2. Cảm giác đi từ da hoặc các cấu trúc sâu lên vỏ não
qua ba neurone với hai synapse
TB số 1 nằm ở hạch gai rễ sau, nhận tín hiệu từ các
đầu tận cùng thần kinh trống hoặc các thể cảm thụ
CG có bao, sau đó cho nhánh hướng tâm đi vào tủy
sống, vào sừng sau tiếp hợp TB 2 tại đây (CG nông)
hoặc đi thẳng lên theo cột sau cùng bên đến tiếp
hợp tại nhân thon và nhân chêm (CG xúc giác và sâu)
Tiếp hợp thứ hai nằm tại nhân bụng bên của đồi thị,
từ đó sợi hướng tâm của TB số ba xuất phát đi đến
vỏ não
8. Bệnh đơn dây thần kinh: với tổn thương một dây
TK, cảm giác rối loạn khu trú theo phân bố của dây
TK đó, thường là hẹp hơn phân bố giải phẫu của nó
vì có sự chồng lấn của các dây kế cận nhau. Ngoài
ra, tuỳ theo bản chất sang thương mà các loại cảm
giác sẽ bị ảnh hưởng khác nhau, ví dụ sang thương
chèn ép có khuynh hướng ảnh hưởng đến các sợi
kích thước lớn dẫn truyền cảm giác xúc giác.
9. Bệnh đa dây thần kinh: rối loạn cảm giác đối xứng
và nặng ở ngọn chi hơn là gốc chi, biểu hiện thường
là mất cảm giác kiểu mang găng, mang vớ.Thường
rối loạn nhiều và rõ ở chi dưới hơn là chi trên; thậm
chí có thể hoàn toàn không có hoặc chỉ có rối loạn
cảm giác rất nhẹ ở chi trên. Một số trường hợp bệnh
chuyển hóa hiếm có thể gây tổn thương chủ yếu
trên các sợi nhỏ dẫn truyền cảm giác đau – nhiệt.
Các rối loạn cảm giác thường có thể đi kèm với yếu
cơ và giảm phản xạ..
10. Tổn thương rễ gây rối lọan cảm giác theo khoanh da
do nó chi phối.Tuy nhiên do có sự chi phối chồng lấn
giữa các rễ kế cận nên sẽ không có mất cảm giác trừ
khi có hai hay nhiều rễ kế cận nhau bị tổn thương.
Trong các trường hợp chèn ép rễ, đau là triệu chứng
rõ và hằng định; phản xạ gân cơ bình thường hay
mất tùy thuộc vào rễ chi phối nó có bị tổn thương
hay không; nếu rễ trước bị tổn thương thì sẽ có yếu
cơ và teo cơ.
11. Với tổn thương tủy, có thể có một mức mất CG theo khoanh,
và có thể có vùng tăng CG SLý ở bờ sườn và vùng bẹn
khám xác định mức mất CG ở lưng hơn ở bụng và ngực.
Tổn thương trung tâm tủy: tổn thương trung tâm tủy như
trong rỗng ống tủy gây một hội chứng CG điển hình là mất
CG treo và phân ly CG đau – nhiệt bị mất trong khi các CG
khác còn nguyên vẹn, đó là do tổn thương các sợi dẫn truyền
CG đau – nhiệt đi bắt chéo qua trung tâm tủy sang đối bên để
đến bó gai – đồi thị bên.TC thường 2 bên, có thể không đối
xứng và chỉ khu trú ở tại những khoanh bị tổn thương,
khoanh trên và dưới vẫn BT. Cũng có thể có kèm theo yếu cơ
kiểu NB theo khoanh tổn thương, sang thương lơn lấn ra
xung quanh thì có thể có dấu tháp và dấu CG sâu dưới nơiTT.
12.
13.
14. Tổn thương phần trước - bên tủy: gây mất cảm giác đau nhiệt
bên đối diện dưới nơi tổn thương. Do bó gai-đồi thị bên sắp xếp
thành từng lớp với các sợi cảm giác cùng cụt nằm ngoài nhất nên
các tổn thương nội tủy thường không ảnh hưởng các sợi này,
trong khi các tổn thương từ ngoài tủy chèn ép vào thường ảnh
hưởng các sợi này trước tiên, hoặc ít nhất khi khám nếu có tổn
thương các sợi đến từ phần cao thì cũng phải thấy tổn thương các
sợi đến từ phần thấp.
Tổn thương phần trước tủy: các tổn thương hủy hoại phần trước
tủy sẽ gây mất cảm giác đau – nhiệt dưới nơi tổn thương, kèm
theo là yếu liệt các cơ chi phối bởi khoanh tủy bị tổn thương do hư
hại tế bào vận động sừng trước. Nếu tổn thương lan rộng hơn ra
phía sau, bó tháp cũng bị tổn thương gây hội chứng tháp dưới nơi
tổn thương. Cột sau tương đối không bị ảnh hưởng. Nguyên nhân
của hội chứng này thường là thiếu máu cục bộ tủy do tắc động
mạch tủy sống trước.
15. Tổn thương cột sau: gây cảm giác bóp ép hoặc có dải băng
thắt chặt tại vùng tương ứng với chỗ tổn thương. Đôi khi có
dị cảm như luồng điện chạy dọc xuống tứ chi khi gập cổ
xuống (dấu Lhermitte). Cảm giác rung và tư thế khớp mất
dưới nơi tổn thương, các loại cảm giác khác không bị ảnh
hưởng. Các biểu hiện này có thể giống với trường hợp tổn
thương các sợi cảm giác kích thước lớn ở rễ sau.
Cắt ngang nửa tủy: gây hội chứng Brown-Sequard.
16.
17. Rối loạn CG trong tổn thương thân não đi kèm với yếu liệt
cơ, dấu tiểu não, và dấu các dây sọ.
Với sang thương ảnh hưởng bó gai – đồi thị ở phần lưng sau
hành não và cầu não, sẽ có mất CG đau – nhiệt ở thân và chi
đối bên tổn thương. Riêng tổn thương ở hành não còn có
mất cảm giác đau nhiệt ở nửa mặt cùng bên tổn thương do
tổn thương nhân tủy củaTKV, nếuTT bó gai đồi thị ở trên
mức nhân này sẽ gây mất CG đau – nhiệt cả thân, chi và nửa
mặt đối bên.
Với sang thương ảnh hưởng bó liềm trong, sẽ có mất CG sờ
và CG sâu nửa thân đối bên. Ở phần trên của thân não, bó gai
đồi thị và bó liềm trong đi sát nhau do đó cùng một sang
thương có thể gây mất toàn bộ các loại CG nông sâu đối bên
18. Tổn thương đồi thị có thể gây rối lọan hoặc mất tất cả các
loại cảm giác nửa thân đối bên. Ngoài ra cịn có thể có đau tự
phát hoặc các cảm giác khó chịu khác ở bên đối diện. Các
cảm giác có thể là rát bỏng, đau xé, dao đâm, đau nhói và
giật, nhưng thường rất khó diễn tả. Bất kỳ kích thích nào
ngoài da, dù chỉ là sờ nhẹ, cũng có thể gây ra cảm giác rất
khó chịu hoặc gây đau. Đây là hội chứng Dejerine-Roussy, do
tổn thương đồi thị. Đôi khi hội chứng này còn gặp ở bệnh
nhân bị tổn thương chất trắng thùy đính hoặc tổn thương
tủy.
19. Các sang thương khu trú ở vỏ não cảm gic làm mất chức
năng cảm giác phân biệt ở nửa thân đối bên tổn thương.
Bệnh nhân mất khả năng định vị kích thích cảm giác ở phần
cơ thể bị bệnh hoặc không nhận biết được vị trí của các phần
cơ thể. Bệnh nhân cũng không thể nhận biết được một vật
qua sờ nắn cũng như không ước lượng được kích thước,
trọng lượng, cấu trúc bề mặt của chúng. Rối loạn cảm giác
kiểu vỏ não thường rõ ở bàn tay hơn là ở thân và các phần
gần của chi.