Download luận văn thạc sĩ ngành pháp luật về quyền con người với đề tài: Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
Luận văn: Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN CÔNG KHANH
QUYỀN THAM GIA CHÍNH TRỊ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con ngƣời
Mã số: Chƣơng trình đào ta ̣o thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN HOÀNG ANH
HÀ NỘI - 2014
2. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Công Khanh
3. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1
Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN THAM GIA CHÍNH TRỊ .......8
1.1. Chính trị và hệ thống chính trị .........................................................8
1.1.1. Chính trị................................................................................................8
1.1.2. Hệ thống chính trị.................................................................................9
1.1.3. Các yếu tố cấu thành của Hệ thống chính trị .....................................11
1.1.4. Nguyên tắc hoạt động của hệ thống chính trị.....................................12
1.1.5. Hệ thống chính trị ở Việt Nam...........................................................14
1.2. Quyền tham gia chính trị.................................................................18
1.2.1. Khái niệm ...........................................................................................18
1.2.2. Quyền tham gia chính trị theo quy định của luật quốc tế ..................21
1.2.3. Chủ thể của Quyền tham gia chính trị................................................21
1.2.4. Các yếu tố cấu thành Quyền tham gia chính trị.................................23
1.3. Ý nghĩa của Quyền tham gia chính trị và Các yếu tố ảnh
hƣởng đến Quyền tham gia chính trị ................................................28
1.3.1. Vị trí, vai trò của Quyền tham gia chính trị .......................................28
1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện Quyền tham gia chính trị........30
1.4. Quan điểm của Đảng, nhà nƣớc Việt Nam về Quyền tham
gia chính trị.......................................................................................34
Tiểu kết chƣơng 1..........................................................................................39
4. Chƣơng 2: QUYỀN THAM GIA CHÍNH TRỊ TRONG PHÁP
LUẬT VÀ TRONG THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY....40
2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về Quyền tham gia chính trị ....40
2.1.1. Các quyền tham gia trực tiếp..............................................................40
2.1.2. Quyền bầu cử, ứng cử ........................................................................46
2.1.3. Quyền giám sát...................................................................................52
2.2. Việc thực hiện quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay....55
2.2.1. Quyền tham gia quản lý nhà nước một cách trực tiếp .......................55
2.2.2. Quyền bầu cử, ứng cử ........................................................................59
2.2.3. Các quyền giám sát ............................................................................65
Tiểu kết Chƣơng 2.........................................................................................73
Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM
QUYỀN THAM GIA CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.......74
3.1. Một số phƣơng hƣớng bảo đảm Quyền tham gia chính trị ở
Việt Nam hiện nay............................................................................74
3.1.1. Thể chế hoá các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước về quyền tham gia chính trị...............................................74
3.1.2. Tuyên truyền, nâng cao nhận nhận thức của nhân dân ......................75
3.1.3. Tích cực, chủ động trong đối thoại, hợp tác quốc tế về lĩnh vực
quyền con người.................................................................................76
3.2. Một số giải pháp bảo đảm Quyền tham gia chính trị ở Việt
Nam hiện nay ....................................................................................77
3.2.1. Về xây dựng và thực thi pháp luật .....................................................77
3.2.2. Tăng cường hiệu quả hoạt động của xã hội dân sự, đặc biệt là
các tổ chức chính trị - xã hội..............................................................89
3.2.3. Bảo đảm các quyền chính trị cơ bản ..................................................91
5. 3.2.4. Tăng cường dân chủ cơ sở .................................................................92
3.2.5. Thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia............................................95
Tiểu kết chƣơng 3..........................................................................................97
KẾT LUẬN....................................................................................................98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................101
6. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
UDHR Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền, 1948 (The Universal
Declaration of Human Rights)
ICCPR Công ước quốc tế về các quyền Dân sự, Chính trị, 1966
(International Convenant on Civil and Political Rights)
7. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là những giá trị tốt đẹp, kết tinh từ nền văn hóa của
các dân tộc trên thế giới, bảo đảm quyền con người là mục tiêu mà toàn nhân
loại đang hướng đến nhằm xây dựng một thế giới hòa bình, ổn định, mọi
người dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, màu da, giới tính, nguồn gốc
xuất thân, địa vị xã hội… được thực sự bình đẳng, tự do, hạnh phúc.
Cùng với sự ra đời của Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền năm 1948
(UDHR), Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị (ICCPR) và Công
ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội (ICCSCR) năm 1966,
Quyền con người chính thức được pháp điển hóa và trở thành hệ thống tiêu
chuẩn pháp luật quốc tế có tính chất bắt buộc với mọi quốc gia.
Nếu việc tôn trọng và Bảo đảm quyền con người là thước đo đánh giá
sự phát triển, tiến bộ của mỗi quốc gia, thì quá trình thúc đẩy và bảo vệ những
quyền đó lại là những nghĩa vụ đặc biệt của tất cả các thành phần, các tầng
lớp, các dân tộc trên thế giới.
Trong những năm gần đây, khi xã hội ngày càng phát triển, cùng với
những thành tựu của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đời sống cũng
như nhận thức của nhân dân ngày càng được nâng cao. Đảng và nhà nước
ngày càng quan tâm hơn đến bảo đảm các quyền con người, quyền công dân.
Đến nay,Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế về quyền con
người, trở thành thành viên Hội đồng nhân quyền liên hợp quốc nhiệm kỳ
2014 - 2016. Ở cấp độ quốc gia, từ Hiến pháp 2013, quyền con người, quyền
công dân trở thành chế định trong Hiến pháp, được bảo đảm thực hiện bằng
Hiến pháp và pháp luật. Điều này, thể hiện sự coi trọng của Đảng, nhà nước
đối với các hoạt động bảo đảm, thực thi quyền con người ở Việt Nam, phù
8. 2
hợp với chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nhà nước Việt Nam của dân, do dân, vì dân, thực hiện đúng phương
châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra mà Đảng đã đề ra tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI:
Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng và bảo đảm
quyền công dân; chống tệ quan liêu cửa quyền, ức hiếp quần chúng
trong bộ máy lãnh đạo và quản lý các cấp. Thực hiện có nền nếp
khẩu hiệu dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra; tất cả vì dân và
do dân. Động viên và tổ chức quần chúng tham gia quản lý kinh tế,
quản lý xã hội, tham gia các hoạt động cải cách kinh tế [4].
Trong số các Quyền con người, Quyền tham gia chính trị nằm trong
nhóm quyền dân sự, chính trị, được quy định tại Điều 25 Tuyên ngôn quốc tế
về Nhân quyền 1948 (UDHR), sau đó được tái khẳng định và cụ thể hóa trong
Điều 21 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966 (ICCPR).
Quyền tham gia chính trị có thể hiểu là quyền của người dân trực tiếp
hoặc gián tiếp tham gia vào các hoạt động quản lý và điều hành đất nước. Cơ
sở của Quyền tham gia chính trị của công dân trước hết xuất phát từ bản chất
nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do nhân dân làm chủ. Bảo đảm
quyền tham gia chính trị, quyền tham gia quản lý nhà nước trực tiếp hoặc gián
tiếp của nhân dân cũng chính là bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Đồng
thời, nhận thức được vai trò của quần chúng nhân dân với tư cách là lực lượng
quan trọng quyết định mọi thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng, Đảng và Nhà
nước luôn xác định muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, cần phát
huy trí tuệ tập thể, sức mạnh toàn dân, tăng cường sự tham gia đóng góp của
người dân vào mọi hoạt động của đời sống chính trị.
Tuy nhiên, đến nay, những quy định của Pháp luật về quyền con người
nói chung và quyền tham gia chính trị của công dân nói riêng đang trong quá
9. 3
trình xây dựng, hoàn thiện nên còn nhiều hạn chế như: Quyền trưng cầu dân ý
đã được ghi nhận trong Hiến pháp nhưng chưa được luật hóa để triển khai
thực hiện trên thực tế; hoặc Quyền khiếu nại tố cáo dù đã được quy định
tương đối hoàn chỉnh song công tác tổ chức thực hiện vẫn mang tính hình
thức… Điều này dẫn đến khó khăn trong quá trình triển khai các chính sách
thực thi và bảo đảm quyền con người nói chung và quyền tham gia chính trị
nói riêng. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền giáo dục về quyền con người,
quyền công dân chưa thực sự hiệu quả dẫn đến tình trạng đại đa số người dân
và một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức, những người trực tiếp xây dựng
và thực thi pháp luật cũng chưa nhận thức được đầy đủ về quyền tham gia
chính trị của công dân, chưa ý thức được vai trò của làm chủ của nhân dân.
Chính vì những lý do trên, mà tác giả đã chọn chủ đề “Quyền tham gia
chính trị ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình, nhằm
góp phần tích cực vào việc đề xuất những phương hướng, giải pháp trong
hoạch định và thực thi chính sách pháp luật, góp phần thúc đẩy và bảo đảm
thực thi quyền tham gia chính trị ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, các đề tài liên quan đến quyền tham gia chính trị được
nhiều cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, trường đại học, viện nghiên cứu, tổ
chức liên chính phủ, tổ chức phi chính phủ đặc biệt quan tâm. Đặc biệt, trong
thời đại hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, vấn đề quyền con người ngày càng
được chú trọng, chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền, dân chủ, của dân,
do dân, vì dân thì các công trình nghiên cứu quyền tham gia chính trị của
công dân ngày càng phong phú, đa dạng.
Tuy nhiên, các nghiên cứu đó chỉ dừng lại ở mức độ chung, khái quát
về các quyền cụ thể như quyền trưng cầu ý dân, bầu cử ứng cử, khiếu nại tố
cáo... Tính đến thời điểm hiện tại, chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ
10. 4
thể, toàn diện, đi sâu về Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam dưới góc nhìn
từ chính sách đến thực tiễn thi hành.
Ở nước ta, trong những năm qua, có một số công trình liên quan nghiên
cứu về Quyền tham gia chính trị, tiêu biểu như sau:
Phạm Hồng Thái (2012) “Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội
của công dân trong Hiến pháp 1992 và những vấn đề cần sửa đổi bổ sung”
Sửa đổi bổ sung Hiến pháp 1992, những vấn đề lý luận và thực tiễn, Tập I, tr
173-189, Nxb Hồng Đức.
Đào Trí Úc (2012), “Chế định chủ quyền nhân dân và việc sửa đổi
Hiến pháp 1992” Tạp chí nghiên cứu lập pháp, Số 17, trang 3-6, Văn phòng
Quốc hội, Hà Nội.
Vũ Văn Nhiêm (2009), “Chế độ bầu cử ở Việt Nam - những vấn đề lý luận
và thực tiễn”, Luận án Tiến sỹ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Thái Vĩnh Thắng (2009)“Những bất cập của chế độ bầu cử ở Việt Nam
hiện nay”, Sửa đổi bổ sung Hiến pháp 1992, những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Tập I, tr 173-190, Nxb Hồng Đức.
Có thể thấy, tài liệu về các quyền cụ thể của quyền tham gia chính trị
như bầu cử ứng cử, trưng cầu ý dân, khiếu nại tố cáo… khá phong phú, song
tính đến thời điểm hiện tại, chưa có bất kỳ công trình khoa học nào nghiên
cứu một cách tổng hợp và chuyên sâu về quyền tham gia chính trị của công
dân dưới góc độ pháp luật về quyền con người. Luận văn mong muốn sẽ góp
phần làm phong phú hơn nguồn tài liệu về lĩnh vực này, đồng thời, bổ sung
thêm kiến thức về Quyền tham gia chính trị ở Việt nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài hướng tới mục tiêu: tập hợp và xây dựng nền tảng lý luận về
quyền tham gia chính trị, đánh giá pháp luật và thực hiện pháp luật về Quyền
11. 5
tham gia chính trị ở Việt Nam và trên cơ sở đó thử đề xuất kiến giải hoàn
thiện pháp luật trên lĩnh vực này.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu, làm rõ vấn đề lý luận về quyền tham gia chính trị ở Việt
Nam; Nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam trên cơ sở so sánh, đối
chiếu với pháp luật quốc tế về Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng việc thực thi pháp luật về Quyền tham gia chính
trị ở Việt Nam hiện nay: những thành tựu đạt được, hạn chế tồn tại, và rút ra
được nguyên nhân của thành tựu, hạn chế đó.
- Từ đó, đưa ra khuyến nghị nhằm cải thiện tính bất cập của pháp luật
và đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm quyền tham gia chính trị ở Việt Nam
hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn sẽ tập trung vào các vấn đề sau:
- Quy định của Pháp luật Việt Nam hiện nay về Quyền tham gia chính trị.
- Thực trạng pháp luật Việt Nam về Quyền tham gia chính trị trong giai
đoạn hiện nay.
- Đánh giá tính đúng đắn, mức độ phù hợp giữa các quy định trong
pháp luật Việt Nam với tình hình thực tế, đồng thời xem xét các yếu tố tác
động tới việc thực thi pháp luật về bảo đảm quyền quyền tham gia chính trị.
Do phạm vi nghiên cứu của đề tài rộng, liên quan đến nhiều vấn đề,
nhiều quyền cụ thể như quyền tham gia trực tiếp, gián tiếp, quyền trưng cầu ý
dân, bầu cử ứng cử, khiếu nại tố cáo… nên đề tài chỉ dừng ở mức tổng hợp,
khái quát quyền tham gia chính trị qua đó đưa ra một số giải pháp nhằm bảo
đảm hơn nữa quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy
12. 6
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; Các
nguyên tắc nền tảng của luật nhân quyền quốc tế; Các quan điểm về quyền
quyền tham gia chính trị.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phân tích, tổng
hợp, xã hội học, thống kê, so sánh, đánh giá… để làm sáng tỏ các vấn đề liên
quan, đồng thời học hỏi kinh nghiệm thực tiễn của các nhà nghiên cứu về vấn
đề quyền quyền tham gia chính trị.
6. Kết quả và ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức
khoa học cơ bản mang tính lý luận về bảo đảm quyền tham gia chính trị; giúp
người đọc nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn quan điểm, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn cũng đã tổng hợp và đi sâu phân tích đánh giá thực trạng các
quyền tham gia chính trị ở Việt Nam. Từ đó, là cơ sở cho việc nghiên cứu, bổ
sung để hoàn chỉnh hơn các quyền, cách thức bảo đảm Quyền tham gia chính
trị ở Việt Nam hiện nay.
7. Điểm mới của luận văn
Luận văn là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên, có tính hệ
thống về vấn đề Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay, với những
điểm mới nổi bật như sau:
- Thông qua việc làm sáng tỏ những vấn đề chung có liên quan đến
quyền tham gia chính trị, luận văn đã đưa ra được khái niệm quyền tham
gia chính trị.
- Bổ sung các quyền giám sát của công dân như quyền khiếu nại, tố
cáo, khởi kiện hành chính… là những quyền không được nêu trong Công
ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị (ICCPR), Tuyên ngôn quốc tế về
Nhân quyền (UDHR). Làm cụ thể hóa một số nội dung quyền tham gia
13. 7
chính trị hiện diện trong pháp luật Việt Nam thông qua việc so sánh với các
quyền chính trị dân sự trong các văn kiện quốc tế.
- Đánh giá có hệ thống và khái quát về pháp luật và nêu rõ những thành
tựu, hạn chế của quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay trong các lĩnh
vực cụ thể.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp theo lăng kính của luật nhân quyền
nhằm bảo đảm quyền tham gia chính trị như một quyền cơ bản của con người
trong các lĩnh vực: xây dựng, thực thi các chính sách pháp luật.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
kết cấu luận văn chia làm ba chương như sau:
Chương 1. Lý luận chung về Quyền tham gia chính trị.
Chương 2. Quyền tham gia chính trị trong Pháp luật và trong thực tiễn
ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3. Một số phương hướng và giải pháp bảo đảm quyền tham
gia chính trị ở Việt Nam hiện nay.
14. 8
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN THAM GIA CHÍNH TRỊ
1.1. Chính trị và hệ thống chính trị
1.1.1. Chính trị
Thuật ngữ “Chính trị” được nhắc đến khá sớm trong lịch sử bởi các
Triết gia như Plato, Aristotle, Khổng Tử… Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn
lịch sử khác nhau, thì quan niệm về chính trị cũng như chủ thể tham gia chính
trị cũng hoàn toàn khác nhau.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, khi quyền lực nhà
nước thuộc về một người (vua) hoặc một nhóm người (giai cấp quý tộc,
chủ nô), người dân chỉ có nghĩa vụ phục tùng vô điều kiện mà không có
quyền tham gia vào các hoạt động quản lý và điều hành đất nước, khi đó
chính trị có nghĩa là nghệ thuật cai trị và quản lý đất nước hay Khoa học
giành và nắm giữ quyền lực.
Bước sang thời kỳ Nhà nước tư bản, các trào lưu triết học ánh sáng thế
kỷ 18 đã được hình thành với sự xuất hiện của nhiều nhà tư tưởng lỗi lạc như
Rousseau, Montesquier, Thomas Paine… Từ đó, hàng loạt học thuyết về chủ
nghĩa tự do, khẳng định quyền sống, quyền tự do, an ninh thân thể, quyền tự
do tôn giáo, tự do ngôn luận cũng ra đời. Đặc biệt là tác phẩm Khế ước xã hội
của J. Rousseau với một lý thuyết hoàn toàn mới về nguồn gốc và bản chất
của Nhà nước. Theo J.Rousseau, Nhà nước không phải là một thế lực thống
trị xã hội mà là một tổ chức quyền lực công, được người dân trao cho quyền
lực và đổi lại họ được sống dưới sự bảo vệ của Nhà nước trong một trật tự
luật pháp do Nhà nước ban hành (luật pháp không trái với đạo đức và luân
lý). Dưới nhãn quan triết học này, quyền lực chính trị xuất phát từ dân chúng,
nó được tạo lập để phục vụ xã hội. Từ đây, Chính trị được hiểu là nghệ thuật
15. 9
hay khoa học vận hành và quản lý xã hội bằng quyền lực Nhà nước nhưng nó
phải bị hạn chế bằng luật pháp và được giám sát bởi người dân thông qua các
tổ chức xã hội, nghề nghiệp, tôn giáo.
Ở Việt Nam, theo Từ điển Bách khoa, Chính trị là toàn bộ những hoạt
động có liên quan đến các mối quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc gia và các tầng
lớp xã hội, mà cốt lõi là vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền
lực nhà nước, xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ nội dung hoạt động của
nhà nước [38]. Như vậy, chính trị bao giờ cũng gắn liền với giai cấp. Theo
V.I Lênin:“Chính trị phải là việc của nhân dân, việc của giai cấp vô sản"
[43]. Khái quát lại, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chính trị là
mối quan hệ giữa các giai cấp, quốc gia xoay quanh vấn đề giành, giữ và thực
thi quyền lực chính trị, mà tập trung nhất là quyền lực nhà nước.
Có thể thấy, quyền tham gia chính trị phải dựa trên cơ sở quyền lực
chính trị, và thuộc về đối tượng nắm giữ quyền lực chính trị. Trong chế độ xã
hội chủ nghĩa, với vị trí là chủ đất nước,người dân thuộc mọi thành phần,
không phân biệt tầng lớp đều có đủ tư cách để tham gia trực tiếp hoặc gián
tiếp vào đời sống chính trị thông qua những hoạt động xã hội cụ thể của mình.
1.1.2. Hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị là một trong những vấn đề cơ bản, chi phối mọi mặt
đời sống chính trị - xã hội của các quốc gia. Để xác định đối tượng tác động
của quyền tham gia chính trị, theo tác giả cần làm rõ khái niệm hệ thống
chính trị, các yếu tố cấu thành hệ thống chính trị.
Khi xã hội loài người xuất hiện chế độ tư hữu, xã hội cũng bắt đầu phân
hoá thành các nhóm xã hội, giai tầng có địa vị khác nhau, có quyền và lợi ích
khác nhau. Các nhóm xã hội, tầng lớp này dần hình thành các lực lượng chính
trị - xã hội. Nhằm bảo vệ, củng cố lợi ích của mình, mỗi nhóm xã hội, mỗi
giai tầng, mỗi lực lượng chính trị xã hội đã thiết lập các thiết chế xã hội đặc
16. 10
trưng. Trong quá trình tồn tại và phát triển, giữa các thiết chế chính trị - xã
hội luôn có sự liên hệ ràng buộc, tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau hình
thành nên hệ thống chính trị - xã hội. Như vậy có thể hiểu hệ thống chính trị
là liên minh các thiết chế chính trị - xã hội có liên hệ mật thiết, tồn tại và hoạt
động nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của toàn xã hội đồng thời bảo vệ
lợi ích, thực hiện những mục đích của giai cấp thống trị trong xã hội.
Về cấu trúc hình thức, hệ thống chính trị là một tập hợp các thiết chế
chính trị - xã hội được thành lập và hoạt động vì những mục đích chính trị xã
hội khác nhau. Các thiết chế đó gồm có nhà nước, các đảng phái chính trị, các
tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, trong đó nhà nước là tổ chức quan trọng
nhất. Các tổ chức đó được sắp xếp theo một trật tự khách quan, khoa học và
luôn có mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau [30].
Về nội dung, hệ thống chính trị được hiểu là một cơ chế thực hiện
quyền lực chính trị trong xã hội. Có thể nói, quyền lực chính trị là cốt lõi của
Hệ thống chính trị. Quyền lực đó được vật chất hoá bằng các thiết chế chính
trị xã hội và được biểu hiện thông qua các quan hệ chính trị giữa các lực
lượng chính trị - xã hội. Đây là khái niệm phản ánh đặc trưng của những quan
hệ quyền lực chính trị; cũng như các bộ phận, các nhân tố tham gia vào các
quá trình, quy trình chính trị trong thể chế chính trị dân chủ hiện đại (dân chủ
xã hội chủ nghĩa, dân chủ tư bản chủ nghĩa) [8].
Tuỳ theo các cách tiếp cận khác nhau về nội dung, hình thức hay
cách thức tổ chức vận hành của hệ thống chính trị mà có nhiều cách định
nghĩa về Hệ thống chính trị. Nhưng xét một cách nhất quán nhất có thể
định nghĩa: “Hệthống chính tri ̣là một chỉnh thể thống nhất bao gồm các
bộ phận cấu thành là các thiết chế chính trị có vị trí, vai trò khác nhau
nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình tham gia thực
hiện quyền lực chính trị” [8].
17. 11
Từ quan điểm trên có thể xem Hệ thống chính trị là khái niệm dùng để
chỉ một chỉnh thể bao gồm các tổ chức như: Đảng chính trị, nhà nước, các tổ
chức chính trị - xã hội (hợp pháp); với những quan hệ tác động qua lại giữa
các nhân tố đó trong việc tham gia vào các quá trình hoạch định và thực thi
các quyết sách chính trị nhằm bảo đảm quyền thống trị của giai cấp, lực lượng
cầm quyền, đồng thời đáp ứng nhu cầu ổn định và phát triển xã hội.
1.1.3. Các yếu tố cấu thành của Hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị được cấu thành từ nhiều bộ phận chức năng khác
nhau. Có thể coi mỗi bộ phận đó là một tiểu hệ thống của hệ thống chính trị.
Như vậy, cấu trúc của hệ thống chính trị gồm các bộ phận sau:
- Đảng chính trị, là một hiện tượng đặc thù của xã hội có phân chia giai
cấp và đấu tranh giai cấp. Đảng chính trị - yếu tố cơ bản của hệ thống chính
trị, hệ thống tổ chức quyền lực chính trị, của chế độ chính trị và xã hội công
dân - là công cụ tập hợp của một giai cấp; tổ chức lãnh đạo đấu tranh giai cấp
vì mục tiêu giành, giữ, sử dụng quyền lực nhà nước và định hướng chính trị
cho phát triển xã hội.
- Nhà nước, là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị được giai
cấp thống trị thành lập nhằm thực hiện quyền lực chính trị của mình. Nhà
nước vì thế mang bản chất giai cấp. Nhà nước xuất hiện kể từ khi xã hội loài
người bị phân chia thành những lực lượng giai cấp đối kháng nhau; nhà
nước là bộ máy do lực lượng nắm quyền thống trị (kinh tế, chính trị, xã hội)
thành lập nên, nhằm mục đích điều khiển, chỉ huy toàn bộ hoạt động của xã
hội trong một quốc gia, trong đó chủ yếu để bảo vệ các quyền lợi của lực
lượng thống trị.
- Các tổ chức chính trị - xã hội (hợp pháp) bao gồm các tổ chức mà hoạt
động của chúng vừa mang tính chính trị, vừa mang tính xã hội. Tùy theo điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở mỗi nước mà các tổ chức chính trị xã hội có
18. 12
đặc điểm riêng về tổ chức và phương thức hoạt động. Thông thường các tổ
chức này không đặt ra mục tiêu giành hoặc tham gia chính quyền; mà thường
vì lợi ích của các thành viên trong tổ chức của mình tìm cách tác động, gây
ảnh hưởng đối với chính quyền và đảng phái chính trị [38].
1.1.4. Nguyên tắc hoạt động của hệ thống chính trị
Mỗi hệ thống chính trị có những nguyên tắc và cơ chế vận hành riêng
từ đó các quan hệ, hành vi chính trị được định hướng và tạo thành một bộ
phận hữu cơ của hệ thống. Ngày nay, ở nhiều nước trên thế giới phổ biến một
số nguyên tắc sau:
- Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân, nhà nước do nhân dân lập ra, thông qua hoạt động bầu cử, nhân dân
trao quyền lực chính trị của mình cho nhà nước để thay mặt mình, thực hiện
công việc quản lý, điều hành đất nước. Do đó, trong mọi hoạt động, Nhà nước
luôn phải đảm bảo cho người dân thực hiện quyền lực chính trị của mình bằng
các hình thức dân chủ trực tiếp hoặc gián tiếp. Từ nguyên tắc này, phát sinh
một loạt các nguyên tắc sinh hoạt và ứng xử chính trị khác liên quan đến việc
bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
- Ủy quyền có điều kiện và có thời hạn:
Nguyên tắc này xác định ai là người có thể được ủy quyền và ủy quyền
trong bao lâu. Để bảo đảm nguyên tắc này phải xây dựng thể chế bầu cử bao
gồm lựa chọn các ứng viên, thể thức bầu cử và thủ tục truất quyền khi cần thiết.
- Nguyên tắc dân chủ
Bản chất của nguyên tắc này là tạo các điều kiện kinh tế - xã hội và
pháp lý để nhân dân tham gia ngày càng nhiều và thực chất vào công việc nhà
nước, tự quyết định vận mệnh của mình thông qua các cơ chế dân chủ.
Những biểu hiện cụ thể của nguyên tắc này là:
19. 13
(1) Công khai các hoạt động của nhà nước.
(2) Tạo điều kiện để dân tiếp cận thông tin.
(3) Tạo điều kiện để dân bày tỏ nguyện vọng (dân chủ trực tiếp, gián tiếp).
(4) Bầu cử tự do để nhân dân lựa chọn các đại biểu và thể hiện ý chí,
phải hỏi dân khi quyết định những vấn đề quan trọng.
(5) Thiểu số phục tùng quyết định của đa số, đa số tôn trọng và bảo vệ
thiểu số.
- Nguyên tắc thống nhất - phân quyền
Đây là hai mặt của một vấn đề trong đời sống chính trị. Không có
thống nhất và tập trung quyền lực đủ mức thì sẽ không có quyền lực chính trị
hoặc quyền lực nhà nước và sẽ không có quyền để phân chia (hoặc phân
công); không có thống nhất thì không còn quyền lực nhà nước (tức là chỉ còn
quyền lực tập đoàn hoặc quyền lực cát cứ).
Sự thống nhất quyền lực nhà nước thể hiện:
(1) Xã hội công dân thống nhất, trên đó xây dựng nhà nước;
(2) Lãnh thổ quốc gia dân tộc thống nhất;
(3) Ý chí nhân dân được tổng hợp lại thành những văn bản (khế ước) có
tính pháp lý hợp pháp (hiến pháp và pháp luật...) từ đây xây dựng những thể
chế quyền lực thống nhất (cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan hành chính cao
nhất, cơ quan xét xử cao nhất...).
(4) Thống nhất bởi đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền chi phối hệ
thống chính trị bằng các phương thức chính trị như ảnh hưởng cương lĩnh,
đường lối, nêu gương, tổ chức, vận động giáo dục...
Quyền lực là thống nhất nhưng cần có sự phân quyền để tạo sự kiểm
soát trở lại với quyền lực nhà nước. Nếu không có sự kiểm soát, sẽ dẫn đến
chuyên quyền, sử dụng tuỳ tiện quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, không thể
kiểm soát quyền lực nhà nước trong tình trạng quyền lực đó không được phân
20. 14
chia. Hiện nay, các nước trên thế giới thường phân chia quyền lực nhà nước
thành ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó, quyền lập pháp
được giao cho nghị viện, quyền hành pháp được giao cho chính phủ, quyền tư
pháp được giao cho toà án. Các cơ quan này hoạt động độc lập tương đối, tạo
thành cơ chế giám sát lẫn nhau.
Sự tập trung quyền lực quá đáng sẽ dẫn đến sự chuyên quyền, độc
đoán; ngược lại sự phân tán quyền lực quá mức sẽ dẫn đến tình trạng cát cứ,
quyền lực nhà nước thiếu thống nhất và yếu đi. Do đó, để sử dụng quyền lực
nhà nước có hiệu quả cùng với sự phân công khoa học, cần có cơ chế phối
hợp chặt chẽ thì đòi hỏi phải có sự kiểm soát quyền lực trong từng cơ quan,
giữa các cơ quan nhà nước và sự kiểm soát của nhân dân, của các tổ chức
chính trị, xã hội đối với nhà nước.
1.1.5. Hệ thống chính trị ở Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay, giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang là
chủ thể chân chính của quyền lực. Vì vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, hệ
thống chính trị là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động và
bao gồm nhiều tổ chức, mỗi tổ chức có vị trí, vai trò khác nhau nhưng cùng
tác động vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm bảo đảm quyền lực
của nhân dân, cụ thể:
- Đảng Cộng sản Việt Nam:
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại
biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị nhưng lại là hạt nhân lãnh
đạo của toàn bộ hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện trên
những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược,
những quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời Đảng là
người lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
21. 15
Thứ hai, Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các
đoàn thể quần chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà
nước tiếp nhận, thể chế hoá cụ thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính
sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây
dựng Nhà nước và bộ máy của Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước
thực hiện các Nghị quyết của Đảng.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp
và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng
việc xác định đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ
có đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể
quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội.
Ngoài ra, Đảng còn lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục
và nêu gương, làm công tác vận động quần chúng; lãnh đạo thực hiện tốt
quy chế dân chủ...
- Nhà nước:
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức
thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách
nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Mặt
khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thực hiện đường lối
chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và bảo đảm đầy đủ
quyền làm chủ của nhân dân.
Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là
bộ máy chính trị, hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội
của nhân dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp.
Trong đó, Quốc hội là cơ quan lập pháp, cơ quan đại diện cao nhất của
22. 16
nhân dân do nhân dân trực tiếp bầu ra, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất
có quyền lập ra Hiến pháp và luật pháp (lập hiến và lập pháp). Quốc hội quyết
định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện
quyền giám sát tối cao với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao
nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất
quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an
ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước. Chính phủ là cơ quan chấp
hành, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải báo cáo công tác với Quốc hội.
Trên ý nghĩa đó, Chính phủ được gọi là cơ quan hành pháp.
Cơ quan tư pháp gồm: Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các
cấp. Đây là những cơ quan được lập ra trong hệ thống tổ chức Nhà nước để
xử lý những tổ chức và cá nhân vi phạm pháp luật, bảo đảm việc thực thi
pháp luật một cách nghiêm minh, chính xác.
Toà án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý
chí của Nhà nước trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật. Toà án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế tài hình sự,
không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của
toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Để bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, bảo đảm việc xét
xử đúng người đúng tội, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống,
tập trung thống nhất và độc lập thực hiện thẩm quyền của mình đối với các cơ
quan khác của Nhà nước. Chức năng chính của Viện kiểm sát là Thực hành
quyền công tố, kiểm sát các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử... nhằm bảo
23. 17
đảm mọi hành vi phạm tội đều được xử lý nhanh chóng, kịp thời, chống bỏ lọt
tội phạm, làm oan người vô tội. Với ý nghĩa đó, Toà án, Viện kiểm sát được
gọi là cơ quan tư pháp.
- Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội...
Đây là những tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được tổ chức để tập
hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản đại diện
cho lợi ích của nhân dân, tham gia vào hệ thống chính trị, tuỳ theo tính chất,
tôn chỉ, mục đích của mình nhằm bảo vệ quyền lợi dân chủ của nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan
trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất
nước; phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của các hội viên,
đoàn viên, giữ gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt
mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân là cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng; phát huy khả
năng tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân; tuyên truyền vận động
nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; thực hiện
giám sát của nhân dân với cán bộ, công chức và giải quyết những mâu thuẫn
trong nội bộ nhân dân.
Các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân có nhiệm vụ giáo dục chính
trị tư tưởng, động viên và phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân
dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng
và hợp pháp của nhân dân; tham gia vào công việc quản lý Nhà nước, quản lý
xã hội, giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân, góp phần thực hiện và thúc đẩy quá trình dân chủ hoá và đổi mới xã
hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức theo một hệ thống từ Trung
24. 18
ương đến cơ sở. Cơ sở phân cấp theo quản lý hành chính gồm có xã,
phường, thị trấn. Hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm: Tổ chức cơ sở Đảng,
Hội đồng Nhân dân xã, phường; Uỷ ban Nhân dân xã, phường; Mặt trận Tổ
quốc xã, phường và các tổ chức chính trị - xã hội khác như: Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến
binh xã, phường, thị trấn…
Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức
và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế-xã hội, tổ chức cuộc
sống của cộng đồng dân cư.
1.2. Quyền tham gia chính trị
1.2.1. Khái niệm
Tư tưởng về quyền tham gia chính trị (Right of political participation)
xuất hiện từ rất sớm cùng với các tư tưởng về dân chủ, tự do, bình đẳng, đặc
biệt là sau cuộc cách mạng tư sản - cuộc cách mạng lật đổ sự chuyên chế,
xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, tự do. Theo đó, quyền lực nhà nước
phải thuộc về nhân dân, đưa nhân dân từ địa vị bị thống trị, trở thành người
chủ của đất nước, có quyền trực tiếp hay gián tiếp tham gia quản lý, quyết
định mọi vấn đề quan trọng của đất nước. Những tư tưởng về chủ quyền
nhân dân từng được đề cập trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ
hay trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 và Tuyên ngôn
năm 1793 của Pháp [11].
Khi Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền 1948 (UDHR) ra đời, những tư
tưởng này đã được ghi nhận:
Tất cả mọi người đều có quyền tham gia vào quản lý đất nước
mình, một cách trực tiếp hoặc thông qua những người đại diện mà họ
25. 19
lựa chọn. Mọi người đều có quyền bình đẳng trong tiếp cận các dịch vụ
công của đất nước mình. Nguyện vọng của nhân dân là cơ sở quyền lực
của chính quyền, nguyện vọng này sẽ được thể hiện trong những cuộc
bầu cử định kỳ, phổ thông, bình đẳng và bỏ phiếu kín hoặc thông qua
những thủ tục bầu cử tự do tương đương [10, Điều 21].
Sau đó được tái khẳng định trong Điều 25 của Công ước quốc tế về các
quyền dân sự chính trị 1966 (ICCPR).
Ở Việt Nam, Hiến pháp 2013 đã có những quy định nằm trong nội hàm
quyền tham gia chính trị của công dân:
1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội,
tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề
của cơ sở, địa phương và cả nước. 2. Nhà nước tạo điều kiện để công
dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong
việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân [27, Điều 28];
Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai
mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng
nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định [27, Điều 27].
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu cũng như những bài viết của các
học giả trong nước về từng khía cạnh của Quyền tham gia chính trị như Chủ
quyền nhân dân; Quyền bầu cử, ứng cử; Quyền tham gia vào các cơ quan
thuộc bộ máy nhà nước… Tuy nhiên, nếu nhìn tổng thể quyền tham gia chính
trị như là nhóm quyền theo tinh thần của Điều 21 UDHR và Điều 25 ICCPR
thì trong các công trình nghiên cứu ở Việt Nam chưa có tài liệu nào đề cập
đến, giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người của Khoa luật Đại
học Quốc gia cũng chỉ liệt kê một số điều luật có liên quan. Vì vậy, muốn làm
sáng tỏ vấn đề này, cần đi tìm hiểu và phân tích về các nội dung có liên quan,
cụ thể như sau:
26. 20
Trước hết, cần hiểu, thế nào là Quyền? Theo từ điển Tiếng Việt, Quyền
là “cái mà luật pháp, xã hội, phong tục hay lẽ phải cho phép được hưởng thụ,
được vận dụng, được thực hành…, và nếu thiếu thì được phép yêu cầu để có
đầy đủ, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại”. Như vậy, khái niệm
Quyền chủ yếu liên quan đến việc hành động, cụ thể là tự do hành động. Theo
đó, một người được phép làm những việc trong khuôn khổ nhất định mà không
bị cưỡng ép, áp đặt, và không ai được vi phạm vào các quyền đó. Việc làm rõ
khái niệm Quyền là cơ sở để xác định các vấn đề có liên quan dựa trên quyền.
Thứ hai là khái niệm Quyền con người. Có nhiều cách định nghĩa khác
nhau về quyền con người dựa trên các hướng tiếp cận từ những góc độ nhất
định. Trên phạm vi quốc tế, theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp
quốc về quyền con người thì, quyền con người là: “những bảo đảm pháp lý
toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành
động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và
tự do cơ bản của con người” [11]. Ở Việt Nam, xét chung, quyền con người
thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan
của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa
thuận pháp lý quốc tế. Dù nhìn ở góc độ và cấp độ nào thì quyền con người
cũng được xác định là những đặc quyền tự nhiên được pháp luật ghi nhận
điều chỉnh và bảo đảm thực hiện .
Thứ ba, quyền tham gia chính trị: Từ các khái niệm trên, để có cái nhìn
tổng quan về Quyền tham gia vào chính trị đồng thời làm cơ sở nghiên cứu
cho luận văn, tác giả đưa ra khái niệm theo quan điểm của tác giả như sau:
"Quyền tham gia chính trị là nhóm quyền nhằm ghi nhận và bảo đảm sự tham
gia của công dân vào các hoạt động quản lý, điều hành đất nước một cách trực
tiếp, gián tiếp thông qua người đại diện hợp pháp hoặc thông qua việc giám
sát hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước".
27. 21
1.2.2. Quyền tham gia chính trị theo quy định của luật quốc tế
Quyền tham gia chính trị được ghi nhận trong Điều 21 UDHR 1948 sau
đó được tái khẳng định và cụ thể hoá trong ICCPR:
Mọi công dân, không có bất kỳ sự phân biệt nào ... và không
có bất kỳ sự hạn chế bất hợp lý nào, đều có quyền và cơ hội để: a)
Tham gia điều hành các công việc xã hội một cách trực tiếp hoặc
thông qua những đại diện do họ lựa chọn; b) Bầu cử và ứng cử
trong các cuộc bầu cử định kỳ chân thực, bằng phổ thông đầu
phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín, nhằm bảo đảm cho cử chi được
bày tỏ ý nguyện của mình; c) Được tiếp cận với các chức vụ công ở
đất nước mình trên cơ sở bình đẳng [9, Điều 25].
Liên quan đến Điều 25, uỷ ban Nhân quyền Liên hợp quốc đã giải thích
thêm một số khía cạnh của Điều này trong Bình luận chung số 25 thông qua tại
phiên họp thứ 57 năm 1996, có thể tóm tắt một số điểm quan trọng như sau:
Điều 25 của ICCPR công nhận và bảo vệ quyền của công dân được
tham gia các hoạt động quản lý nhà nước, quyền bầu cử, quyền được tham gia
các cơ quan nhà nước. Công ước yêu cầu các quốc gia cho dù thể chế chính
trị thế nào thì các quốc gia thành viên cũng phải thông qua những bi ện pháp
pháp lý và các biện pháp cần thiết khác để đảm bả o cho mo ̣i công dân đều có
cơ hội được hưởng các quyền này.
Mặt khác, các quyền nêu trong Điều 25 có liên quan nhưng không đồng
nhất với quyền tự quyết dân t ộc. Quyền tự quyết dân t ộc quy đi ̣nh trong
Khoản 1 Điều 1 ICCPR là quyền của cả m ột dân tộc được tự do quyết đị nh
thể chế chính tri ̣của nư ớc mình, trong khi đó, Điều 25 đề cập đến quyền của
các cá nhân được tham gia vào quá trình quản lý các lĩnh vực công.
1.2.3. Chủ thể của Quyền tham gia chính trị
Theo đoạn 3 và đoạn 4, Bình luận chung số 25: Không giống như các
28. 22
quyền và tự do khác được ghi nhận trong ICCPR mà có chủ thể của quyền là
mọi cá nhân trong phạm vi lãnh thổ và thu ộc quyền tài phán của m ột quốc
gia, các quyền nêu ở Điều 25 chỉ dành riêng cho những người có vị thế "công
dân" của quốc gia tức là những người mang quốc tịch Quốc gia đó. Tuy
nhiên, không được có bất kỳ sự phân bi ệt đối xử nào vì bất kỳ lý do gì như
chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, giới tính, ngôn ngữ, quan điểm chính trị hay quan
điểm khác, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, sở hữu, thành phần xuất thân hay
địa vị khác giữa các công dân trong việc thực hiện những quyền này. Kể cả sự
phân biệt giữa những người được hưởng tư cách công dân m ột cách đương
nhiên ngay khi sinh ra và những người có được tư c ách công dân bằng vi ệc
nhập quốc ti ̣ch cũng là trái với Điều 25 [34].
Các quyền nêu ở Điều 25 có thể bi ̣ha ̣n chế nhưng mo ̣i ha ̣n chế phải
hợp lý và khách quan . Ví dụ, một trong những ha ̣n chế được cho là hợp lý
là quy đi ̣nh cần phải đa ̣ t đến một độ tuổi nhất đi ̣nh mới được quyền bầu cử ,
ứng cử hay được bổ nhi ệm vào những chứ c vụcụthể trong h ệ thống chính
quyền; hoặc quy đi ̣nh những người bi ̣ha ̣n chế năng lực hành vi có thể
không được quyền bầu cử hay ứ ng cử (với những người bị bệnh tâm thần,
đang chấp hành phạt tù... ).
Nếu giới hạn quyền tham gia chính trị trong phạm vi các quyền cơ
bản mà Điều 25 liệt kê như tham gia và các cơ quan công quyền, bầu cử
ứng cử, bỏ phiếu trưng cầu ý dân… thì quyền tham gia chính trị chỉ dành
riêng cho những người có vị thế công dân theo giải thích của Bình luận
chung số 5 là phù hợp.
Tuy nhiên, với đề tài “Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay”,
tác giả lựa chọn phạm vi nghiên cứu quyền tham gia chính trị theo quy định
pháp luật hiện hành, trong đó ngoài các quyền tham gia trực tiếp, gián tiếp
theo tinh thần Điều 25 còn bao gồm nhóm quyền giám sát như khiếu nại, tố
29. 23
cáo, khởi kiện hành chính. Các quyền này không chỉ để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bản thân người bị hại mà còn là cơ chế hữu hiệu nhằm giám
sát và tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, hoàn thiện
hệ thống chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Trong xu thế hội nhập và
mở cửa, có rất nhiều người nước ngoài đến Việt Nam làm ăn, sinh sống, học
tập hay tham quan du lịch, họ cần phải tuân thủ pháp luật Việt Nam và cũng
được pháp luật Việt Nam bảo vệ. Nếu họ bị cản trở hoặc gây khó khăn trái
phép hoặc bị một quyết định hành chính, hành vi hành chính gây thiệt hại đến
lợi ích hợp pháp thì họ cũng có quyền khiếu nại, tố cáo, hay khởi kiện hành
chính như bất kỳ công dân Việt Nam nào. Luật tiếp công dân quy định: “Việc
tiếp đại diện của cơ quan, tổ chức đến khiếu nại, kiến nghị, phản ánh, tiếp
người nước ngoài đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh được thực hiện
như đối với tiếp công dân” [28, Điều 1].
Như vậy, luận văn xác định chủ thể của quyền tham gia chính trị không
chỉ là công dân Việt Nam mà còn bao gồm cả người nước ngoài đang sinh
sống, học tập, làm việc… tại Việt Nam.
1.2.4. Các yếu tố cấu thành Quyền tham gia chính trị
Như đã trình bày ở trên, quyền tham gia đời sống chính trị thực chất là
nhóm quyền có quan hệ chặt chẽ với nhau, rất khó để phân định rõ từng
quyền cụ thể, tuy nhiên có thể chia thành một số quyền cơ bản:
- Quyền tham gia vào các hoạt động công: (quyền tham gia quản lý nhà
nước) là khái niệm rộng liên quan đến việc thực hiện quyền lực chính trị bao
gồm cả quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở các cấp độ khác nhau từ cấp
độ địa phương, quốc gia, khu vực và quốc tế. Công dân tham gia trực tiếp vào
các hoạt động công với tư cách là thành viên các cơ quan nhà nước, tham gia
góp ý vào việc thông qua hay thay đổi hiến pháp, quyết định các vấn đề công
thông qua trưng cầu dân ý, tham gia các hội đồng dân cử có thẩm quyền quyết
30. 24
định các vấn đề của địa phương hay các vấn đề của cộng đồng cụ thể, hay
tham gia các cơ quan được thành lập để đại diện cho công dân trong việc
tham vấn với chính phủ. Công dân có thể gián tiếp tham gia vào hoạt động
quản lý nhà nước thông qua việc tự do lựa chọn những người đại diện cho
mình trong các cơ quan dân cử, và tranh luận, đối thoại công khai với các đại
diện do mình bầu ra hoặc thông qua cơ chế khác do công dân tự tổ chức.
- Quyền bỏ phiếu: Đoạn 10, đoạn 11 và đoạn 12 Bình luận chung số 25
giải thích:
Quyền bỏ phiếu ta ̣i các cu ộc bầu cử và trưng cầu dân ý phải
được quy định bởi pháp luật và chỉ phải chi ̣u những ha ̣n chế hợp lý,
ví dụnhư quy đi ̣nh về độ tuổi tối thiểu được quyền bầu cử . Những
hạn chế về quyền bầ u cử được coi là không hợp lý nếu như chúng
được đạt ra dựa trên tình tra ̣ng khuyết t ật về thể chất hay những đòi
hỏi về tài sản , giáo dục, khả năng biết đọc , biết viết, vị thế thành
viên của các đảng phái... [34, Đoạn 10]
…nếu có những đòi hỏi về cư trú đạt ra trong việc đăng ký cử
tri khi bầu cử thì những đòi hỏi đó phải hợp lý và không được nhằm
loại trừ quyền bầu cử của những người không có chỗ ở. Pháp luật cần
cấm mọi sự can thiệp có tính la ̣m dụng vào việc đăng ký hay vào quá
trình bầu cử cũng như mọi sự đe doạ hay ép bu ộc các cử tri, và các
quy đi ̣nh cấm đó cần phải được thực thi nghiêm chỉnh[34, Đoạn 11]
Quyền tự do biểu đa ̣t , hội họp và l ập hội là những điều ki ện
quan trọng cho việc thực hiện có hiệu quả quyền bầu cử , do đó, cần
được các quốc gia thành viên bảo đảm đầy đủ . Các quốc gia thành
viên cần thực thi các bi ện pháp tích cực để khắc phục những trở
ngại trong việc bảo đảm quyền này , cụ thể như tình tra ̣ng thất học ,
đói nghèo, những rào cản ngôn ngữ, những khó khăn trong việc đi
31. 25
lại mà cản trở những ngư ời có quyền bầu cử thực hi ện có hiệu quả
các quyền của mình . Thông tin và các tài liệu về vi ệc bầu cử phải
được chuẩn bị cả bằng những ngôn ngữ thiểu số . Các biện pháp cụ
thể như là tranh ảnh hay biểu tượng cần đư ợc đáp ứng để đảm bảo
rằng các cử tri mù ch ữ đều có được thông tin đầy đủ làm cơ sở cho
sự lựa chọn của mình [34, Đoạn 12].
- Quyền ứng cử: Trong Bình luận chung số 25, Hội đồng nhân quyền
xác đi ̣nh rõ rằng các điều kiện liên quan đến việc bổ nhiệm, lệ phí hay đặt tiền
trong ứ ng cử cần phải hợp lý và không có tính phân bi ệt. Mặt khác, những
căn cứ thay đổi những ngư ời nắm giữ chứ c vụbầu cử cần đư ợc quy định bởi
pháp luật dựa trên những tiêu chí khách quan và hợp lý và theo những trình
tự, thủ tục công bằng [34].
Cụ thể hơn, quốc gia không được hạn chế quyền ứng cử một cách vô lý
bằng cách đòi hỏi các ứ ng cử viên phải là thành viên của một đảng phái cụthể
nào. Nếu đòi hỏi m ột ứ ng cử viên phải có m ột số ngư ời ủng h ọ tối thiểu để
được chỉ định thì mức đòi hỏi này cần hợp lý và không được đặt ra để làm rào
cản đối với vi ệc ứ ng cử. Tôn tro ̣ng quyền tự do tư tư ởng và ngôn lu ận, quốc
gia không được coi quan điểm chính tri ̣là că n cứ để tước bỏ quyền tham gia
ứng cử của cá nhân [34].
- Bầu cử định kỳ và thực chất phản ánh ý chí của cử tri. Điều 25 (b)
đòi hỏ i về chất lư ợng của các cu ộc bầu cử phải là đi ̣nh kỳ , chân thực, bằng
phổ thông đầu phiếu , bình đẳng và bỏ phiếu kín . Trong Bình luận chung số
25, HRC nêu yêu cầu cần xác đi ̣nh những giới ha ̣n hợp lý về chi phí tranh cử
để đảm bả o rằng không cản trở sự lựa cho ̣n tự do của cử tri , hoặc quá trình
dân chủ không bi ̣bóp méo b ởi chi phí không tươ ng xứ ng giữa các ứ ng cử
viên hay các đảng phái [34]. Một điểm quan trọng nữa là cần thành l ập một
cơ quan độc lập để giám sát quá trình bầu cử và đảm bảo rằng vi ệc bầu cử
32. 26
được tiến hành m ột cách bình đẳng , không thiên vi ̣, phù hợp với pháp lu ật
quốc gia và với Công ước [34].
Về quy đi ̣nh “bỏ phiếu kín” đòi hỏi cần có những bi ện pháp bảo đảm
yêu cầu bí mật của việc bỏ phiếu, bảo vệ các cử tri trước mọi sự ép bu ộc hay
cưỡng bức khi bỏ phiếu. An ninh cho các hòm phiếu cũng phải được bảo đảm
và việc kiểm phiếu phải có sự chứ ng kiến của các ứ ng cử viên hay các đa ̣i
diện của họ. Cần đảm bảo sự bí m ật cả quá trình kiểm phiếu và vi ệc xem xét
lại về mặt tư pháp hoặc bằng các thủ tục liên quan khác để các ứ ng cử viên tin
tưởng vào sự an toàn của các hòm phiếu và vi ệc kiểm phiế u. Sự trợgiúp cho
những người tàn tật, người mù, hay mù chữ cũng phải mang tính độc lập. Các
ứng cử viên cần đư ợc thông tin đầy đủ về những đảm bảo này . Mặc dù Công
ước không quy định về m ột cơ chế bầu cử cụthể nào nhưng mọi cơ chế bầu
cử ở các quốc gia thành v iên phải phù hợp với các quyền đư ợc ghi nh ận ta ̣i
Điều 25 và phải đảm bảo cho cử tri được tự do thể hiện ý chí [34].
Cũng nhằm bảo đảm cho cu ộc bầu cử thực chất và mang tính ca ̣nh
tranh, trong Bình luận chung số 25, HRC đề cao vai tr ò của truyền thông và
của các đảng phái chính tri ̣:
Để đảm bảo việc hưởng đầy đủ các quyền được bảo vệ theo
Điều 25 thì việc trao đổi thông tin và ý kiến về các vấn đề chính trị
giữa Nhà nước và công dân, các ứng cử viên và những đại diện được
bầu là quan trọng. Điều này ngầm ý là báo chí và các phương tiện
thông tin có quyền bình luận về những vấn đề công cộng mà không
có sự kiểm duyệt hay hạn chế và được thông tin quan điểm công
khai. Điều này cũng đòi hỏi sự thụ hưởng đầy đủ và tôn trọng các
quyền được bảo đảm theo các Điều 19, 21 và 22 của Công ước, kể cả
quyền tự do tham gia các hoạt động chính trị một cách cá nhân hoặc
thông qua các đảng phái chính trị hay các tổ chức khác, quyền tự do
33. 27
tranh luận các vấn đề công, tổ chức các cuộc mít tinh, biểu tình hoà
bình, chỉ trích, phản đối, công bố các ấn phẩm chính trị, tổ chức
tranh cử và công khai các quan điểm chính trị [34, Đoạn 25];
Quyền tự do lập hội, kể cả quyền thành lập hay tham gia các
tổ chức và hiệp hội liên quan đến các vấn đề chính trị hay công cộng
là một sự bổ sung cho các quyền được bảo vệ theo điều 25. Các đảng
phái chính trị hay các thành viên của các đảng phái đóng một vai trò
quan trọng trong việc quản lý các vấn đề công và quá trình bầu cử.
Tuỳ theo cách quản lý của mình, các quốc gia cần bảo đảm rằng các
đảng phái chính trị tôn trọng các quy định của Điều 25 để cho công
dân theo đó thực hiện các quyền của mình [34, Đoạn 26].
- Quyền tiếp cận bình đẳng các dịch vụ công:
Tiểu mục (c) Điều 25 liên quan đến quyền và cơ hội của công
dân được tiếp cận một cách bình đẳng vớ i các chứ c vụquản lý nhà
nước. Để đảm bảo quyền này thì tiêu chí và quá trình bổ nhi ệm,
thăng tiến, đình chỉ và sa thải công chứ c nhà nư ớc phải khách quan
và hợp lý và việc tham gia các chứ c vụtrong các cơ quan nhà nước
phải dựa trên sự bình đẳng về cơ hội, những nguyên tắc chung về
công tra ̣ng và quy đi ̣nh nhi ệm kỳ có đảm bảo , để đảm bảo rằng
những cá nhân nắm giữ chứ c vụcông không phải chi ̣u những sứ c
ép hay sự can thiệp về chính tri ̣[34, Đoạn 23].
Như vậy, luật pháp quốc tế đã có quy định về quyền này, tuy nhiên mới
dừng ở mức độ khuyến nghị, chưa có các quy định cụ thể, mà các quyền cụ
thể này được giao cho quốc gia, các quy định pháp luật quốc tế mang tính
định hướng và nêu các nguyên tắc đối với các quốc gia hơn là điều chỉnh trực
tiếp.Ví dụ, cho phép giới hạn tuổi bầu cử nhưng không quy định tuổi bầu cử
cụ thể, điều này tuỳ thuộc vào quy định của mỗi quốc gia.
34. 28
Ngoài ra, luật pháp quốc tế chưa đề cập đến các quyền giám sát của
công dân đối với nhà nước. Bản chất quyền tham gia chính trị là thực thi dân
chủ. Do đó, bên cạnh các hình thức tham gia trực tiếp, gián tiếp như quy định
tại Điều 25 ICCPR, theo quan điểm của tác giả, nói đến tham gia chính trị còn
cần phải quy định các quyền giám sát. Đây là cơ chế đã được quy định trong
pháp luật Việt Nam và đã phát huy được những hiệu quả nhất định. Xuất phát
từ nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, với tư cách là người
chủ, người dân có quyền giám sát cơ quan Nhà nước, giám sát những người
được nhân dân trao quyền, qua đó, kịp thời phát hiện và điều chỉnh những tồn
tại, hạn chế trong hoạt động quản lý và điều hành đất nước. Đây cũng là điểm
chưa tương thích giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế về quyền tham
gia chính trị.
1.3. Ý nghĩa của Quyền tham gia chính trị và Các yếu tố ảnh hƣởng
đến Quyền tham gia chính trị
1.3.1. Vị trí, vai trò của Quyền tham gia chính trị
Quyền tham gia chính trị là quyền cơ bản nhất trong nhóm Quyền dân
sự chính trị. Thừa nhận quyền tham gia đời sống chính trị là cơ sở để xây
dựng và thực hiện các quyền chính trị khác. Quyền tham gia chính trị về mặt
hình thức là quyền bình đẳng của cá nhân trong việc tham gia vào các hoạt
động của cơ quan nhà nước như Quyền Bầu cử, ứng cử, bỏ phiếu, tham gia
các cơ quan công quyền, trưng cầu ý dân... Nhưng xét về bản chất, quyền
tham gia chính trị thể hiện mối quan hệ giữa công dân với quyền lực nhà
nước và việc sử dụng quyền lực nhà nước, trong đó quyền lực nhà nước phải
thuộc về nhân dân, dựa trên nguyện vọng của dân. Quyền chính trị của công
dân đồng thời phải được ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật. Như vậy, thừa
nhận quyền tham gia chính trị của công dân cũng là khẳng định vai trò làm
chủ của công dân đối với nhà nước và hệ thống chính trị, và ngược lại, vì
35. 29
quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân nên nhân dân có
quyền tham gia và mọi hoạt động của đời sống chính trị. Nhà nước có nghĩa
vụ bảo đảm quyền làm chủ của công dân thông qua quy định các quyền tham
gia trực tiếp hoặc gián tiếp bằng Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, quyền tham
gia chính trị phản ánh bản chất, tính chất dân chủ của xã hội, mức độ bảo vệ
nhân quyền trong xã hội. Đảm bảo quyền tham gia chính trị cũng là góp
phần thực thi dân chủ.
Việc quy định Quyền tham gia chính trị tại Điều 21 của Tuyên ngôn
quốc tế về Nhân quyền 1948 và tại Điều 25 Công ước quốc tế về các quyền
dân sự chính trị 1966 đã xây dựng khung pháp lý quy chuẩn về dân chủ.
Những quyền được quy định tại Điều 25 trở thành những quyền chính trị cơ
bản nhất mà mọi công dân của mọi quốc gia trên thế giới phải được hưởng,
không phân biệt chế độ chính trị, hay điều kiện kinh tế, tôn giáo. Qua đó,
thực hiện quyền tham gia chính trị trong pháp luật quốc gia và bảo đảm thực
hiện trên thực tế là thước đo về dân chủ xã hội, mức độ tham gia của người
dân vào đời sống chính ở mỗi quốc gia trị tỉ lệ thuận với mức độ dân chủ ở
quốc gia đó.
Mở rộng khái niệm dân chủ trong chính trị, nhân dân được hiểu theo
nghĩa rộng, không có sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính,
ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc
dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc địa vị khác. Điển
hình là quyền Bầu cử, ứng cử trước đây chỉ dành cho một nhóm nhỏ dựa
trên thu nhập, tài sản, địa vị, phụ nữ gần như bị gạt ra khỏi hai quyền này.
Đến nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đã thừa nhận quyền bầu cử ứng
cử của phụ nữ tuy nhiên vẫn còn 6 nước ngăn cấm hoặc hạn chế quyền bầu
cử và ứng cử của phụ nữ là: Bhutan, Lebanon, Brunei, Saudi Arabia,
United Arab Emirates,Vatican City.
36. 30
1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện Quyền tham gia chính trị
Nếu như việc ghi nhận quyền tham gia chính trị trong mỗi quốc gia phụ
thuộc vào các quy định của pháp luật quốc tế và đặc điểm kinh tế, chính trị xã
hội của mỗi quốc gia, thì việc thực hiện Quyền tham gia chính trị lại phụ
thuộc vào những yếu tố như thể chế, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà
nước, và đặc biệt là vào việc thực hiện các quyền gần gũi. Trong phạm vi
nghiên cứu, tác giả lựa chọn một số yếu tố cơ bản tác động trực tiếp đến việc
thực hiện quyền tham gia chính trị ở Việt Nam bao gồm: quy định pháp luật
hiện hành, các quyền dân sự chính trị cơ bản, môi trường thực thi và thiết chế
bảo vệ quyền tham gia chính trị. Cụ thể:
Trước hết, Quyền tham gia chính trị chịu ảnh hưởng bởi quy định của
Pháp luật hiện hành. Công dân là chủ thể nằm trong quyền tài phán của mỗi
quốc gia, quyền tham gia vào đời sống chính trị là quyền đặc biệt, chỉ xuất
hiện khi xã hội phát triển, hình thành nhà nước và hệ thống chính trị. Quyền
tham gia vào đời sống chính trị của công dân phải được ghi nhận trong pháp
luật và được pháp luật bảo vệ. Tất cả các quyền bầu cử, tham gia vào bộ máy
nhà nước, quyền khiếu nại tố cáo phải được quy định cụ thể trong hiến pháp
và pháp luật, là cơ sở, công cụ để người dân thực hiện các quyền của mình.
Nếu không được ghi nhận trong các văn bản pháp luật thì các quyền này chỉ
mang tính hình thức, lý tưởng. Việc ghi nhận quyền tham gia đời sống chính
trị trong UDHR và quy định trong ICCPR có thể coi là cuộc cách mạng trong
thực hiện dân chủ, nhân quyền, là cơ sở, căn cứ pháp lý để các quốc gia thực
hiện nghĩa vụ của mình, đồng thời nội luật hoá quyền tham gia vào đời sống
chính trị của công dân trong các văn bản pháp luật.
Thứ hai là quyền tham gia chính trị phải dựa trên các quyền dân sự
chính trị cơ bản như:
- Quyền bình đẳng, không phân biệt đối xử. Một trong những vấn đề
37. 31
quan trọng của việc tham gia vào đời sống chính trị là quyền bình đẳng,
quyền tham gia vào đời sống chính trị không phải là quyền dành cho một số
nhóm người hay đảng phái cụ thể mà phải là của tất cả công dân không có bất
kì sự phân biệt đối xử nào về nguồn gốc xuất thân, dân tộc, tôn giáo, địa vị xã
hội, đảng phái, tài sản, tín ngưỡng, tôn giáo... Bảo đảm việc ghi nhận và thực
hiện các quyền tham gia đời sống chính trị đồng thời phải bảo đảm tất cả mọi
công dân phải được hưởng quyền một cách công bằng, thực chất.
- Quyền tự do thông tin, được coi là chìa khoá của dân chủ, là điều kiện
đầu tiên để thực hiện các quyền chính trị. Quyền tự do thông tin là sự trao đổi
thông tin, ý kiến về các vấn đề chính trị giữa Nhà nước và công dân, những
người đại diện được bầu thông qua các phương tiện truyền thông, báo chí. Là
sự công khai minh bạch trong việc quản lý, điều hành đất nước, hoạt động của
các cơ quan công quyền, công khai thông tin trong toàn bộ các hoạt động bầu
cử, ứng cử, các thủ tục, điều kiện tham gia vào các cơ quan công quyền.
Quyền tự do tin còn là quyền của người dân tìm hiểu các thông tin liên quan
đến việc thực hiện quyền tham gia chính trị. "Dân biết" có thể coi là điều kiện
đầu tiên của quyền tham gia đời sống chính trị của công dân (vừa để dân làm
và dân kiểm tra - quyền trực tiếp tham gia quản lý và quyền giám sát).
- Quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận
và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực chính trị, văn
hoá, kinh tế xã hội... dưới các hình thức tuyên truyền bằng miệng, bản viết, in
hoặc dưới hình thức nghệ thuật hay thông qua các phương tiện truyền thông
đại chúng. Nếu như quyền tự do thông là điều kiện để "dân biết" thì quyền tự
do ngôn luận là cơ sở để "dân bàn". Mọi chính sách, quyết định của nhà nước
đều ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người dân, do đó, mọi công dân
phải có quyền được thảo luận, đóng góp ý kiến, đặc biệt là góp ý các dự thảo
luật, đánh giá về các hoạt động của cơ quan nhà nước, quyết định các vấn đề
38. 32
quan trọng của đất nước. Công dân có thể thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự
do biểu đạt trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua người đại diện do mình bầu ra.
- Quyền tự do hội họp và lập hội, mọi người đều có quyền tự do lập hội
và hội họp một cách hoà bình và không bị ép buộc phải tham gia bất cứ hiệp
hội nào. Quyền tự do lập hội liên quan đến hai hình thức tham gia chính trị là
việc tự do tham gia các đảng phái chính trị và quyền được biểu tình bày tỏ
quan điểm của người dân.
Thứ ba là phải có môi trường bảo đảm việc thực hiện quyền tham gia
chính trị: triển khai đồng bộ các cơ chế dân chủ trực tiếp, gián tiếp, cơ chế
giám sát quyền lực nhà nước, đồng thời phát huy vai trò của các tổ chức chính
trị - xã hội, xã hội dân sự. Cơ chế dân chủ ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là
dân chủ gián tiếp, người dân tham gia chính trị thông qua bầu ra người đại
diện như Đại biểu quốc hội, Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, trong khi xu
thế các nước trên thế giới hiện nay đề cao các cơ chế phát huy dân chủ trực
tiếp như: Bầu cử trực tiếp ra các chức vụ trong bộ máy nhà nước (chủ tịch Ủy
ban nhân dân phường, xã…), trưng cầu ý dân, đối thoại giữa nhân dân với
những quan chức nhà nước, quyền tham gia đóng góp ý kiến quản lý xã hội,
quản lý nhà nước và các hình thức khác. Thông qua các cơ chế dân chủ trực
tiếp người dân có nhiều cơ hội để trực tiếp đưa tiếng nói, ý chí, nguyện vọng
của mình tới những người lãnh đạo và người hoạch định chính sách.
Bên cạnh việc triển khai đồng bộ các cơ chế dân chủ, để tạo môi trường
đảm bảo thực hiện quyền tham gia chính trị cần phát huy vai trò của các tổ
chức chính trị - xã hội, xã hội dân sự. Mặc dù người dân là chủ thể của quyền
lực chính trị, nhưng trên thực tế, dù ở chế độ xã hội nào, trong tương quan với
các cá nhân, cơ quan nhà nước, người dân luôn vị trí yếu thế. Đặc biệt trong
bối cảnh ở Việt Nam hiện nay các cơ chế dân chủ trực tiếp vừa thiếu, vừa yếu
thì sự tham gia của người dân vào các hoạt động chính trị càng hạn chế.
39. 33
Thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội dân sự, người dân mới có
kênh thông tin, diễn đàn để phát huy sức mạnh tập thể,phản ảnh những ý chí,
nguyện vọng chung.
Cuối cùng, phải có thiết chế hữu hiệu bảo vệ quyền tham gia chính trị:
thông qua các hình thức như cơ chế tài phán, xét xử các vi phạm quyền tham
gia chính trị. Nếu quy định pháp luật quốc gia, quốc tế là điều kiện cần thì các
thiết chế bảo vệ hữu hiệu là điều kiện đủ để đảm bảo quyền tham gia chính trị
nói riêng và quyền con người nói chung được thực thi một cách trọn vẹn, đầy
đủ nhất. Hiện nay, ở cấp độ quốc tế tồn tại hai cơ chế bảo vệ quyền con người
nói chung là Cơ chế dựa trên hiến chương và cơ chế dựa trên các Công ước.
Ngày 03/4/2006, Đại hội Đồng đã thông qua nghị quyết số 60/251 thành lập
Hội đồng Quyền con người Liên hợp quốc là cơ quan chuyên trách có nghĩa vụ
bảo vệ, thúc đẩy việc thực thi nghĩa vụ về quyền con người ở các quốc gia,
thực hiện việc đánh giá định kỳ toàn thể việc tuân thủ nghĩa vụ và cam kết về
quyền con người của mỗi quốc gia, đồng thời là diễn đàn để đối thoại về những
chủ đề cụ thể về quyền con người. Ngoài ra 6 cơ quan chính của Liên Hợp
quốc cũng có trách nhiệm nhất định trong thúc đẩy và bảo vệ quyền con người.
Ở cấp độ khu vực: do có quá nhiều khác biệt về tôn giáo, lịch sử, văn
hoá, chính trị, kinh tế giữa các quốc gia nên đến nay, Châu Á là châu lục duy
nhất chưa thiết lập được cơ chế chung để bảo vệ quyền con người. Tuy nhiên,
ở một số phần của Châu Á đã tồn tại những văn kiện và thiết chế chung, cho
thấy triển vọng nhất định về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Năm 2009,
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) – mà Việt Nam là một quốc
gia thành viên – đã thành lập Uỷ ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền
(AICHR). Mặc dù hiện nay, AICHR chỉ là cơ quan tư vấn liên chính phủ
(theo Điều 4 Quy chế). Tuy nhiên, Quy chế để mở ra việc kiểm điểm lại (sửa
đổi) văn kiện sau năm năm sau khi cơ quan này đi vào hoạt động [11]. Như
40. 34
vậy, cũng như ở cấp độ Quốc tế và Khu vực cơ chế bảo vệ, thúc đẩy nhân
quyền chỉ dừng ở mức tư vấn, khuyến nghị, chưa xây dựng được cơ chế bảo
vệ và thúc đẩy quyền con người một cách thực sự hiệu quả đặc biệt là trong
thụ lý và xét xử các vi phạm về quyền con người.
Ở cấp độ quốc gia: hiện nay Việt Nam chưa có cơ quan nhân quyền
quốc gia đúng nghĩa để bảo vệ các quyền con người nói chung và quyền tham
gia chính trị nói riêng. Chủ thể của những vi phạm quyền tham gia chính trị
thường là cá nhân, cơ quan nhà nước trong khi đơn vị xét xử hiện nay là toà
án cũng thuộc hệ thống các cơ quan nhà nước, dẫn đến những tồn tại hạn chế
trong công tác thụ lý, xét xử các vụ vi phạm. Vì vậy, nhu cầu xây dựng một
thiết chế bảo vệ nhân quyền độc lập với các cơ quan nhà nước, phù hợp với
các nguyên tắc Paris về là thực sự cần thiết. Thành lập cơ quan nhân quyền
quốc gia sẽ cung cấp những tư vấn và trợ giúp độc lập, khách quan, có tính
xây dựng cho nhà nước trong việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền; đáp ứng
nhu cầu hội nhập quốc tế, làm tăng uy tín của nhà nước trên trường quốc tế; là
đầu mối cung cấp thông tin khách quan, tin cậy cho cộng đồng quốc tế về tình
hình nhân quyền ở Việt Nam; làm trung gian giúp giảm thiểu và hóa giải
những bất đồng giữa chính phủ - xã hội dân sự, chính phủ - tổ chức quốc tế
trong vấn đề nhân quyền [39].
1.4. Quan điểm của Đảng, nhà nƣớc Việt Nam về Quyền tham gia
chính trị
Sau khi lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành độc lập,khai sinh nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
Nhà nước Việt Nam dân chủ kiểu mới là nhà nước của dân,
do dân và vì dân. Cơ sở xã hội của nhà nước đó là toàn thể dân tộc
Việt Nam, dựa trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
41. 35
sản Việt Nam [14], … Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử
ra, Đoàn thể từ Trung ương đến địa phương do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân [42].
Đó cũng là lý tưởng, là mục tiêu mà Bác cùng toàn Đảng, toàn dân luôn
hướng đến khi lựa chọn con đường Xã hội chủ nghĩa, xây dựng một nhà nước
"của dân, do dân và vì dân".
Nhà nước của dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nhà nước trong đó dân
là chủ và làm chủ, dân là người có địa vị cao nhất, có quyền quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước. "Tất cả quyền bính trong nước là của toàn
thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai
cấp, tôn giáo" [16, Điều 1].
Nhà nước do dân là nhà nước do dân tổ chức nên các cơ quan nhà nước từ
Trung ương đến địa phương thông quan thực hiện chế độ tổng tuyển cử phổ
thông đầu phiếu. Nhân dân có quyền bầu cử đồng thời có quyền bãi miễn. Đồng
thời, nhân dân có quyền tham gia và công việc quản lý nhà nước, kiểm tra, kiểm
soát, giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước, các đại biểu do mình cử ra:
"Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ" [45].
Nhà nước vì dân, là nhà nước hoạt động theo nguyên tắc vì lợi ích của
nhân dân, nhà nước chăm lo mọi mặt của đời sống nhân dân, lấy sự ấm no
hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Nhà nước có nghĩa vụ xây
dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Theo Hồ Chí Minh, dân là chủ, đồng thời dân cũng phải làm chủ.
Người cũng nhấn mạnh vai trò của nhân dân trong việc tham gia vào các hoạt
động quản lý, điều hành đất nước, với phương châm: Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra. Nếu như tư tưởng chủ quyền nhân dân là cơ sở cho quyền
tham gia vào đời sống chính trị của người dân thì phương châm dân biết, dân
42. 36
làm, dân bàn dân kiểm tra là nội hàm của quyền tham gia chính trị, bao gồm
quyền tiếp nhận thông tin, quyền tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp, quyền
kiểm tra, giám sát. Để thực hiện quyền làm chủ, người dân phải trực tiếp tham
gia vào các hoạt động quản lý nhà nước và xã hội, do đó, tham gia chính trị là
quyền và phần nào cũng là nghĩa vụ của công dân.
Kế thừa những tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh và trải qua thực tế
cách mạng từ khi đấu tranh giành chính quyền đến xây dựng và phát triển đất
nước, Ðảng Cộng sản Việt Nam - lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội ở
Việt Nam luôn ý thức được vai trò quan trọng của nhân dân đối với sự nghiệp
cách mạng, trong xây dựng phát triển đất nước. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định:
Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử.
Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện
vọng chính đáng của nhân dân. Nhà nước ta là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất
cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân... [16].
Mọi hoạt động của Nhà nước phải phục vụ cho quyền và lợi ích chính
đáng của nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua
quản lý, giám sát các cơ quan nhà nước, "Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó
mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn
trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân" [6].
Đồng thời, cương lĩnh cũng nên lên các hình thức tham gia quản lý nhà nước
của nhân dân: "Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của
Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân
chủ đại diện" [16].
Thể chế hoá Tư tưởng hồ chí minh và Cương lĩnh của Đảng, quan điểm
43. 37
nhà nước của dân, do dân, vì dân đã trở thành nguyên tắc, được ghi nhận
trong các bản Hiến pháp từ Hiến pháp 1946 cho đến Hiến pháp 2013 hiện
nay. Khẳng định vai trò làm chủ của nhân dân trong Hiến pháp là sự bảo đảm
cao nhất cho việc thực hiện các quyền tham gia vào đời sống chính trị của
người dân. Chương I của Hiến pháp 2013,quy định: "Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân", "Nhà nước bảo
đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ
và bảo đảm quyền con người, quyền công dân" [27].
Hiến pháp 2013 dành toàn bộ Chương II quy định về Quyền con người,
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó có các quyền tham gia
chính trị như:
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và
pháp luật [27, Điều 14];
Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai
mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng
nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định [27, Điều 27];
1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội,
tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề
của cơ sở, địa phương và cả nước.
2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà
nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi
ý kiến, kiến nghị của công dân [27, Điều 28].
Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi
Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân [27, Điều 29];
1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức,
44. 38
cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ
quan, tổ chức, cá nhân.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận,
giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi
thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định
của pháp luật.
3. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi
dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người
khác [24, Điều 30].
Ngoài ra, các quyền có liên quan, ảnh hưởng đến việc bảo đảm quyền
tham gia chính trị cũng được ghi nhận: “Công dân có quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện
các quyền này do pháp luật quy định” [27, Điều 25]. Đối với từng điều luật
cụ thể, Pháp luật Việt Nam cũng có những bộ luật tương ứng để điều chính
như Luật bầu cử, ứng cử, Luật Cán bộ Công chức, Luật phòng chống tham
nhũng, Luật khiếu nại, Luật tố cáo...
Có thể thấy, ở Việt Nam, Quyền Tham gia chính trị đã xuất hiện rất
sớm trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trở thành nguyên tắc trong hoạt động lãnh
đạo của Đảng, và được quy định cụ thể trong Hiến pháp và pháp luật. Phản
ánh bản chất chế độ Xã hội chủ nghĩa và ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Nhân dân là những người chủ của đất nước, quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân, do đó nhân dân bằng các hình thức trực tiếp hay gián tiếp phải có
quyền tham gia quản lý, điều hành, giám sát mọi hoạt động của Nhà nước và
cả hệ thống chính trị.
45. 39
Tiểu kết chƣơng 1
Chương 1 đã trình bày khái quát hệ thống lý luận về bảo đảm quyền
tham gia chính trị ở Việt Nam. Đây là tiền đề để phân tích thực trạng trong
quá trình bảo đảm quyền ở chương tiếp theo. Thông qua việc tìm hiểu các
khái niệm có liên quan như: chính trị, hệ thống chính trị, quyền con người,
quyền tham gia chính trị… trong phạm vi pháp luật quốc gia và pháp luật
quốc tế, tác giả đã đưa ra được nhận thức chung nhất về khái niệm quyền
tham gia chính trị. Đồng thời, Chương 1 cũng nêu lên vai trò của Quyền tham
gia chính trị, chủ thể của quyền tham gia chính trị, các yếu tố ảnh hưởng đến
bảo đảm quyền tham gia chính trị và quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt
Nam về quyền tham gia chính trị. Việc xác định rõ các vấn đề này là cơ sở
quan trọng để nghiên cứu hệ thống pháp luật, chính sách và đánh giá thực
trạng về bảo đảm quyền tham gia chính trị.
46. 40
Chương 2
QUYỀN THAM GIA CHÍNH TRỊ TRONG PHÁP LUẬT
VÀ TRONG THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về Quyền tham gia chính trị
Việc ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật các quyền tham gia chính
trị là sự hiện thực hoá quyền làm chủ của nhân dân và pháp điển hoá các quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về quyền làm chủ của nhân dân, phản ánh bản
chất dân chủ Xã hội chủ nghĩa. Quyền tham gia chính trị tuy không được đề
cập như một quyền cụ thể trong các bản hiến pháp từ Hiến pháp 1946 đến
Hiến pháp 2013,nhưng đã được ghi nhận gián tiếp thông qua các quyền khác
như tham gia quản lý nhà nước, tham gia chính quyền, trưng cầu dân ý, phúc
quyết hiến pháp, bầu cử ứng cử, bỏ phiếu...
2.1.1. Các quyền tham gia trực tiếp
Ngay từ Hiến pháp 1946 đã có quy định: “Tất cả công dân Việt Nam ...
đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và
đức hạnh của mình” [16, Điều 7],“Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc
gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý.
Cách thức phúc quyết sẽ do luật định” [16, Điều 32]... Những quy định trên là
những cơ sở pháp lý đầu tiên về quyền tham gia chính trị một cách trực tiếp
của công dân.
Đến Hiến pháp 2013, các quyền cơ bản của quyền tham gia chính trị đã
được ghi nhận tại chế định về quyền công dân:
1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham
gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ
sở, địa phương và cả nước. 2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham
gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp
nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân [27, Điều 28];