lười biếng, phóng túng, tán loạn, bỏn xẻn .v.v... Cái tâm lý ấy có lúc chỉ đơn độc nhiễu loạn tâm trí, có khi mấy loại cùng lúc xuất hiện, khiến con người tâm thần không yên ổn, đau buồn và thống khổ.
  • 32. 32 Tư tưởng có thể thao túng hành vi, tư tưởng tốt sinh ra hành vi tốt, tư tưởng xấu ác sinh ra hành vi sai trái. Cho nên, đức Phật dạy mọi người chú ý hễ tâm ý được mạnh khỏe thì các phiền não sẽ không thể phát sanh. Tư tưởng không lúc nào dừng nghỉ, nếu phiền não đã được ngăn chặn thì tư tưởng thấm nhuần pháp thiện sẽ xuất hiện thay thế pháp ác. Cho nên, suy niệm về Phật-Pháp-Tăng, nghĩ về bố thí, rộng lượng, nhẫn nhịn, trì giới, tinh tấn .v.v... chính là phẩm chất đạo đức cao đẹp trong đời sống người học Phật. Lúc nào cũng nhớ nghĩ, thường thường nhớ nghĩ như vậy thì ý thức sẽ được ý nghĩ thiện hun đúc, lâu dần ý nghĩ ác tự nhiên bị tiêu diệt. Phiền não dần dần trừ sạch, ác nghiệp cũng theo đó giảm đi. Ðời sống quang minh chánh đại, sẽ bước trên con đường đúng đắn. Nếu phiền não được đoạn trừ một cách triệt để thời sẽ đạt đến giai đoạn giải thoát luân hồi, vượt ra ngoài ba cõi. PHẬT PHÁP
  • 33. 33 Trong hành trình giáo hóa suốt bốn mươi chín năm, đức Phật Ðã giảng thuyết hơn ba trăm hội với nhiều nội dung rất phong phú. Theo như chân lý mà đức Thế tôn đã thể nghiệm thì mạng sống luân chuyển liên tục chứ không hạn cuộc trong một thời kỳ nhất định. Ðã là sự sống thì không sao tránh khỏi tạo nghiệp, sự sống hiện hữu thì nghiệp báo cũng đồng thời hiện hữu, trong đó có cả nghiệp thiện lẫn nghiệp ác. Nghiệp quá khứ đưa đến quả hiện tại, nghiệp hiện tại đưa đến quả tương lai. Nó hỗ tương làm nhân quả cho nhau, tạo nên một dòng tiếp nối vô cùng vô tận của bể nghiệp mênh mông và ngút ngàn kiếp sống. Dù cho cuộc đời có nhiều nỗi thống khổ nhưng đức Phật vẫn tuyệt đối không dạy mọi người phải yếm thế, và cũng chẳng chủ trương bi quan. Bởi đức Phật xét thấy trong vòng luân chuyển không cùng ấy vẫn tiềm tàng khả năng giải thoát, tất nhiên khổ não cũng sẽ có hồi chấm dứt. Cho nên, Ngài dạy chúng sanh hãy đối mặt với hiện thực khổ đau để tìm ra nguyên nhân đưa đến đau khổ, và chọn lựa phương cách loại bỏ chúng thì biết được cảnh giới sau khi thoát khổ. Nếu làm
  • 34. 34 được vậy, đời sống tương lai sẽ xán lạn toàn mỹ và chẳng phải là chuyện ngoài tầm tay. Phương pháp giải thoát khổ đau tuy nhiều nhưng có thể tóm gọn như sau: “Không làm các việc ác, Hãy làm các việc lành, Giữ tâm ý trong sạch, Ðó là lời Phật dạy”. Ngoài điều này ra chúng ta cũng cần phải: - Giữ năm giới: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. - Làm mười điều thiện: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói lời ác độc, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời hoa mỹ, không tham lam, không sân hận, không si mê. - Thực hành Bát chánh đạo: Chánh kiến, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh tư duy, chánh mạng, chánh ngữ, chánh niệm, chánh định. - Hành trì sáu ba la mật: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.
  • 35. 35 Thực hành theo lời dạy của đức Phật thì cho dù ở nơi nào, thời điểm nào, đời sống của chúng ta cũng được tươi sáng và an lạc, đời này đến kiếp khác sẽ dần trút bỏ gánh nặng phiền não. Khi đạt đến đời sống hoàn toàn thanh khiết, công đức phước tuệ đầy đủ, chúng ta sẽ tùy tâm đến nơi này hoặc nơi khác để làm những việc lợi ích hơn, trang nghiêm hơn. PHẬT A DI ÐÀ Phật A Di Ðà có nghĩa là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang. Ngài và đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều là đạo sư của ba cõi, là cha lành của bốn loài, là bậc thầy cao cả của trời người. Lúc đương còn tu hạnh Bồ-tát, Ngài có phát thệ nguyện rộng lớn, nguyện kiến tạo một cõi nước thanh tịnh an lạc cho tất cả chúng sanh. Theo sự ghi chép trong kinh, cõi tịnh độ ấy rất đẹp đẽ thanh tịnh, được trang nghiêm bởi muôn vàn châu báu. Nhân dân cõi ấy đều là những vị lương thiện ngay thẳng, thân thể không còn bị khổ lụy bởi sanh già bệnh chết, tâm tánh sạch hết các phiền não như: tham lam, sân hận, kiến chấp sai lầm và kiêu mạn.
  • 36. 36 Chúng sanh cõi Tịnh độ ngày ngày được nghe đức Phật A Di Ðà nói pháp, được gần gũi với các vị bằng hữu thánh thiện. Một khi sanh về đây thì tu tập cho đến lúc thành tựu rồi mới trở lại nhân gian cứu giúp mọi loài; nhưng phải là những người thiện mới có thể sanh về nơi đây. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ có nói rằng: 1.Phải là những người quy y Tam bảo. 2.Người phát tâm Bồ-đề. 3.Người hiếu thảo với cha mẹ. 4.Người tu tập mười điều thiện. Hằng ngày niệm danh hiệu đức Phật A Di Ðà, tưởng nhớ đến các hạnh nguyện vĩ đại trang nghiêm, học theo hạnh nguyện của Ngài, làm điều ích lợi cho chúng sanh thì tự nhiên những người ấy thân tâm được an lạc và sẽ được Phật A Di Ðà hộ niệm sanh về tịnh độ. Ðức Phật A Di Ðà với những hạnh nguyện, cõi nước, nhân dân ... chính là những điều mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã giới thiệu với các đệ tử của Người. Về sau, những lời ấy được biên chép thành một tập sách có tên là kinh A Di Ðà KINH A DI ÐÀ
  • 37. 37 Vì sao đức Phật ấy có danh hiệu là A Di Ðà? Này Xá-lợi-phất! Ðức Phật ấy có hào quang rực rỡ chiếu khắp mười phương thế giới mà không bị chướng ngại cho nên gọi là A Di Ðà. Vả lại, này Xá-lợi-phất! Thọ mạng của đức Phật và nhân dân cõi tịnh độ thì vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp1 cho nên gọi là A Di Ðà. Này Xá-lợi-phất! Ðức Phật A Di Ðà có vô lượng vô biên chúng đệ tử Thanh văn, đều là những vị A-la-hán, chẳng thể tính toán biết được số ấy, và chúng Bồ-tát lại cũng như vậy. Xá-lợi-phất! Cõi nước đức Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như vậy. Này Xá-lợi-phất! Chúng sanh sanh về cõi nước cực lạc đều là những bậc A-bệ-bạt-trí2 , trong đó Nhất sanh bổ xứ3 số nhiều vô kể, chẳng phải tính đếm có thể biết được. Chỉ có thể nói rằng số ấy vô lượng vô biên A-tăng-kỳ. Xá-lợi-phất! Chúng sanh nghe được lời này nên phát nguyện sanh về nước ấy. Bởi vì sao? Vì được trú ngụ cùng với các bậc thánh. Xá-lợi-phất! Không thể
  • 38. 38 chỉ chút ít nhân duyên thiện căn phước đức mà có thể sinh về nước ấy. Xá-lợi-phất! Nếu có người nam hoặc người nữ nào nghe được danh hiệu Phật A Di Ðà rồi hết lòng niệm danh hiệu Phật ấy, hoặc là một ngày, hai ngày, ba ngày... cho đến bảy ngày mà nhất tâm bất loạn thì khi lâm chung người đó sẽ được đức Phật A Di Ðà và các thánh chúng hiện đến trước người ấy. Do đó, khi lâm chung, tâm người ấy không điên đảo, liền được sanh về cõi cực lạc của đức Phật A Di Ðà. Xá-lợi-phất! Ta thấy việc ấy rất ích lợi cho nên mới nói ra. Nếu có người nào nghe lời Ta nói, hãy nên phát tâm sanh về nước ấy. ÐỨC PHẬT DƯỢC SƯ VÀ BỒ-TÁT DI LẶC Trong các đức Phật có một vị mang danh hiệu là Dược Sư Lưu Ly Quang Như lai. Cõi nước của đức Phật này rất thanh tịnh trang nghiêm, chúng sanh ở đó đã sạch hết các phiền não và xã hội không còn chuyện xấu ác. Lúc đang còn tu hạnh Bồ-tát, Ngài từng lập thệ
  • 39. 39 nguyện rộng lớn khiến chúng sanh cầu gì được nấy, trong đó có một lời nguyện như vầy: “Nếu người nào mắc bệnh mà không có thuốc men, không gặp được thầy thuốc, chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật Dược Sư thì thân tâm kẻ ấy liền được an lạc và mạnh khỏe lại như cũ”. Bởi đức Phật này có lời nguyện rất vĩ đại là nguyện tiêu trừ tai nạn, tăng thêm tuổi thọ cho mọi người nên người đời thường xưng tụng Ngài là Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật. Bồ-tát Di Lặc là vị Phật kế tiếp đức Phật Thích Ca Mâu Ni và sẽ sanh xuống thế giới chúng ta. Theo lời kinh ghi lại thì Bồ-tát Di Lặc giáng sinh từ cung trời Ðâu Suất. Lúc đó, thế giới này rất lý tưởng: đẹp đẽ, hòa bình, yên ổn, nhân dân vui vẻ, thuận hòa, giữ gìn phép tắc đạo đức xã hội, cùng sống trong đời sống hạnh phúc tiến bộ. Bồ-tát Di Lặc đem Phật pháp ban bố khắp nơi, khuyên mọi người giữ năm giới, mười điều thiện, thực hành Bát chánh đạo.... Dân chúng lúc ấy đều rất tin
  • 40. 40 tưởng thực hành theo lời dạy của Ngài nên đời sống hiện thời rất an lạc và đời sau sanh lại nhân gian hoặc sanh lên cõi trời. Ngoài ra cũng có một số vị phát tâm Bồ-đề, tích cực tu tập hành thiện, làm những việc lợi người lợi mình, thành Phật chứng thánh. Bức tượng mà ta thường thấy đặt trước chùa chính là Bồ-tát Di Lặc. Nay chúng ta kết duyên với Ngài là vì muốn gieo xuống hạt giống làm Phật trong tương lai, và muốn tạo duyên lành để được Ngài độ thoát. VĂN THÙ VÀ PHỔ HIỀN Bồ-tát Văn Thù là một vị Bồ-tát phát chí nguyện đại thừa, là bậc có trí tuệ đệ nhất và rất có tài trong việc hóa độ chúng sanh. Ðặc biệt, Ngài có tài biện luận nên giáo lý mà Bồ-tát giảng giải luôn có khả năng hướng dẫn con người đến chỗ chí thiện. Số người đạt đến sự giác ngộ do chính Ngài dìu dắt nhiều vô kể.
  • 41. 41 Trong lúc nói kinh Hoa Nghiêm, đức Phật có khen ngợi rằng: “Bồ-tát Văn Thù luôn là mẹ vô lượng chư Phật, là bậc thầy của vô số Bồ-tát, là vị giáo hóa thành tựu cho rất nhiều chúng sanh”. Bồ-tát Văn Thù vì thương tưởng đến tất cả chúng sanh nên phát nguyện vĩ đại như vầy: - Nếu chúng sanh cần phải hiện thân người giàu có, kẻ bần cùng, người đức hạnh, kẻ gây nhiều tội ác, thậm chí phải hiện thân người đồng nghiệp mới có thể giáo hóa được họ thì tôi xin nguyện làm các thân ấy. Rồi dần đem giáo lý hướng dẫn, cảm hóa khiến họ được hạnh phúc ngay kiếp sống hiện tại và đời sau cũng được giải thoát. Ngài hướng dẫn và thanh tịnh hóa đời sống cho tất cả mọi người, luôn luôn phát nguyện, luôn luôn làm những việc có ích cho mọi loài nên Bồ-tát thành tựu công đức rất tối thượng. Bồ-tát Văn Thù thường cỡi con sư tử có bộ lông màu xanh, đây tượng trưng cho sự dũng mãnh không sợ sệt và chí nguyện không bao
  • 42. 42 giờ thối thất của Ngài. Bồ-tát là tấm gương sáng cho tất cả chúng ta noi theo. Bồ-tát Phổ Hiền cũng là một vị Bồ-tát phát chí nguyện đại thừa và có vô lượng vô biên công đức. Ngài lập nguyện rằng: “Cõi hư không có thể cùng tận, chúng sanh có thể cùng tận nhưng thệ nguyện của Tôi sẽ không bao giờ cùng tận. Cho dù gặp nhiều khó khăn đau khổ, Tôi cũng xin nguyện không bao giờ nản chí”. Ngài thường dạy mọi người: - Nếu muốn thành tựu trí tuệ vĩ đại như chư Phật thì cần phải đem tâm từ bi rộng lớn làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, giúp đỡ mọi người đi trên con đường hoàn toàn vắng bóng tội ác và đau khổ. Bồ-tát có mười hạnh nguyện rất vĩ đại: Một là lễ kính chư Phật, hai là xưng tán Như lai, ba là rộng tu cúng dường, bốn là sám hối nghiệp chướng, năm là tùy hỷ công đức, sáu là thỉnh chuyển pháp luân, bảy là thỉnh Phật trụ thế, tám là thường theo Phật học, chín là hằng thuận chúng sanh, mười là hồi hướng cho khắp cả.
  • 43. 43 Ngài thường ngồi trên con voi trắng tượng trưng cho Bồ-tát có tinh thần vững chãi, kiên nghị, sức mạnh vĩ đại và có đủ sự kham nhẫn gánh vác tất cả những việc khó khăn. Bồ-tát Văn Thù và Bồ-tát Phổ Hiền là những vị tiêu biểu cho Phật giáo đại thừa. Vì vậy, chúng ta nên hết lòng tán dương và học theo hạnh nguyện của các Ngài. BỒ-TÁT QUÁN THẾ ÂM Năm nọ, thành Hàng Châu bị bệnh ôn dịch hoành hành, vụ mùa lại mất trắng nên dân chúng lâm vào cảnh đói kém bệnh tật thật đáng thương. Một ngày nọ, có một thiếu nữ nhan sắc kiều diễm ngồi trước mũi một chiếc thuyền lớn đang cặp bến vào bờ hồ trong thành. Vì những người đang lâm nạn, cô gái ấy có lời thỉnh cầu rằng: “Hễ ai bỏ tiền mua cô thì cô sẽ về nhà
  • 44. 44 hầu hạ cho kẻ ấy và xin đem số tiền này giúp đỡ dân chúng trong thành”. Trên bờ hồ mọi người tranh nhau mua và chẳng ai chịu nhường ai. Cuối cùng, họ quyết định dùng phương pháp ném tiền, hễ ai ném tiền trúng cô gái thì người đó được quyền rước nàng về nhà. Lúc ấy, tiền đồng tiền vàng tiền bạc được ném tới tấp, tiền rơi đầy ắp cả mũi thuyền, khoang thuyền nhưng chẳng có đồng nào ném trúng nàng. Mọi người đều thất vọng và không muốn ném nữa. Cô gái ngồi trên thuyền mỉm cười hướng về những người trên hồ chắp tay cám ơn rồi đem tất cả số tiền giúp người nghèo. Tin này nhanh chóng làm chấn động khắp thành Hàng Châu. Những người giàu có hết sức cảm động trước sự nghĩa hiệp của nàng nên hăng hái bố thí. Lúc đó, người nghèo được lương thực, kẻ bần cùng thì được tiền của, người bệnh thì có thuốc chữa, mọi người được no đủ và rất hạnh phúc.
  • 45. 45 Nhưng bỗng nhiên chiếc thuyền của cô gái bừng lên ánh sáng muôn màu bao trùm khắp một vùng. Một vị Bồ-tát dung mạo trang nghiêm đang chắp tay với nụ cười hiền từ. Mọi người thấy vậy rất đỗi ngạc nhiên. Ngài bảo: “Ta chính là Bồ-tát Quán Thế Âm, ta hiện đến đây để thức tỉnh và khơi dậy lòng nhân từ của mọi người. Thông cảm, thương mến và giúp đỡ mọi người là tính cách cao quý, là trách nhiệm thiêng liêng, là thiên chức mà nhân loại không thể chối từ. Hôm nay, các người đã thể hiện những nghĩa cử thật đáng khen ngợi, nhất định các người sẽ được hạnh phúc”. Dân chúng nghe Bồ-tát dạy, vừa cảm động vừa sung sướng, không ai bảo ai tự động chấp tay đồng niệm nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát. Câu chuyện này được phổ biến rộng rãi ở Trung Quốc và làm cho niềm tín ngưỡng của mọi người đối với Bồ-tát ngày càng sâu sắc hơn. Bồ-tát Quán Thế Âm rất có duyên với dân chúng Trung Quốc. Ngài để lại rất nhiều sự tích kỳ lạ và nghiễm nhiên chúng trở
  • 46. 46 thành một tín ngưỡng sâu đậm trong dân gian. Ngài thường hiện thân nữ vì tánh cách của nữ giới nhu hòa dịu dàng, điều này tượng trưng cho lòng nhân từ của Bồ-tát đối với chúng sanh như mẹ hiền thương con. Người đời gọi danh hiệu của Ngài là Bồ-tát Quán Thế Âm cũng bởi có nguyên nhân và lai lịch của nó. Ngài có chí nguyện vĩ đại, năng lực thù thắng. Hễ người nào niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thì dầu cho lâm vào hoàn cảnh nào, thậm chí gặp các nạn như lửa lớn, bão dữ, tử hình, binh đao, giặc cướp, bệnh tật v.v... Ngài đều từ bi đến cứu thoát, khiến người đang lâm nạn thoát khỏi thống khổ được an vui hạnh phúc. Vì luôn luôn lắng nghe tiếng đau khổ của chúng sanh ở thế gian nên Ngài có danh hiệu là Quán Thế Âm. Từ vô số kiếp về trước, Bồ-tát Quán Thế Âm đã thành Phật nhưng do lòng từ bi bao la nên Ngài không trụ vào Niết-bàn mà luôn hiện thân thuyết pháp cứu độ mọi loài. Thậm chí, để phù hợp với hoàn cảnh và mong ước của mỗi chúng sanh, Ngài còn hiện
  • 47. 47 thân Phật, thân Bồ-tát, Ðế thích, trưởng giả, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, thân nam, thân nữ, trẻ em v.v... để gần gũi cuộc sống mọi người rồi sau đó dần cảm hóa giác ngộ họ. Mỗi khi tinh thần chúng ta bất an, phiền muộn, sợ hãi, giận dỗi; cuộc sống chúng ta khó khăn, đói khổ, bệnh tật, thất vọng, thì những lúc đó chúng ta nên thành kính niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm. Sự cảm ứng qua lại của tinh thần sẽ giúp ta loại bỏ những phiền muộn, tinh thần được hài hòa thanh tịnh và tạo ra một sức mạnh tinh thần khiến ta dễ dàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ. CHẾT VÌ NÓNG GIẬN Ðức Phật kể rằng: Trong ao nước nọ có một con rùa đen rất nóng tính. Lúc trời hạn hán, nước ao khô cạn
  • 48. 48 nên nó muốn chuyển đến một nơi khác. Hai chú chim nhạn là bạn thân lâu nay của nó liền đem đến một nhành cây rồi bảo rùa ngậm vào giữa, còn mỗi chú chim ngậm vào mỗi đầu nhành cây. Trước lúc lên đường, hai bạn ấy cẩn thận dặn bạn rùa đứng nói chuyện rồi vỗ cánh bay lên cao. Những đứa trẻ bên đường thấy chuyện này rất kỳ lạ và khôi hài nên chúng vỗ tay chế giễu. Nghe tiếng cười, rùa liền giận dỗi chửi mắng lại. Ðâu hay rằng miệng vừa mở thì thân đã lìa nhành cây rơi trúng đá chết tươi. Chim nhạn thấy bạn chết vô duyên nên đau lòng than rằng: - Ôi! Cứ luôn giận dữ như thế thì có lợi gì đâu! CHÚ CHIM CÔNG HAM CHƠI
  • 49. 49 Ðức Phật kể: Có một con chim công mẹ đi kiếm ăn. Lúc đi, nó dặn con giữ nhà và đừng đi chơi lung tung. Ở nhà, chim con không nghe lời mẹ dặn, nó lén lút trốn khỏi nhà rồi đi tìm lũ bạn chơi đùa. Dọc đường, nó hết ăn trái cây lại tìm đến bờ suối uống nước. Thấy đám cỏ, nó liền xòe cánh nhảy múa. Kết quả, chim con bị thợ săn dùng lưới giăng bắt. Lúc đó, nó mới biết mình quá khờ dại lầm lỗi và khóc òa lên. Nhưng khóc để làm gì, ai bảo không chịu nghe lời mẹ NÓI CHUYỆN PHIẾM Thầy Di-đa thích bàn luận việc tốt xấu của người khác nên ai cũng xa lánh thầy. Hễ thấy thầy đi đến đâu thì mọi người bỏ đi nơi khác hoặc ra dấu cho thầy đi. Chẳng một ai muốn tiếp chuyện với thầy cả. Di-đa lẻ loi và cảm thấy rất buồn. Nhân chuyện xảy ra không mấy tốt đẹp với thầy Di-đa, đức Phật dạy đại chúng:
  • 50. 50 - Nói chuyện không hay của người khác là một hành vi không tốt, chẳng những gây tổn thương cho mọi người mà còn tự chuốc lấy sầu muộn về mình. Như thế không dại dột lắm sao THÍ DỤ NẮM LÁ Vào độ thu, dưới các tán cây trong rừng, những chiếc lá vàng bắt đầu rơi đều trên mặt đất. Các thầy Tỳ-kheo ba bốn người quây quần nói chuyện bên các gốc cây. Quý thầy vui vẻ mãn nguyện cho rằng kiến thức mà mình theo học với đức Phật bấy lâu nhiều vô kể và phong phú lắm. Nghe mọi người bàn tán như vậy, đức Phật liền đến giải thích. Ngài đến bên một gốc cây bốc một nắm lá rồi chỉ rừng cây hỏi rằng: - Các thầy thử nói xem số lá cây trong tay Như lai nhiều hay số lá cây trong rừng nhiều? Các thầy đồng trả lời: - Bạch đức Thế tôn! Ðương nhiên lá trong rừng nhiều hơn số là Người nắm trong tay. - Ðúng thế! Giáo pháp mà Ta đã giảng dạy cũng ít như nắm lá trong bàn tay. Nhưng, những điều mà Ta
  • 51. 51 chưa nói với các thầy còn nhiều lắm, nhiều như lá cây trong rừng. Quý thầy nên nỗ lực tu tập học hỏi, đừng nên lấy chút ít hiểu biết cho rằng đã đủ. LÒNG KIÊN ÐỊNH Châu-lợi-bàn-đà-già là một vị Tỳ-kheo có trí nhớ rất kém, và điều tội nghiệp là thầy chẳng nhớ được một câu kinh câu kệ nào. Mọi người tuy thương thầy nhưng không cách gì để có thể khiến thầy nhớ được. Ðức Phật thương thầy trí nhớ kém nên đích thân đến hướng dẫn cho thầy học. Ngài giao cho Châu-lợi-bàn-đà-già một cây chổi, một cái hốt rác rồi bảo thầy vừa quét vừa đọc: “Quét sạch rác bẩn”. Ðức Phật hy vọng với lối phối hợp việc học đúng như công việc thực tế mà thầy đang làm sẽ dễ học hơn, dễ gây ấn tượng sâu đậm trong trí nhớ của thầy hơn. Nghe lời Phật dạy, Châu-lợi-bàn-đà-già hết lòng học tập, thầy vừa quét rác vừa đọc: “Quét sạch rác bẩn”. Thấy thầy kiên trì lẩm nhẩm một cách khó nhọc, đại chúng ai cũng cảm động. Cứ hễ gặp Châu Lợi ở đâu thì mọi người liền giúp thầy đọc: ”Quét sạch rác bẩn, quét sạch rác bẩn...”.
  • 52. 52 Sau một thời gian dài kiên trì, thầy bắt đầu nhớ được và biết rõ ý nghĩa của câu nói ấy. Thầy hiểu rằng, rác bẩn là những thứ không dùng được nữa và cần phải vứt bỏ. Lòng tham lam, sân hận, ngu si, kiêu ngạo cũng vậy, nó là những thứ “rác rưởi độc hại”, phải quét sạch thì cuộc sống mới hạnh phúc lâu dài. Lúc ấy, tâm trí thầy bỗng nhiên bừng sáng, thầy cấp tốc đến chỗ đức Phật cảm tạ sự chỉ dạy của Ngài. Tinh thần kiên trì học hỏi của Châu-lợi-bàn-đà-già thật đáng nể và đáng để chúng ta ghi nhớ trong lòng. ÐẦU XÀ ÐUÔI RẮN Có mẩu chuyện vui như vầy: Có một con rắn. Hôm nọ không biết vì nguyên cớ gì, đầu rắn bỗng cãi nhau dữ dội với cái đuôi của nó. Trước tiên đầu rắn bảo: - Này đuôi! Tao có hai mắt nhìn đường, tao có miệng để ăn no nên quyền thủ lãnh và dẫn đầu phải thuộc về tao. Cái đuôi cự nự lại:
  • 53. 53 - Không phải thế! Mỗi lúc bò về phía trước anh đều dựa vào tôi, nếu tôi không hợp tác thì đố anh trườn lên được. Nói xong, đuôi rắn quấn chặt vào gốc cây suốt ba ngày liền. Thấy đuôi quá cương quyết, đầu rắn bỗng đâm hoảng và đành nhượng bộ cho cái đuôi. Ðắc thắng, đuôi ngạo nghễ trườn về phía trước, nhưng do thiếu kinh nghiệm dẫn đầu và cái đầu cũng làm ngơ không giúp nên bò đâu được một đoạn thì cả hai rớt ngay xuống hầm lửa chết không kịp ngáp. Ðức Phật kể mẩu chuyện trên để nhắc nhở mọi người rằng: cãi vã, giận hờn nhau chẳng bao giờ đưa đến một kết quả tốt đẹp KẾT BẠN Một lần nọ, đức Phật và A-nan-đà đi vào thành hóa duyên. Trên đường đi, lúc hai thầy trò đến gian hàng bán cá thì đức Phật đi chậm lại. Thấy trên sạp bày bán rất nhiều cá và có để một ít lá cỏ tranh buộc cá ở bênh cạnh, nên Ngài ghé chân
  • 54. 54 vào. Trước tiên đức Phật bảo thầy A-nan-đà đến nắm mớ cỏ tranh rồi bảo thầy ngửi xem nó có mùi gì. Thầy ngửi thì thấy có mùi hôi tanh rất khó chịu. Khi thầy trò đi ngang một cửa tiệm bán hương liệu, đức Phật lại ghé vào. Ðức Phật bảo thầy A-nan-đà sờ các mảnh giấy gói hương liệu, rồi nói thầy ngửi tay một lần nữa. A-nan-đà chỉ ngửi qua thôi đã thấy có mùi thơm thơm dễ chịu. Ðức Phật dạy: - Kết bạn cũng giống như chạm vào vật có mùi thơm và vật có mùi hôi khó chịu. Gần gũi bạn hiền, thầy sẽ được học hỏi và tiếp thu những điều hay lẽ phải từ họ; đời sống thầy sẽ thăng hoa và thơm lừng những đức tính tốt đẹp như mùi hương giữ lại trên tay. Làm bạn với kẻ xấu, thầy sẽ bị nhiễm bởi những thói hư tật xấu từ họ và chuốc lấy các hậu quả tồi tệ. Chúng ta cần gần gũi những người bạn siêng năng, tính tình hiền hậu, trung thành với bè bạn và tránh xa
  • 55. 55 lũ bạn lười biếng, tham lam, tránh xa những kẻ có tính nết hung bạo. ÐỨC PHẬT GIÚP ÐỆ TỬ XÂU CHỈ Tôn giả A-na-luật là một vị tu tập rất tinh tấn. Thầy chuyên tâm đọc tụng lời Phật dạy có khi suốt đêm không ngủ nghỉ. Bởi lao lực lâu ngày như vậy nên đôi mắt của thầy bị mù hẳn. Tuy rất buồn nhưng thầy không bao giờ ủ rũ, mà ngược lại càng chuyên cần tu tập hơn trước. Một hôm, khi biết chiếc áo bị rách một mảnh, thầy liền lấy kim chỉ vá lại. Làm được một lúc thì kim bị tuột mối chỉ, do thầy không thấy đường nên cứ lúng ta lúng túng mãi. Ðức Phật biết A-na-luật gặp khó khăn bèn đến giúp thầy ấy xâu chỉ. A-na-luật rụt rè hỏi:
  • 56. 56 - Xin hỏi huynh nào đang xâu chỉ giúp đệ vậy? - Ta đây! Như lai đang khâu giúp thầy. Ðức Phật vừa trả lời vừa vá lại chỗ rách trên áo. Thầy A-na-luật đã bật khóc trong niềm tôn kính, cảm động. Ðức Phật dạy đại chúng: - Cảm thông và tận tình giúp đỡ người khác là trách nhiệm mà chúng ta không nên chối từ. Ðức Phật luôn lấy những hành động của bản thân để làm những lời dạy sống động cho mọi người. Biết đức Thế tôn giúp thầy A-na-luật, mọi người vô cùng cảm động. Từ đó, đại chúng giúp đỡ, sách tấn lẫn nhau và hết lòng vì mọi người. NGƯỜI PHỤ NỮ THANH KHIẾT Ở nước Xá-vệ có một người phụ nữ chuyên làm công tác vệ sinh quét dọn trên các đường phố mỗi ngày.
  • 57. 57 Bởi áo quần của cô lấm bẩn nên người trong thành đều xa lánh cô, hễ thấy cô là họ vội bịt mũi đi nhanh qua. Ðức Phật bảo cô đến nghe pháp và khuyến khích cô tinh tấn làm việc. Biết được tin này, dân chúng trong thành dường như không tán thành cho lắm nên vội đến trách đức Phật rằng: - Bạch Thế tôn! Ngài thường nói với chúng con những lời thanh tịnh, dạy mọi người hãy làm việc trong sạch. Cớ sao nay Ngài lại nói chuyện với người phụ nữ thấp hèn như thế? Chẳng lẽ Ngài không thật sự cảm thấy việc này đáng ghét đó sao! Ðức Phật nghiêm nghị nhìn mọi người một lượt rồi đáp: - Người phụ nữ kia giữ gìn cho thành phố sạch đẹp, đó là sự cống hiến rất lớn đối với xã hội. Hơn nữa, cô ấy cũng rất khiêm nhường, siêng năng làm công việc cô đảm trách. Vậy tại sao mọi người lại khinh miệt cô ấy?
  • 58. 58 Lúc đó, cô lao công tắm gội sạch sẽ, thay đổi y phục và nét mặt rạng rỡ đi ra diện kiến mọi người. Ðức Thế tôn nói tiếp: - Quý vị bề ngoài tuy sạch sẽ nhưng trong lòng lại xấu xa, kiêu ngạo. Nên biết rằng, cái dơ bẩn bên ngoài của cô ấy thì dễ rửa sạch, cái dơ bẩn trong lòng quý vị mới là khó cải đổi. Dân chúng trong thành biết mình đã sai nên từ đó không dám chê bai người khác nữa. TÍN TÂM Phía Bắc thành Xá-vệ có một ngôi làng nhỏ ở cạnh ngay bờ sông, đó là nơi đức Phật có chủ ý đến hóa đạo. Oai nghi của Ngài khiến dân chúng trong thôn kính trọng nhưng họ không tin Phật pháp. Sau đó, khi đức Thế tôn rời thành Xá-vệ, Xá-lợi-phất muốn tới chỗ đức Phật nên vội vã đi đến nhưng Phật Ðã qua bên kia sông. Dưới sông, dòng nước vẫn chảy rất xiết. Thấy bóng đức Phật, trong lòng Xá-lợi-phất
  • 59. 59 tràn trề niềm tin và lội ngay qua sông. Ở giữa dòng, nước rất sâu và chảy mạnh nhưng Xá-lợi-phất không nao núng, vẫn mạnh dạn bước tới và sóng dữ đã không lay chuyển nổi. Cuối cùng Xá-lợi-phất qua được bờ bên kia. Xá-lợi-phất bước đến trước đức Phật, Ngài hiền từ nhìn thầy với ánh mắt tán thán, khích lệ và bảo : - Thầy là một người trí tuệ, có tín tâm, tinh tấn. Thầy có thể học Phật, thành Phật và cứu độ tất cả mọi loài. Xá-lợi-phất chiêm ngưỡng dung nhan của đức Phật mà lòng ngập tràn niềm hạnh phúc. Dân chúng trong thôn nghe đức Phật dạy và thấy hành vi kỳ lạ của Xá-lợi-phất nên phát khởi niềm tin đối với Phật pháp. NGƯỜI HOẰNG PHÁP GƯƠNG MẪU Tôn giả Phú-lâu-na rất nhiệt tâm truyền bá Phật giáo và thầy
  • 60. 60 biện luận cũng vô cùng tài tình. Mỗi khi bàn luận với mọi người, thầy thường khiến cho họ hoan hỉ và thán phục. Do vậy mà thầy nổi tiếng là “thuyết pháp đệ nhất”. Mặc dầu nước Thâu-lô-na là một nơi không có văn hóa nhưng thầy Phú-lâu-na vẫn xin đức Thế tôn cho phép mình đến đó giảng đạo. Ðức Phật dạy: - Phú-lâu-na! Như lai rất taùn thán chí nguyện của thầy nhưng dân chúng nơi đó thô lỗ, không dễ cảm hóa đâu. Họ sẽ nhục mạ thầy đó! - Họ chửi mắng con, con có thể nhận chịu được. Con cảm thấy họ vẫn còn lương tâm vì họ không đánh con. - Còn giả như họ đánh ông, lấy đá ném ông? - Con sẵng sàng tha thứ cho họ. Con lại cảm thấy họ cũng còn rất tốt bởi họ chỉ đánh con mà chưa giết chết con!
  • 61. 61 - Giả như họ giết thầy? - Con sẽ hy sinh vì pháp, chết không có gì phải hối tiếc. Ðức Phật khen ngợi thầy ấy rằng: - Phú-lâu-na! Tinh thần tu tập, truyền bá giáo pháp và sự nhẫn chịu của ông thật đáng làm mẫu mực cho tất cả tín đồ Phật giáo. Tôn giả Phú-lâu-na hoằng pháp ở nước Thâu-lô-na rất thành công và khiến vô số người quy y Phật pháp. NGHIÊM CẤM THẦN THÔNG Tôn giả Mục-kiền-liên là một trong mười đệ tử lớn của đức Phật. Thầy nổi tiếng là bậc có thần thông đệ nhất. Những việc mà người thường không thể thấy được, nghe được và không làm được thì thầy lại thấy được, nghe được và làm được. Ðức Phật không bao giờ tán thành việc thi triển thần thông của thầy, bởi vì sự kỳ diệu của thần thông chẳng có chút liên hệ gì đến sự nghiệp giải thoát sanh tử.
  • 62. 62 Tôn giả Mục-kiền-liên luôn hết lòng bảo vệ Phật giáo, sớt chia khổ cực cùng đại chúng nên rất được mọi người yêu quý. Ðạo hạnh cao vời của thầy đã đưa đến sự đố kỵ của hàng ngoại đạo và bọn họ đã rắp tâm hại ngài. Một hôm, thầy đang thiền định dưới triền núi, các ngoại đạo nhân dịp ấy lăn một tảng đá to từ dốc núi xuống làm đè nát thân thể của thầy. Việc này khiến mọi người vô cùng đau xót. Ðức Thế tôn dạy đại chúng: - Không nên ỷ lại nơi thần thông vì nghiệp báo nặng hơn tất cả. Thầy Mục-kiền-liên là một ví dụ cho điều này. Chỉ có việc cần mẫn gìn giữ Phật pháp, học tập Bát chánh đạo, cầu giải thoát khỏi nghiệp báo mới là phương pháp tối thắng nhất. Phật giáo không bao giờ dựa dẫm vào chú thuật, đoán số mệnh, lên đồng, xem bói, đốt đồ vàng mã v.v... vì đây là bùa mê thuốc lú làm nhiễu loạn lòng người. Ðệ tử Phật không nên làm những việc này.
  • 63. 63 SÁM HỐI Vua A-xà-thế nước Ma-kiệt-đà vì nghe theo lời gièm pha của kẻ xấu nên đem cha ruột của mình bỏ vào ngục tối rồi lên ngôi vua. Vua cha bị bệnh nặng và băng hà ngay trong ngục. Vua A-xà-thế biết mình đã phạm vào một lầm lỗi tày trời, do đó cảm thấy vô cùng đau buồn hối hận đến nỗi sinh bệnh. Vua A-xà-thế bị lương tâm giày vò cắn rứt, tâm hồn không giây phút nào thanh thản. Nên cuối cùng, vua quyết định đến diện kiến đức Phật và cầu Ngài chỉ phương pháp để sửa mình. Ðức Thế tôn ân cần dạy: - Nguồn gốc của tội lỗi là do các tâm lý tham dục, tàn bạo, tà kiến, kiêu ngạo v.v... ảnh hưởng và dẫn đến hành vi sai trái. Ðại vương vì muốn làm vua, lòng tham dục hừng hẩy nên mới làm ra chuyện lú lẫn mất hẳn lý trí như vậy. Ðại vương phải sám hối!
  • 64. 64 A-xà-thế hỏi lại: - Sám hối có nghĩa là gì? - Sám hối là nhận rõ những chuyện lầm lỗi đã qua, lập tức nói ra tội lỗi rồi sửa đổi và không làm chuyện sai trái nữa. Làm được như vậy, tương lai sẽ có cuộc sống tươi sáng và hạnh phúc. Sau khi nghe Phật dạy, vua A-xà-thế tự nói ra lỗi lầm của mình, lập thệ nguyện sửa đổi, làm thiện, quy y Tam bảo và làm một tín đồ thuần thành của Phật giáo. PHỤC THIỆN Vua Chiên Ðàn tánh tình hung bạo, ưa chiến tranh và thường thống lĩnh quân đội đi chinh phạt các nước xa xôi. Về sau, vua tôn thờ Phật giáo, nhận rõ các điều sai trái trước kia của mình, nên đối với các hành vi tàn bạo ở quá khứ, vua hết mực chân thành sám hối. Kể từ đó, vua bỏ ác làm thiện, chấm dứt chuyện chiến tranh, giao hảo trở lại với các nước lân cận. Ở trong nước, vua thi hành chính trị nhân từ, xiển bá Phật pháp.
  • 65. 65 Nhưng các vị quan vẫn hoài nghi: “Lỗi lầm đã gây rồi, bây giờ sửa đổi thì có tác dụng gì đâu?” Vua Chiên Ðàn vì muốn giải thích mối nghi hoặc cho quần thần nên nghĩ ra một cách như vầy. Vua sai người đem đến một chảo đựng đầy nước nóng, cho thêm lửa dưới chảo để nước sôi liên tục rồi bỏ vào đấy một chiếc nhẫn và bảo mọi người thọc tay vào lấy. Mọi người chẳng ai dám thử. Vua chậm rải nói: - Trước đây ta rất hung ác, cực đoan và tàn bạo cho nên tâm hồn không bao giờ được thanh tịnh. Giống như nước trong chảo càng lúc càng nóng nên không thể thò tay vào lấy chiếc nhẫn. Vua Chiên Ðàn rút hết củi, đổ nhiều nước lạnh vào chảo và đưa tay lấy chiếc nhẫn ra. Vua nói tiếp: - Bây giờ ta không làm ác nữa, cải tà quy chánh, chuộc lại những tội lỗi quá khứ. Do đó tội lỗi được tiêu trừ, tâm tánh thanh khiết, thanh tịnh. Như dưới chảo thôi đốt lửa, lại thêm nước lạnh vào thì có thể lấy được chiếc nhẫn ở trong chảo.
  • 66. 66 Chư quần thần đều tỉnh ngộ, đồng thanh ca ngợi vua Chiên Ðàn. Mọi người từ đấy đều sám hối, sửa lỗi và làm một người tốt. LA-HẦU-LA Thuở nhỏ, La-hầu-la sống trong hoàng cung đã quen với lối sống kiêu ngạo phóng túng nên rất thích trêu đùa người khác. Vả lại, chú hay ưa nói dối nên mọi người đều xa lánh. Một hôm, đức Phật đến thăm. La-hầu-la cảm thấy rất vui. Chú lấy nước rửa chân cho đức Phật. Sau khi rửa chân xong, đức Phật nói với chú rằng: - Nước trong chậu có thể uống và súc miệng được không La-hầu-la? - Dạ không, đây là chậu nước rửa chân, nó đã bị bẩn nên không thể sử dụng được. - Ðúng vậy La-hầu-la! Chú cũ ng chẳng khác gì chậu nước này. Thân tuy là dòng dõi vua chúa nhưng chú bỏ sự phú quý của trần tục đ ể xuất gia học đ ạo, việc đ ó vốn rất quý báu. Song, chú không chịu học
  • 67. 67 theo đ iều thiện, lại chẳng tu tập đ àng hoàng. Chú giống như chiếc chậu nước này vậy, không có công dụng gì hết! La-hầu-la vô cùng xấu hổ, chú cúi đ ầu xuống và đ em nước đ i đ ổ. Ðức Phật hỏi: -Bây giờ trong chậu không còn gì hết, có thể đ ựng đ ồ ă n đ ược không, La-hầu-la? -Bạch Thế tôn! Không đ ược ạ, nó đ ã đ ựng nước bẩn, còn dính đ ồ bẩn nên không thể. - Ðúng thế, chú cũ ng vậy. Tuy là một người xuất gia tu hành nhưng lại có tiếng tă m không tốt, chẳng khác gì chiếc chậu dơ không thể đ ựng đ ồ ă n. Ðức Thế tôn đ ưa ngón chân hất tung chiếc chậu, nó lă n tròn trên đ ất. Một lúc sau cái chậu dừng lại, đ ức Phật hỏi tiếp: - Nếu cái chậu này bị hư, chú có tiếc không, La-hầu-la?
  • 68. 68 - Cái chậu này thô sơ không có giá trị lắm nên không đ áng tiếc. - Ðúng, chú cũ ng như thế! Thân là đ ệ tử Phật nhưng không giữ giới luật, miệng nói nă ng thô lỗ, không thành thật trong lời nói. Với hành vi như vậy, chú sẽ không đ ược đ ại chúng giúp đ ỡ, không đ ược bậc có trí thương tiếc. Tiền đ ồ của chú đ au khổ vô cùng. Nghe lời dạy của đ ức Phật, La-hầu-la vô cùng ray rứt. Dòng nước mắt ă n nă n lă n đ ều trên má, chú quỳ xuống hết lòng xin sám hối. Từ đ ấy về sau, chú sửa đ ổi lỗi lầm, làm một người thành thật, đ ứng đ ắn, khiêm nhường. Mọi người đ ều kính trọng và yêu thương chú. BẬC TU HÀNH NHẪN NHỤC Thuở xưa có ông vua nọ dẫn theo rất nhiều cung phi mỹ nữ vào rừng să n bắn. Nhà vua mãi mê đ uổi theo một con thỏ hoang còn các cung nữ phải đ ứng đ ợi dưới rừng
  • 69. 69 cây. Bất chợt thấy một vị tu hành đ ang ngồi trầm mặc, các cung nữ liền đ ến tham vấn hỏi đ ạo. Khi nhà vua trở về thấy thế liền nổi giận trách mắng các cung nữ và vị tu sĩ kia. Vị tu sĩ khoan thai trả lời vua rằng: - Bần đ ạo chỉ hướng dẫn mọi người học nhẫn nhục chớ chẳng có ý gì khác. - Ha! Ha! Ngươi tự cho mình là người nhẫn nhục sao? Ta phải thử xem ngươi tu nhẫn nhục đ ến mức nào mới đ ược! Nói xong, ông ta tuốt gươm chặt đ ứt cánh tay vị tu sĩ . - Bây giờ chắc chắn ngươi phải că m phẫn rồi! Vị tu sĩ tuy rất đ au đ ớn nhưng vẫn khoan thai nhìn vua đ áp rằng: -Bần đ ạo không giận hờn đ âu, ôm lòng thù hận chỉ đ ưa đ ến oan oan tương báo. Sau khi thành đ
  • 70. 70 ạo, người đ ầu tiên tôi hóa đ ộ chính là ngài, đ ến đ ó nghiệp duyên sẽ chấm dứt. Nhẫn nhịn và tha thứ, nét mặt của vị tu sĩ chẳng biểu lộ chút gì thay đ ổi. Nhà vua rất cảm đ ộng và qu ỳ xuống đ ất hết lòng sám hối. Vị tu sĩ kia lấy tinh thần đ ức đ ộ đ ể báo oán, hoàn thành trọn vẹn hạnh tu nhẫn nhục. Trong vô lượng kiếp tu hành của vị ấy, đ ây là hành đ ộng huy hoàng nhất. Về sau, nhờ tích lũ y công đ ức mà con đ ường tu tập đ ược viên mãn, đ ó chính là đ ức Phật Thích Ca Mâu Ni. TỰ LỰC CÁNH SINH Thiện-la-ni-tân rất sùng tín thần thánh. Hễ gặp việc khó khă n là anh đ i tế thần khấn Phật. Nhưng, lần này qua mười mấy ngày rồi mà lòng thành của anh vẫn không mãn nguyện, không đ ược hạnh phúc. Gần đ ây, anh ta lại có chuyện buồn phiền, thân thể
  • 71. 71 thường sanh bệnh. Thiện-la-ni-tân nghe nói đ ức Phật thuyết pháp rất hay và có thể hóa giải những khúc mắc cho mọi người, nên liền đ i yết kiến đ ức Phật, cầu Ngài chỉ cho mình cách thức như thế nào đ ể đ ược mạnh khỏe. Ðức Phật từ tốn bảo: - Thiện-la-ni-tân! Ông thấy những người nông phu kia chă ng? Mùa xuân họ cần cù gieo giống, cày xới, mùa thu lại thu hoạch. Nếu họ không gieo giống, không cày bừa mà hằng ngày chỉ cầu nguyện, làm như thế họ sẽ thu hoạch đ ược vụ mùa không? Anh liền đ áp: - Không có chuyện đ ó! Nếu các người nông phu không gieo mầm, không cày cấy thì dù cho cầu khấn gì đ i nữa, họ cũ ng chẳng thu hoạch đ ược gì trên mảnh đ ất hoang vu ấy. - Ðúng thế, này Thiện-la-ni-tân! Cũ ng vậy, cầu khấn thần linh không thể nào hết khổ đ au. Chỉ có tự lo lắng cho bản thân, chú ý chuyện ă n uống, vận đ ộng cơ thể, nghỉ ngơi, đ iều tiết cơ thể và tâm sinh lý cho
  • 72. 72 hợp lý thì tự nhiên sẽ đ ược mạnh khỏe giống như mảnh ruộng đ ược cày cấy, dần dần tươi tốt. Thiện-la-ni-tân nghe đ ức Phật dạy, trong lòng như bừng sáng và tinh thần cảm thấy rất phấn chấn. Anh liền quy y đ ức Phật, làm một tín đ ồ Phật giáo thuần thành. LUÂN HỒI Ðức Phật dạy chúng ta rằng: “Mạng sống luân hồi bất tận, chúng sanh mãi sống sống chết chết kéo dài không dứt, giống như bánh xe chuyển đ ộng xoay tròn cho nên gọi là luân hồi”. Lúc luân hồi, do nơi thiện nghiệp mà đ ược sanh lên cõi trời, do vừa có thiện nghiệp vừa có ác nghiệp nên sanh vào nhân gian, do ác nghiệp nên sanh vào đ ịa ngục ngạ quỷ hoặc súc sanh. Luân hồi và nhân sinh có một mối quan hệ rất lớn. Xét về tánh của mỗi con người mà nói thì trí tuệ hay ngu si, hiền lương
  • 73. 73 hay hư hỏng đ ều do tập khí truyền lại từ đ ời trước. Còn về mặt hoàn cảnh thì phú quý, bần tiện, đ ược mất, sống thọ, chết yểu, đ ều do hành vi đ ời trước ảnh hưởng đ ến quả báo đ ời này. Ðời quá khứ gây nhân thiện hoặc nhân ác đ ều đ ưa đ ến quả báo, nhưng quả báo phải đ ợi duyên hỗ trợ mới sanh đ ược. Ðời này nỗ lực, trung thành, dũ ng cảm, siêng nă ng, giản dị, nhân từ, rộng lượng, nhẫn nhịn .v.v..., những đ ức tính tốt này chính là duyên hỗ trợ cho nhân thiện. Nếu chúng ta vận dụng đ ược thiện duyên, thời có thể khiến cho nghiệp thiện đ ời trước biểu hiện và dĩ nhiên là đ ưa đ ến hạnh phúc tiến bộ. Cũ ng như vậy, do khắc phục các hành vi không tốt như sự nóng nảy, tham dục, tà kiến, kiêu ngạo v.v... cũ ng có thể làm cho các ác báo đ ời trước không có đ iều kiện đ ược phát khởi. Vậy tức là có thể hưởng trọn một kiếp sống mỹ mãn. Chúng ta tin tưởng đ ạo lý Nhân duyên quán của Phật giáo, xây dựng một thái đ ộ đ úng đ ắn về
  • 74. 74 nhân sinh, bồi dưỡng phẩm chất đ ạo đ ức cao thượng, bỏ ác làm lành, một mặt đ ể trả nghiệp cũ , một mặt triển vọng vào tương lai. Ðược vậy thì cuộc sống nhất đ ịnh sẽ đ ược cải thiện và tiến bộ. Như th ế thì chắc chắn chúng ta sẽ không còn phải lo sợ về kiếp sống luân hồi dài lâu và đ au khổ kia nữa.
  • 75. 75 KHI NHÌN THẤY HOA NÀY MỌI ƯU PHIỀN SẼ BIẾN MẤT HÃY TINH TẤN