SlideShare una empresa de Scribd logo
1 de 176
Häc viÖn ChÝnh trÞ quèc gia Hå ChÝ Minh
NguyÔn ThÞ Kh­¬ng
Vai trß cña nhµ n­íc trong viÖc kÕt hîp
gi÷a t¨ng tr­ëng kinh tÕ víi b¶o vÖ m«I tr­êng
sinh th¸I ë n­íc ta hiÖn nay
Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS
Mã số : 62 22 80 05
luËn ¸n tiÕn sÜ triÕt häc
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS,TS TrÇn thµnh
2. PGS,Ts nguyÔn minh hoµn
Hµ néi - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu trong luận án là trung thực. Những kết luận
nêu trong luận án chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình
khoa học nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Thị Khương
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6
1.1. Các công trình nghiên cứu về kết hợp tăng trưởng kinh tế với
bảo vệ môi trường sinh thái 6
1.2. Các công trình nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong tăng trưởng
kinh tế và vai trò của nhà nước trong bảo vệ môi trường sinh thái 20
Chương 2: KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG SINH THÁI - YÊU CẦU CỦA SỰ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG SỰ
KẾT HỢP ĐÓ 28
2.1. Kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái -
yêu cầu của sự phát triển bền vững 28
2.2. Vai trò của Nhà nước trong kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo
vệ môi trường sinh thái 49
Chương 3: VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒ
CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY 70
3.1. Mâu thuẫn của việc đòi hỏi cần phải có tính đồng bộ về chính
sách, chiến lược, pháp luật trong kết hợp tăng trưởng kinh tế và bảo
vệ môi trường sinh thái, với tình trạng còn thiếu, chưa đồng bộ 70
3.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện, kiểm
tra, giám sát việc kết hợp tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
sinh thái, với hiệu quả thực tế còn bất cập, nhiều hạn chế 84
3.3. Mâu thuẫn của việc đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa
nhà nước cùng các tổ chức, các lực lượng xã hội trong kết hợp
tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái, với tình
trạng phối hợp còn lỏng lẻo, chưa chặt chẽ 97
Chương 4: MỘT SỐ NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT HỢP TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH
THÁI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 113
4.1. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng hệ thống chính
sách, chiến lược, pháp luật của nhà nước trong kết hợp tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái 113
4.2. Nhóm giải pháp nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản lý,
điều hành của bộ máy nhà nước trong kết hợp tăng trưởng kinh
tế với bảo vệ môi trường sinh thái 126
4.3. Nhóm giải pháp nâng cao vai trò của nhà nước trong việc tạo ra
sự đồng thuận của toàn xã hội nhằm thực hiện tốt việc kết hợp
tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái 136
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153
PHỤ LỤC 165
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CN : Công nghệ
CT - XH : Chính trị - xã hội
ĐT : Đào tạo
GD : Giáo dục
KH : Khoa học
KT - XH : Kinh tế - xã hội
MT : Môi trường
MTST : Môi trường sinh thái
Nxb : Nhà xuất bản
PTBV : Phát triển bền vững
TN - MT : Tài nguyên - môi trường
TNTN : Tài nguyên thiên nhiên
TTKT : Tăng trưởng kinh tế
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Loài người chúng ta đã bước vào thiên nhiên kỷ thứ ba và đang đứng
trước những thách thức có tính toàn cầu. Biến đổi khí hậu cùng với suy thoái
TNTN, ô nhiễm MTST là mối quan tâm lớn nhất của thế giới đương đại. Tình
trạng ô nhiễm MTST đã, đang và sẽ làm thay đổi toàn diện, sâu sắc các hệ
sinh thái tự nhiên, ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng của nền kinh tế cũng
như toàn bộ đời sống xã hội, đe dọa nghiêm trọng tới an ninh MT, năng
lượng, lương thực trên phạm vi toàn cầu.
Biến đổi khí hậu, ô nhiễm MTST trên thế giới bắt nguồn từ nhiều
nguyên nhân: sự chưa hoàn thiện của kỹ thuật, công nghệ khai thác, chế biến
TNTN; sự hiểu biết chưa đầy đủ của con người về MTST. Đặc biệt là do
trong các chính sách phát triển, các quốc gia thường chỉ chú trọng, ưu tiên cho
mục tiêu TTKT mà ít quan tâm tới mục tiêu bảo vệ MTST. Để bảo vệ MTST,
chống biến đổi khí hậu, việc làm có ý nghĩa tiên quyết mà các quốc gia cần
phải tiến hành là thiết lập hài hoà mối quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MTST.
Đây cùng là đòi hỏi tất yếu của công cuộc phát triển bền vững mà các quốc
gia đang theo đuổi trong thế kỷ XXI.
Cũng giống như nhiều quốc gia khác trên thế giới, ở Việt Nam, do tác
động của việc duy trì khá lâu mô hình phát triển theo chiều rộng, dựa chủ yếu
vào khai thác TNTN và các yếu tố MT, nên chất lượng MTST ở Việt Nam thời
gian qua suy giảm nhanh. Các hệ sinh thái tự nhiên bị thu hẹp diện tích, xuống
cấp về chất lượng, nhiều nguồn TNTN bị suy kiệt, dẫn tới nguy cơ không đảm
bảo nguồn cung… Tình trạng đó đã tác động tiêu cực lên các mặt đời sống KT -
XH, ảnh hưởng không nhỏ tới tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, đe dọa an
ninh lương thực, an ninh MT và sức khỏe cộng đồng, đe dọa nghiêm trọng tới
tiến trình PTBV ở Việt Nam.
Nhằm khắc phục những tiêu cực đó, trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh
CNH, HĐH, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành đổi mới mô hình phát
2
triển. Theo đó, mô hình “phát triển toàn diện” mà nội dung quan trọng là “phát
triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội và bảo vệ mội trường” [53, tr.162] đã ra đời. Nhờ thực hiện
mô hình này, nền kinh tế thị trường định hướng XHCH ở nước ta được hình
thành và có những bước đi khá vững chắc. Việt Nam được đánh giá là quốc gia
có nền kinh tế tăng trưởng cao trong khu vực.
Đặc biệt, những thành tựu mà TTKT đem lại đã giúp nước ta có được sự
tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Các vấn
đề xã hội như xóa đói, giảm nghèo, phát triển y tế, giáo dục, văn hóa… từng
bước được giải quyết. Tuy nhiên, không phải là không có những hạn chế trong
việc thực hiện mô hình phát triển mới. Trong hàng loạt các hạn chế, yếu kém thì
việc “quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên hiệu quả chưa cao, còn
lãng phí” [55, tr.166], “môi trường ở nhiều nơi tiếp tục bị xuống cấp, một số nơi
đã đến mức báo động” [55, tr.169] đã được Đảng và Nhà nước ta đánh giá là
một trong những hạn chế lớn nhất. Hạn chế này do nhiều nguyên nhân gây
ra, trong đó nguyên nhân chủ quan vẫn là chính. Tư duy coi trọng tăng
trưởng kinh tế, xem nhẹ bảo vệ môi trường vẫn còn phổ biến; phát triển
kinh tế vẫn còn theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào khai thác TNTN; nhiều
ngành, lĩnh vực sản xuất còn sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm MT
nghiêm trọng; gia tăng dân số, đô thị hóa nhanh đang gây áp lực lớn lên
MT. Trong khi đó, thể chế, chính sách về bảo vệ MT và PTBV vẫn chưa
theo kịp với yêu cầu phát triển KT - XH của đất nước. Hệ thống tổ chức
quản lý nhà nước vẫn còn nhiều bất cập, thiếu nhân lực, nhất là ở các địa
phương. Đầu tư của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân cho bảo vệ môi
trường chưa đáp ứng được yêu cầu. Khâu tổ chức thực hiện còn nhiều yếu
kém, còn thiếu cương quyết và chưa xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm
pháp luật bảo vệ môi trường.
Đảng và Nhà nước ta khẳng định, hạn chế nêu trên, nếu không được giải
quyết một cách thỏa đáng, sẽ không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực
3
hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, mà còn đe dọa nghiêm trọng tới sự tăng trưởng
của nền kinh tế, gây ra nhiều hiểm họa khôn lường cho đời sống của nhân dân.
Phát triển nhanh, bền vững là yêu cầu cấp thiết trong chiến lược phát
triển KT - XH của đất nước. Gắn TTKT với bảo vệ MTST trong thời gian tới
có ý nghĩa sống còn, là nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp. Đòi hỏi Nhà
nước ta phải đổi mới tư duy, đổi mới cách làm, phải tiếp tục củng cố chính
sách, công cụ pháp luật, đảm bảo thực hiện tốt công tác tổ chức, thực hiện
thanh tra, kiểm tra, giám sát quá trình quản lý kinh tế và quản lý TN - MT,
đầu tư tài chính cho công tác bảo vệ TN - MT, nâng cao nhận thức cho quần
chúng nhân dân về ý nghĩa của kết hợp TTKT với bảo vệ MTST…
Từ những phân tích trên đây cho thấy, việc nghiên cứu vai trò của nhà
nước đối với vấn đề bảo vệ MTST trong TTKT là rất cần thiết. Xuất phát từ
những lý do đó, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Vai trò của Nhà nước
trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
ở nước ta hiện nay” làm đề tài luận án tiến sỹ triết học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản về vai trò của nhà nước trong kết
hợp TTKT với bảo vệ MTST, luận án phân tích những vấn đề đặt ra đối với việc
nâng cao vai trò của Nhà nước ta trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST, qua đó,
đề xuất một số nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của Nhà nước trong
kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa TTKT với bảo vệ MTST và
những nội dung cơ bản thể hiện vai trò của nhà nước trong kết hợp TTKT với
bảo vệ MTST.
- Phân tích, đánh giá những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai trò
của Nhà nước trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam.
4
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của Nhà nước
trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu, tìm hiểu vai trò của nhà nước trong kết
hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận án làm rõ việc kết hợp TTKT với bảo vệ MTST dưới góc độ triết
học. Thông qua chức năng xã hội của nhà nước với tư cách là nhân tố quan
trọng trong kiến trúc thượng tầng; luận án đề xuất những nội dung cơ bản thể
hiện vai trò của Nhà nước ta trong việc kết hợp TTKT với bảo vệ MTST thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH từ năm 1996 đến nay ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh cùng các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta về phát triển KT - XH trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Trong
khi thực hiện, luận án còn kế thừa một số thành tựu của các công trình khoa
học có liên quan.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở những nguyên tắc phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp với
các phương pháp khác như: lôgic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, quy nạp -
diễn dịch, điều tra, thu thập thông tin, khảo sát, tra cứu, đối chiếu so sánh...
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án làm rõ được những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai trò
của Nhà nước trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
5
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước
ta trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
6. Ý nghĩa của luận án
- Luận án góp phần vào việc đưa ra những luận cứ khoa học để Đảng và
Nhà nước ta đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật đúng đắn,
nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MTST.
- Những vấn đề luận án đề cập và giải quyết sẽ góp phần nâng cao vai
trò của Nhà nước ta trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai việc kết hợp TTKT với
bảo vệ MTST.
- Luận án còn có thể làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên
cứu, giảng dạy và những người quan tâm đến lĩnh vực kết hợp TTKT với bảo
vệ MTST.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
1.1.1. Các nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là chủ đề được bàn luận khá nhiều trong thời gian
qua dưới các góc độ kinh tế, xã hội, môi trường…
Trên khía cạnh kinh tế học, khái niệm TTKT thường được hiểu theo
nhiều khía cạnh khác nhau: TTKT là mức tăng sản lượng thực tế (sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ) của một quốc gia theo một thời gian nhất định [58]; TTKT
là mở rộng quy mô sản xuất sản xuất quốc gia, tiềm năng của một nước, tiềm
năng hiện thực: việc mở rộng khả năng kinh tế để sản xuất [146]; TTKT là sự
tăng lên của sản lượng hàng hóa và dịch vụ trong một nước do sự tăng lên của
thu nhập quốc dân và sản phẩm bình quân đầu người [132]; TTKT là một khái
niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự gia tăng về quy mô sản lượng của nền
kinh tế trong một thời gian nhất định. Các chỉ tiêu để đánh giá TTKT thường
được sử dụng là tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân
(GNP), GDP và GNP bình quân đầu người cùng một số chỉ tiêu kinh tế tổng
hợp khác [127], [144].
Đi sâu hơn nữa về TTKT, nhiều công trình đã có những luận chứng sâu
sắc về quá trình TTKT ở Việt Nam, qua đó đề ra các giải pháp giúp nâng cao
tốc độ tăng trưởng cho nền kinh tế ở nước ta, tiêu biểu như các công trình sau:
Trong công trình “Các mô hình tăng trưởng kinh tế” của tác giả Trần
Thọ Đạt [57] và “Mô hình tăng trưởng kinh tế” của tác giả Trần Văn Tùng
[147] đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về các mô hình TTKT trên thế giới như:
Mô hình tăng trưởng trường phái Keynes, Harrod Domar, tăng trưởng tân cổ
điển mở rộng, tăng trưởng nội sinh. Các nghiên cứu này còn chỉ rõ những nội
dung cơ bản của các lý thuyết TTKT, lý thuyết TTKT dưới dạng các mô hình
7
toán học và tập trung phân tích quá trình tăng trưởng ở các khu vực, các quốc
gia trên thế giới và ở nước ta hiện nay. Về mô hình TTKT ở nước ta hiện nay,
các nghiên cứu đều khẳng định cho đến nay mô hình TTKT trong nước vẫn
tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào tăng quy mô tài sản cố định và
khai thác TNTN là chính. Mô hình này, ở phương diện tích cực đã đem lại
nhiều lợi thế để kinh tế đất nước tăng trưởng với tốc độ nhanh, song, mô hình
kinh tế đó còn để lại nhiều hạn chế, trong đó có hạn chế lớn nhất là làm cho
kinh tế tăng trưởng chưa thật sự bền vững.
Bài viết “Về chất lượng phát triển của Việt Nam thời kỳ 2000 - 2010”,
được biên soạn theo tài liệu của các cơ quan Trung ương, Tạp chí Lý luận
chính trị [148] đã khẳng định, “trong thời kỳ chiến lược 2001 - 2010, nước ta
đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định, ước tính tăng trưởng GDP
đạt khoảng 7,2%/năm. Việt Nam tiếp tục giữ vị trí là một trong những nước
có sự tăng trưởng nhanh so với các nước trong khu vực và trên thế giới” [148,
tr.48], “tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh có ý nghĩa rất quan trọng giúp nước ta
thoát khỏi tình trạng kém phát triển và bước vào thời kỳ mới, gia nhập nhóm
nước đang phát triển có thu nhập trung bình” [148, tr.48]. Tuy nhiên, bài báo
cũng khẳng định, nền kinh tế trong nước vẫn kéo dài tình trạng tăng trưởng chủ
yếu vào các yếu tố phát triển theo theo chiều rộng. TTKT trong những năm qua
nghiêng nhiều về yếu tố vốn hơn là yếu tố lao động. Bên cạnh đó, mức tiêu hao
năng lượng ở nước ta còn khá cao, năng lực cạnh tranh tổng thể của nền kinh tế
thấp; đặc biệt những hạn chế về lĩnh vực xã hội còn nhiều: chẳng hạn thành tựu
xóa đói, giảm nghèo chưa vững chắc, bất bình đẳng có xu hướng gia tăng giữa
các vùng và các tầng lớp dân cư, tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng, việc “quản
lý, bảo vệ tài nguyên còn buông lỏng; một số tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là
những tài nguyên không có khả năng tái tạo đang bị khai thác với công nghệ lạc
hậu, gây lãng phí và đứng trước nguy cơ cạn kiệt” [148, tr.54].
Tác giả Nguyễn Thị Doan trong bài viết “Một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta” [44] cho rằng, trong
8
những năm đổi mới, “so với các quốc gia, nước ta đứng vào hàng các quốc
gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và liên tục. Cùng với tăng trưởng kinh tế
cao, chất lượng tăng trưởng kinh tế cũng đang được cải thiện” [44, tr.61]. Tuy
nhiên, tác giả cũng nhấn mạnh, “tăng trưởng kinh tế của nước ta chủ yếu vẫn
theo bề rộng, dựa vào tăng quy mô tài sản cố định, tài nguyên thô và số lượng
lao động; cơ cấu kinh tế kém hiệu quả, năng suất lao động, chất lượng và sức
cạnh tranh thấp; các cân đối vĩ mô của nền kinh tế chưa thật vững chắc” [44,
tr.61]. Do đó, Việt Nam cần phải thay đổi mô hình TTKT từ tăng trưởng theo
bề rộng là chủ yếu sang tăng trưởng bền vững theo chiều sâu, TTKT phải dựa
trên nền tảng coi trọng chất lượng. Về lâu dài, cần triệt để chuyển từ tăng
trưởng nhờ tăng quy mô vốn đầu tư, khai thác TNTN và sức lao động sang
tăng trưởng dựa vào tri thức và công nghệ, giảm các ngành tiêu hao nhiều
năng lượng, TNTN, tăng các ngành sử dụng năng lượng sinh học, năng lượng
gió. Bên cạnh đó, cần có các giải pháp chiến lược như đẩy nhanh tốc độ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa lớn; GD, ĐT nguồn
nhân lực chất lượng cao; phát triển KH và CN để KH, CN trở thành động lực
phát triển đất nước, cần mạnh dạn đổi mới tư duy trong quản lý, điều hành,
điều tiết nền kinh tế của Nhà nước; tăng cường giám sát, kiểm tra việc sử
dụng vốn của Nhà nước và xử lý dứt điểm các kết luận sau thanh tra, kiểm tra.
Nghiên cứu dưới góc độ tăng trưởng bền vững, các tác giả Hoàng Đức
Thân, Đinh Quang Ty trong cuốn sách “Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công
bằng xã hội ở Việt Nam” [127]; tác giả Nguyễn Phú Trọng trong cuốn “Về
các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta” [144] đã đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa
TTKT với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như mối quan hệ giữa
TTKT với tiến bộ, công bằng xã hội, mối quan hệ giữa TTKT với phát triển
văn hoá, mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN, mối quan
hệ giữa TTKT với bảo vệ MT... Các tác giả cho rằng, đó là những mối quan
hệ cơ bản, phức tạp, có liên quan đến sự tồn vong của quốc gia dân tộc, đòi
9
hỏi Nhà nước ta phải có những biện pháp để giải quyết thỏa đáng. Trong nội
dung về mối quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MT, các tác giả khẳng định, ở
nước ta, kể từ khi đổi mới, kinh tế có sự tăng trưởng khá, song vấn đề MT lại
ngày một xuống cấp. Nhà nước cần phải có những chính sách, chiến lược hợp
lý để giải quyết dứt điểm tình trạng này.
Các tác giả Nguyễn Văn Nam, Trần Thọ Đạt trong nghiên cứu “Tốc độ
và chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” [102] đã hệ thống hóa những
vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến tốc độ, chất lượng TTKT ở Việt
Nam. Qua việc phân tích thực trạng, chất lượng TTKT ở nước ta giai đoạn
cuối thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI, các tác giả cho rằng, những yếu tố thể
hiện chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta là: tổng giá trị sản xuất,
tổng sản phẩm quốc nội, tổng thu nhập quốc dân, thu nhập bình quân đầu
người và một số các tiêu chí định tính khác như: xóa đói giảm nghèo, phúc lợi
xã hội, công bằng xã hội, môi trường môi sinh. Cũng trong cuốn sách này, các
tác giả đã chỉ ra và phân tích những giải pháp cơ bản để thúc đẩy kinh tế Việt
Nam tăng trưởng đạt chất lượng và hiệu quả cao.
Như vậy, qua nghiên cứu một số công trình khoa học về TTKT, cho
thấy, nhìn chung, các nghiên cứu đều tập trung làm rõ nội hàm của khái niệm
TTKT, chỉ ra các mô hình TTKT khác nhau trên thế giới và mô hình kinh tế mà
Việt Nam đang theo đuổi. Các nghiên cứu còn làm rõ các nhân tố ảnh hưởng
đến quy mô TTKT trên thế giới và ở Việt Nam, vạch ra các giải pháp cơ bản
nhằm thúc đẩy quá trình TTKT ở nước ta giai đoạn CNH, HĐH đất nước.
1.1.2. Các nghiên cứu về môi trường sinh thái, về bảo vệ môi
trường sinh thái
Môi trường sinh thái là một trong những vấn đề được đề cập đến khá
nhiều trong thời gian qua ở nước ta trên các bình diện khác nhau.
Dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc bảo
vệ MTST. Nhằm bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng, đảm bảo quyền con người
10
được sống trong MT trong, sạch, đẹp, phục vụ sự nghiệp PTBV đất nước,
Đảng và Nhà nước đã ra nhiều văn bản luật, dưới luật, các chỉ thị, nghị quyết
về MTST và bảo vệ MTST. Trong một loạt các văn bản quy phạm pháp luật
như “Luật Bảo vệ môi trường và văn bản hướng dẫn thi hành”; “ Luật Bảo vệ
môi trường năm 2005”; “Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia”… Đảng và
Nhà nước ta đã khẳng định nhiều nội dung quan trọng về MTST cũng như
bảo vệ MTST. Theo đó, bảo vệ MTST được quan niệm là bảo vệ các yếu tố tự
nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống,
sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và các giống loài động thực vật.
Thực chất của bảo vệ MTST là bảo vệ MT nước, MT không khí, bảo vệ
TNTN, bảo tồn đa dạng sinh học… [20], [27], [31], [33], [111], [113], [105].
Tác giả Nguyễn Minh Hằng trong bài viết “Môi trường sinh thái - vấn
đề của mọi người” [62] khẳng định, MTST là một mạng lưới chỉnh thể có
mối liên quan chặt chẽ với nhau giữa đất, nước, không khí và các cơ thể sống
trong phạm vi toàn cầu. Trong quá trình sinh sống vì nhiều lý do khác nhau,
con người đã làm suy thoái MTST, thể hiện rõ nhất ở sự suy thoái tầng ôzon,
gây “hiệu ứng nhà kính”, ô nhiễm nguồn nước sạch. Các giải pháp cơ bản mà
tác giả nêu ra nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm MTST là: xây dựng ý thức
sinh thái, kết hợp giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu sinh thái trong quá trình
sản xuất…
Tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm trong bài viết “Khía cạnh triết học - xã
hội của vấn đề môi trường sinh thái ở Việt Nam” [138] cho rằng, MTST hay
MT sống vốn là MT tự nhiên, là đối tượng nghiên cứu của khoa học tự nhiên,
trực tiếp là của sinh thái học - sinh học. Nói đến MTST là nói đến môi trường
tự nhiên - xã hội hay môi trường sinh thái - nhân văn và thực chất vấn đề
MTST là vấn đề về mối quan hệ giữa con người - xã hội - tự nhiên. Theo tác
giả, cùng với sự phát triển của xã hội, dưới tác động của con người, MTST
đang ngày càng biến đổi theo chiều hướng xấu. Do vậy, để bảo vệ MTST, cần
phải có sự thay đổi cơ bản trong quan niệm về sự phát triển, thay đổi quan
11
niệm về tự nhiên, về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên; đồng thời kết
hợp với việc ngăn chặn, loại bỏ các tệ nạn trong xã hội; đưa vấn đề giáo dục
MT trở thành một nội dung quan trọng trong GD và ĐT.
Tác giả Nguyễn Văn Kim trong bài viết “Mối quan hệ giữa phát triển
và bảo vệ môi trường - kinh nghiệm của Nhật Bản” [80] lại khẳng định, chính
con người là tác nhân chủ yếu gây ra tình trạng ô nhiễm MT, làm mất cân
bằng sinh thái. Phân tích sự phát triển kinh tế của Nhật Bản trong những năm
đầu thế kỷ XX có ảnh hưởng tới MTST, tác giả cho rằng, sự tập trung quá
mức các ngành sản xuất và dân cư vào những khu vực địa lý nhất định đã dẫn
đến tình trạng mất cân bằng sinh thái và ô nhiễm MT sống. Từ đây, tác giả
đưa ra một số kinh nghiệm của Nhật Bản trong bảo vệ MT và phát triển kinh
tế như luật hóa các chính sách về MT, động viên nhân dân tham gia bảo vệ
MT, có lối sống hòa hợp với nhiên nhiên. Cũng trong bài viết này, tác giả còn
khẳng định, Việt Nam nên coi kinh nghiệm của Nhật Bản như một bài học để
phát triển kinh tế và bảo vệ MT bền vững.
Tác giả Đỗ Huy trong bài viết “Giáo dục đạo đức sinh thái và xây
dựng môi trường văn hoá trong lịch trình thế kỷ XXI” [74] đã làm rõ vai trò
vô cùng quan trọng của MTST trong quá trình phát triển kinh tế. Theo tác giả,
do nhu cầu tăng năng suất lao động người ta đã từng coi việc khai thác vô hạn
độ MT là hành động tích cực. Kết quả là có nhà máy, công trường, có thêm
việc làm cho người lao động, song, các giá trị văn hoá bị xuống cấp, sức khoẻ
con người giảm sút thì lại không được chú ý thích đáng. Theo tác giả bài viết thì
giá trị của hệ sinh thái có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống con người, các giá trị này
tuy “im lặng” nhưng nếu con người lạm dụng quyền lực của mình, tác động thô
bạo vào chúng thì cái giá phải trả là rất lớn. Do đó, tác giả khẳng định, việc giáo
dục đạo đức sinh thái là rất cần thiết để MT và con người phát triển một cách
hài hoà.
Đi sâu nghiên cứu về đạo đức sinh thái, tác giả Phan Thị Hồng Duyên
trong bài viết “Giáo dục đạo đức sinh thái vì sự phát triển bền vững cho con
12
người và giới tự nhiên” [46] lại thể hiện sự bức xúc về vấn đề MT và bảo vệ
MT hiện nay ở nước ta. Theo tác giả, Việt Nam cần thiết phải PTBV, nghĩa là
phải tạo ra sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ MT. Tác giả cũng
cho rằng việc bảo vệ MT để nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển KT -
XH không thể chỉ bằng những văn bản, chỉ thị mà giáo dục đạo đức sinh thái
cũng là một trong những biện pháp có tác dụng lâu dài và quan trọng. Giáo
dục đạo đức sinh thái phải được tiến hành từ tuổi ấu thơ tới tuổi trưởng thành,
với mọi đối tượng từ những người dân, đến những người làm công tác lãnh
đạo, quản lý, hoạch định đường lối, chiến lược phát triển KT - XH của đất
nước. Quan niệm này hoàn toàn đúng và có ý nghĩa quan trọng đối với sự
phát triển của đất nước ta trong cả hiện nay lẫn mai sau.
Tác giả Vũ Trọng Dung trong cuốn sách “Đạo đức sinh thái và giáo
dục đạo đức sinh thái” [45] quan niệm “môi trường sinh thái là tất cả những
điều kiện xung quanh có liên quan đến sự sống của sinh thể, của con người”
[45, tr.153]. Theo tác giả thì các nguyên nhân cơ bản gây ra tình trạng ô
nhiễm MTST là các vấn đề về công nghiệp hóa, kỹ thuật hóa, sự phát triển
dân số… Không chỉ nhấn mạnh một phương diện quan trọng trong việc giải
quyết vấn đề ô nhiễm MTST đó là giáo dục đạo đức sinh thái, tức là giáo dục
thái độ, ý thức, hành vi tôn trọng và yêu quý thiên nhiên, giữ gìn và bảo vệ
MTST cho mọi chủ thể, tác giả còn khẳng định sự thống nhất giữa nghĩa vụ
đạo đức với nghĩa vụ pháp lý trong việc giữ gìn và bảo vệ MTST là đòi hỏi
cấp bách đối với mỗi người và đó cũng là giải pháp cơ bản để giải quyết vấn
đề ô nhiễm MTST ở Việt Nam hiện nay.
Tác giả Nguyễn Danh Sơn trong bài viết “Một số vấn đề về bảo vệ tài
nguyên và môi trường trong bối cảnh biến đổi khí hậu ở nước ta” [71] nhấn
mạnh, tài nguyên và MT là một yếu tố nền tảng của PTBV. Nguy cơ suy
giảm, cạn kiệt tài nguyên, suy thoái MT đang hiện hữu và đe dọa đến tiến
trình PTBV của nước ta. Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của
biến đổi khí hậu mà một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do
13
nạn cạn kiệt TNTN. Do đó, các quyết định phát triển và quản lý phát triển
trong thời gian tới ở nước ta cần phải tính đến tác động của biến đổi khí hậu.
Để thực hiện việc này, cần thiết phải bảo vệ TN - MT, cần hướng quá trình
phát triển vào việc tăng trưởng xanh, phát triển xanh.
Như vậy, thông qua nghiên cứu các công trình khoa học trên, có thể
thấy, MTST là tổng hợp các yếu tố vật chất tự nhiên và các loại TNTN, chúng
giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế. Do vậy, việc bảo vệ
MTST là hết sức quan trọng. Bảo vệ MTST là bảo vệ các yếu tố tự nhiên và
các loại TNTN. Bảo vệ MTST không những tạo điều kiện cho kinh tế tăng
trưởng ngày một bền vững hơn, mà còn giúp cho con người ngày một tiếp cận
với cuộc sống văn minh hơn, tốt đẹp hơn.
1.1.3. Các nghiên cứu về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ
môi trường sinh thái
Ở Việt Nam, trong những năm qua, vấn đề về phòng chống ô nhiễm
MTST, khai thác bền vững nguồn TNTN, gắn TTKT với bảo vệ MTST cùng
nhiều vấn đề liên quan đã trở thành nội dung quan trọng trong các chiến lược,
các hội nghị, hội thảo về phát triển, các công trình nghiên cứu khoa học của
nhiều cấp bộ, ngành từ trung ương đến địa phương.
Trong các Chiến lược quan trọng ban hành từ năm 2010 đến nay như:
“Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020” [20]; “Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020”
[27]; “Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” [30];
“Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu” [31]; “Chiến lược Bảo vệ môi
trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” [33]; “Chiến lược
phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020” [34]; “Chiến lược quốc
gia về tăng trưởng xanh” [35]… Chính phủ Việt Nam đã nhấn mạnh tới PTBV
như là sự gắn kết chặt chẽ giữa TTKT với bảo vệ MTST. Tất cả các Chiến lược
đã có đều khẳng định PTBV trên khía cạnh gắn TTKT với bảo vệ MTST là nội
dung hết sức quan trọng trong quá trình phát triển KT - XH ở nước ta thời kỳ
14
đẩy mạnh CNH, HĐH. Nội dung này phải được coi là sự nghiệp của toàn
Đảng, toàn dân; toàn thể các bộ, ngành, các cấp chính quyền từ trung ương đến
địa phương cũng như mọi doanh nghiệp, mọi tổ chức xã hội.
Những năm gần đây, còn có khá nhiều hội nghị, hội thảo khoa học quốc
tế và trong nước bàn luận khá sôi nổi về vấn đề gắn TTKT với bảo vệ MTST,
về PTBV như: “Hội nghị quốc tế Động thái dân số, biến đổi khí hậu và phát
triển bền vững” [15]; Hội thảo “Toàn cầu hoá và ảnh hưởng đối với khu vực
châu Á - Thái Bình Dương: khía cạnh kinh tế, xã hội và văn hoá” [65]; “Hội
nghị cấp cao ASEAN lần thứ 23” [66]; Hội thảo “Xây dựng và phát triển bền
vững” [72], Hội thảo “Phát triển năng lượng bền vững” [149]... Các hội
nghị, hội thảo này đã đề cập tới nhiều vấn đề quan trọng của PTBV và gắn
TTKT với bảo vệ MTST ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Các
vấn đề như: tình hình, thách thức đang đặt ra hiện nay cho tiến trình PTBV
chung của thế giới trong đó có Việt Nam; nỗ lực và tăng cường ý nguyện chính
trị của cộng đồng quốc tế để cùng nhau xây dựng cương lĩnh hành động, thực
hiện các cam kết, giải quyết những vấn đề cấp thiết của các nước đang phát triển
nhằm thúc đẩy toàn diện tiến trình PTBV của thế giới; xem xét, giải quyết các
hoạt động xây dựng trong sự PTBV về kinh tế, xã hội, môi trường; đánh giá tổng
quát về tình hình năng lượng tại Việt Nam, chỉ ra những thách thức mà Việt
Nam đang phải đối mặt như: khai thác đa dạng và hiệu quả các nguồn tự nhiên
trong nước, phát triển các dự án mới, phát triển năng lượng đi kèm với bảo vệ
MT, thành lập thị trường công nghệ cạnh tranh, thúc đẩy chương trình năng
lượng nông thôn... được bàn luận khá sôi nổi tại các hội thảo này.
Phát triển bền vững, gắn TTKT với bảo vệ MTST còn là chủ đề của
nhiều bài viết và công trình nghiên cứu khoa học theo các hướng khác nhau
của các tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm, Nguyễn Văn Kim, Chu Thái Thành,
Trương Mạnh Tiến, Bùi Văn Dũng…
Trong rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí như:“Sự kết hợp giữa các
mục tiêu kinh tế và sinh thái trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
15
[136]; “Khía cạnh triết học - xã hội của vấn đề môi trường sinh thái ở Việt
Nam” [138]; “Về cách tiếp cận triết học - xã hội đối với hiện trạng môi trường
sinh thái nhân văn ở Việt Nam: các vấn đề, nguyên nhân và giải pháp” [139];
“Xây dựng đạo đức sinh thái - một trách nhiệm của con người đối với tự nhiên”
[142]… tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm đã đề cập tới nhiều phương diện khác
nhau của vấn đề bảo vệ MTST. Theo tác giả, nói đến MTST là nói đến môi
trường tự nhiên - xã hội hay môi trường sinh thái - nhân văn; thực chất của vấn
đề MTST là vấn đề về mối quan hệ giữa con người - xã hội - tự nhiên. Khi
nghiên cứu về mục tiêu kinh tế và mục tiêu sinh thái, tác giả khẳng định, mục
tiêu sinh thái là sự khai thác hợp lý các nguồn TNTN, bảo vệ và không ngừng
cải thiện chất lượng môi trường sống. Trên cơ sở luận giải về sự tác động qua lại
giữa con người và tự nhiên, tác giả đề cập một cách sâu sắc tới sự tác động của
quá trình TTKT đối với MTST, qua đó khẳng định rằng, để gắn kết TTKT với
bảo vệ MTST, cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp khác nhau như sử dụng
cơ chế lợi ích, xây dựng các chính sách xã hội về bảo vệ môi trường, đổi mới
công nghệ để khai thác, sử dụng hợp lý TNTN, bảo vệ MTST…
Tác giả Nguyễn Đình Hòa trong bài viết “Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay: khía cạnh môi trường sống”
[67] khẳng định, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận, một nội
dung quan trọng của tiến trình hiện đại hóa ở các nước đang phát triển. Ở
nước ta các vấn đề về MT sống nảy sinh trong quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn hiện nay đang trở nên phức tạp cả về quy mô và tính chất.
Nguy cơ cạn kiệt một số nguồn TNTN do các hoạt động sản xuất và dân sinh,
vấn đề ô nhiễm MT do tác động của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn; nguy cơ suy giảm đa dạng sinh học chủ yếu do các hoạt động sản xuất
và dân sinh… phải được coi là những vấn đề cấp bách và phải có những biện
pháp khắc phục. Các biện pháp được tác giả đưa ra nhằm PTBV khu vực
nông nghiệp, nông thôn trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay là:
Phát triển, ứng dụng KH và CN cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn; phát
16
triển nguồn nhân lực chất lượng cao; quán triệt mục tiêu bảo vệ MT trong xây
dựng, triển khai thực hiện các chính sách, dự án phát triển kinh tế.
Tác giả Trần Đắc Hiến trong bài viết“Ô nhiễm môi trường ở nước ta
hiện nay - Thực trạng và một số giải pháp khắc phục” [64] cho rằng, một
trong những vấn đề gây bức xúc dư luận trong thời gian qua là ô nhiễm MT.
Nguyên nhân của tình trạng này được khẳng định là do các hoạt động sản xuất
và sinh hoạt của con người như nước, chất thải của các khu công nghiệp, các
làng nghề, các khu đô thị đổ trực tiếp ra MT. Trên cơ sở đó, tác giả kết luận:
các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cần phải có
những điều chỉnh kịp thời theo hướng chú trọng công tác bảo vệ MT; công tác
tuyên truyền, vận động, giáo dục nhân dân bảo vệ MT và thực hiện điều chỉnh
quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, làng nghề… phải được coi là các
giải pháp chủ đạo để giải quyết vấn nạn ô nhiễm môi trường ở nước ta trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
Tác giả Chu Thái Thành trong bài viết “Mấy vấn đề về phát triển bền
vững” [124], xuất phát từ khía cạnh PTBV trên cơ sở kết hợp giữa TTKT với
bảo vệ MTST, tác giả đã coi phát triển kinh tế, dân số, TNTN và bảo vệ
MTST là bốn trụ cột của một căn nhà. Tác giả khẳng định phát triển kinh tế
phải gắn với bảo vệ MTST, đó là đòi hỏi tất yếu khách quan của PTBV và sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước. Một số giải pháp cho vấn đề PTBV được tác giả
đề cập tới trong bài viết này là: thực hiện chiến lược quốc gia về tài nguyên
MT; thực hiện các dự án về cải tạo, bảo vệ TN - MT, giữ gìn đa dạng sinh
học; chấm dứt tình trạng làm suy thoái tài nguyên, quy hoạch cơ cấu sản xuất
để đảm bảo gắn TTKT với bảo vệ MTST.
Ngoài các bài viết dưới dạng tạp chí, còn có nhiều công trình nghiên
cứu chuyên sâu về mối quan hệ giữa TTKT với bảo vệ MTST. Dưới đây là
một trong số các công trình đó.
Luận án tiến sỹ khoa học kinh tế với tiêu đề “Sự phát triển của thương
mại tự do trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay với vấn đề
17
bảo vệ môi trường sinh thái” của tác giả Trương Mạnh Tiến [131]. Các vấn
đề được tác giả đề cập trong luận án là:
Xuất phát từ mục đích, đối tượng và phù hợp với chuyên ngành kinh tế
học, tác giả đã luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về tự do thương mại và
bảo vệ MTST ở nước ta. Thông qua nghiên cứu về nền kinh tế thị trường và
quá trình tự do hoá thương mại, tác giả phân tích liên kết xã hội - kinh tế -
môi trường sinh thái và chỉ ra rằng quá trình TTKT chỉ có thể đạt được khi có
sự bền vững về MTST. Theo tác giả, con đường khả thi duy nhất để TTKT
lâu bền là cân bằng các nguồn lực kinh tế, sinh thái, con người.
Trên cơ sở đánh giá những hậu quả về mặt MT của các chính sách kinh
tế như tự do hoá thương mại gây ra. Tác giả Trương Mạnh Tiến cho rằng, quy
mô hoạt động thương mại tăng, sẽ dẫn đến việc sử dụng các nguồn TNTN và
ô nhiễm MTST cũng tăng theo. Trong khi khẳng định bảo vệ MTST “được
hiểu là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện
môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả
xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử dụng
hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên” [131, tr. 40], tác giả đồng thời
nhấn mạnh tự do hoá thương mại và bảo vệ MTST phải được thừa nhận như
một tất yếu khách quan nhằm đảm bảo thúc đẩy kinh tế tăng trưởng qua hoạt
động tự do hoá thương mại và bảo vệ nguồn vốn đầu vào cho quá trình tăng
trưởng đó.
Nghiên cứu của tác giả Trương Mạnh Tiến cũng chỉ ra những ảnh
hưởng của quá trình phát triển tự do thương mại tới MTST trong thời kỳ
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở nước ta. Sau khi phân tích thực trạng
nền kinh tế và hoạt động thương mại, cùng với thực trạng MTST ở nước ta,
tác giả đã rút ra kết luận, sự phát triển tự do thương mại trong điều kiện kinh
tế thị trường ở nước ta có ảnh hưởng rõ rệt tới MTST. Các hoạt động tự do
hoá thương mại như nhập rác thải công nghiệp, xuất khẩu gỗ, thuỷ hải sản…
đã để lại nhiều hậu quả về MTST. Nhu cầu sử dụng chất đốt, năng lượng,
18
nguyên liệu cho các ngành công nghiệp gia tăng đều là nguyên nhân chính
làm cho MTST bị ô nhiễm, TNTN bị khai thác triệt để.
Từ các nội dung trên, tác giả Trương Mạnh Tiến đã chỉ ra các mục tiêu,
chiến lược phát triển thương mại đến năm 2010, nêu lên các giải pháp cơ bản
để bảo vệ MTST trong điều kiện tự do hoá thương mại ở nước ta như: Hoàn
thiện cơ chế quản lý và chính sách nhà nước ở tầm vĩ mô; hoàn thiện cơ chế
quản lý, chính sách và biện pháp về MT và thương mại; thành lập hội đồng
doanh nghiệp vì sự PTBV; củng cố bộ máy tổ chức bảo vệ MT ở trung ương và
địa phương; đẩy mạnh công tác GD, ĐT, bảo vệ môi trường…
Luận án tiến sỹ triết học “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo
vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền” [47], tác giả Bùi Văn Dũng đã luận
giải sâu sắc các vấn đề sau:
Ở nội dung nghiên cứu thứ nhất: “Tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi
trường sinh thái” [47, tr.11], tác giả Bùi Văn Dũng đã nêu ra và so sánh hai
khái niệm TTKT, phát triển kinh tế. Từ đó, đi tới kết luận, các nhân tố quyết
định tới sự TTKT là: số lượng, chất lượng nguồn nhân lực; số lượng, chất
lượng nguồn tài nguyên; mức độ tích luỹ vốn và sự đổi mới công nghệ.
Nội dung nghiên cứu thứ hai của tác giả Bùi Văn Dũng là: “phát triển
lâu bền: sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường” [47,
tr.48], tác giả đã chứng minh phát triển lâu bền là sự thống nhất giữa TTKT
với bảo vệ môi trường. Qua việc làm rõ mâu thuẫn giữa TTKT và bảo vệ MT,
tác giả khẳng định hệ thống “tự nhiên - con người - xã hội” vốn có sự gắn bó
mật thiết với nhau trong một chỉnh thể, song lại có sự khác nhau qua từng giai
đoạn. Ở thời kỳ đầu trong sự phát triển của nền văn minh loài người, các lực
lượng tự nhiên gần như thống trị con người, sau đó, do sự phát triển của công
cụ lao động con người đã học cách chế ngự tự nhiên, thiết lập “sự thống trị”
của mình đối với tự nhiên, làm xuất hiện mâu thuẫn giữa con người và tự
nhiên, biểu hiện cụ thể của mâu thuẫn này trong nền sản xuất vật chất là mâu
thuẫn giữa TTKT với bảo vệ MT. Để giải quyết mâu thuẫn giữa TTKT với
19
bảo vệ MT cho sự phát triển lâu bền, tác giả đưa ra năm giải pháp cơ bản, đó
là: thay đổi thái độ và hành động của con người; duy trì tỷ lệ tăng dân số một
cách hợp lý; xoá bỏ nghèo nàn; mở rộng cách mạng KH và CN vào sản xuất;
hoà bình và hợp tác toàn cầu; xoá bỏ chế độ người áp bức bóc lột người.
Nội dung thứ ba mà tác giả Bùi Văn Dũng nghiên cứu là “Mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền” [47,
tr.107]. Trong nội dung này, tác giả đã vạch rõ những thuận lợi và khó khăn
cho sự phát triển lâu bền ở Việt Nam. Về thuận lợi, tác giả cho rằng đó là: sự
tăng trưởng nhanh của nền kinh tế từ khi đổi mới, nguồn nhân lực dồi dào…
Còn về khó khăn, thách thức, theo tác giả đó là điều kiện cạnh tranh gay gắt
trên thế giới, yêu cầu về thể chế kinh tế, về phát triển nhanh và bền vững…
Luận án còn đưa ra một số giải pháp có ý nghĩa quan trọng để nước ta có thể
kết hợp tốt TTKT với bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Các giải pháp đó là: thống nhất quan điểm về sự
phát triển, xây dựng đồng bộ hệ thống chính sách và pháp luật bảo vệ môi
trường; thực hiện tốt chính sách dân số; đổi mới công nghệ và giải pháp về
giáo dục, tuyên truyền ý thức bảo vệ môi trường cho quần chúng nhân dân.
Như vậy, qua khảo sát các công trình khoa học trên, có thể rút ra các
nội dung cơ bản đã được các nhà khoa học nghiên cứu, giải quyết là:
Các công trình nghiên cứu đã có các hiểu đồng nhất về khái niệm
MTST. Trong các công trình trên, khái niệm MTST còn được hiểu là môi
trường tự nhiên, môi trường sinh thái - nhân văn. Một số tác giả còn đồng
nhất MTST với khái niệm môi trường.
Các công trình nghiên cứu đều khẳng định hoạt động sản xuất vật chất,
sinh hoạt và các hoạt động nhằm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng là nguyên nhân
cơ bản dẫn đến tình trạng ô nhiễm MTST và cạn kiệt các nguồn TNTN.
Các công trình nghiên cứu đã tập trung phân tích và đưa ra một số giải
pháp cơ bản để có thể kết hợp một cách tốt nhất TTKT với bảo vệ MTST.
Giải pháp mà các công trình nghiên cứu hướng vào là hoàn thiện cơ chế chính
20
sách, pháp luật về TTKT và về bảo vệ MTST; giải pháp về nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực; giải pháp về phát triển KH và CN; giải pháp về giáo
dục ý thức đạo đức sinh thái cho nhân dân, đặc biệt là các chủ doanh nghiệp.
Những vấn đề trên là những gợi mở quan trọng để luận án nghiên cứu về
các khái niệm TTKT, khái niệm MTST, bảo vệ MTST. Kết quả nghiên cứu của
các công trình trên còn là cơ sở để luận án đi sâu phân tích về mối quan hệ biện
chứng giữa TTKT với bảo vệ MTST dựa trên cách tiếp cận triết học.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
1.2.1. Các nghiên cứu về vai trò của nhà nước đối với tăng trưởng
kinh tế
Có thể khẳng định, nghiên cứu về vai trò của nhà nước đối với TTKT là
một trong những hướng nghiên cứu thu hút được sự quan tâm của khá nhiều
nhà khoa học trong những năm gần đây. Điều đó thể hiện ở số lượng ngày càng
nhiều bài viết đăng trên các tạp chí, các công trình nghiên cứu luận văn thạc sỹ,
luận án tiến sỹ, các loại sách tham khảo, chuyên khảo dưới góc độ nhiều
chuyên ngành khác nhau như triết học, kinh tế học, kinh tế chính trị học... Cụ thể
là các công trình sau: “Về chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Hậu [63]; “Vai trò định hướng xã hội chủ
nghĩa của nhà nước đối với phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay” của tác
giả Lê Thị Hồng [69]; “Vai trò của Nhà nước đối với hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam” của tác giả Mai Lan Hương [76]; “Vai trò nhà nước đối với
việc xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay” của tác giả Trần Thị Thu Hường [78]; “Quản lý nhà
nước về kinh tế ở nước ta hiện nay” của tác giả Ngô Quang Minh [101]; “Thể
chế kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc
tế ở Việt Nam” của hai tác giả Lương Xuân Quỳ và Đỗ Đức Bình [121]; “Vai
trò của nhân tố chủ quan trong việc định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển
21
nền kinh tế ở nước ta hiện nay” của tác giả Trần Thành [125]; “Về vai trò của
nhà nước trong nền kinh tế thị trường” của tác giả Lê Nguyễn Hương Trinh
[143]; “Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” của tác giả Nguyễn Phú Trọng [144]…
Nghiên cứu các các công trình này, tác giả luận án rút ra những kết luận sau:
Các khái niệm về TTKT, kinh tế thị trường, toàn cầu hoá kinh tế, hội
nhập kinh tế quốc tế… đã được nhiều công trình nghiên cứu đặt ra và giải
quyết một cách công phu, nghiêm túc. Mặc dù các công trình đã tiếp cận khái
niệm TTKT theo nhiều hướng khác nhau, song, nhìn chung đều thống nhất ở
nội dung: TTKT và phát triển kinh tế là hai khái niệm không đồng nhất với
nhau. TTKT và phát triển kinh tế luôn gắn liền với việc phát huy vai trò của
nhà nước nhằm hoàn thiện cơ cấu kinh tế, thể chế kinh tế và nâng cao chất
lượng cuộc sống [63], [69], [78], [101], [121], [125], [143], [144]…
Các nghiên cứu đã tập trung làm rõ sự thay đổi vai trò của Nhà nước ta
từ khi đất nước thực hiện đổi mới mô hình phát triển kinh tế. Nền kinh tế thị
trường luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm xây dựng, hoàn thiện
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế, vai trò, chức năng quản lý của nhà
nước ngày càng được điều chỉnh theo xu thế phát triển [63], [69], [76], [78]…
Tác giả Nguyễn Phú Trọng khẳng định, việc nhà nước quản lý nền kinh tế thị
trường, không những hướng tới mục đích hạn chế các khuyết tật của kinh tế thị
trường, mà còn duy trì sự ổn định để kinh tế thị trường hoạt động và phát triển.
Ngày nay, có nhiều mô hình kinh tế thị trường khác nhau trên thế giới, mặc dù
mức độ và hình thức can thiệp của nhà nước vào các mô hình kinh tế có khác
nhau, nhưng đều là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước [144].
Các nghiên cứu còn khẳng định, nhà nước có tác động lớn tới TTKT.
Thông qua các thể chế kinh tế, nhà nước đã tạo ra một hành lang pháp lý, một
sân chơi ngày càng bình đẳng cho các chủ thể kinh tế tham gia thị trường,
thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khơi
dậy các tiềm năng, sức sáng tạo của các nguồn lực vào phát triển kinh tế, tạo
22
ra các thành tựu to lớn về TTKT. Các tác giả quả quyết, nhờ có vai trò kinh tế
của nhà nước mà nền kinh tế nước ta đã có sự tăng trưởng nổi bật, GDP
không ngừng nâng cao, cơ cấu lao động có sự chuyển dịch theo hướng tích
cực, các cân đối vĩ mô của nền kinh tế cơ bản được giữ ổn định, tạo môi
trường và điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, cũng không
phải là không có những hạn chế trong việc thực hiện vai trò quản lý kinh tế
của nhà nước [69], [76], [78], [121], [122]…
Một số nghiên cứu còn cho thấy, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc
tế là một xu thế khách quan và điều đó dẫn đến hầu hết mọi nền kinh tế tham
gia vào guồng quay của nó. Việt Nam đã hội nhập với kinh tế thế giới, do đó,
không thể thiếu bàn tay can thiệp của nhà nước. Để nâng cao vai trò nhà nước
trong hội nhập kinh tế quốc tế, các công trình đều cho rằng Nhà nước cần
thực hiện tốt các giải pháp: tiếp tục triển khai chủ trương đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ quốc tế, hội nhập sâu và đầy đủ hơn với kinh tế quốc tế; đẩy
mạnh tăng cường thu hút vốn đầu tư; hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp
với những cam kết quốc tế; tiếp tục đổi mới phương thức và chức năng quản
lý kinh tế của nhà nước phù hợp với các nguyên tắc quốc tế…[76], [78].
Các nghiên cứu còn chỉ ra rằng so với yêu cầu phát triển của đất nước
trong bối cảnh mới, bên cạnh ưu điểm, vai trò của nhà nước trong điều tiết
nền kinh tế còn bộc lộ nhiều yếu kém. Chẳng hạn, hệ thống luật pháp còn
thiếu và chưa đồng bộ so với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường; một số
chính sách ban hành chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa mục tiêu kinh tế với
các mục tiêu bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ MTST; sự quản lý của nhà
nước ở các thị trường vốn, thị trường sức lao động, thị trường KH và CN…
còn lúng túng, thiếu tính chuyên nghiệp. Đó được coi là những nguyên nhân
cơ bản làm cho kinh tế tăng trưởng chưa vững chắc, cơ cấu kinh tế chuyển
dịch chưa hợp lý, sự phát triển thiếu tính bền vững: hiệu quả sử dụng vốn
thấp, tình trạng khai thác cạn kiệt tài nguyên và gây ô nhiễm MTST vẫn còn
phổ biến, sự phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng trong xã hội gia tăng [63],
[69], [76], [78], [121], [122], [126], [141]…
23
Từ việc phân tích các ưu, khuyết điểm trong năng lực quản lý kinh tế của
nhà nước, các nghiên cứu đã đưa ra các giải pháp khác nhau nhằm thúc đẩy
hiệu lực, hiệu quả vai trò của nhà nước trong tổ chức điều hành nền kinh tế.
Các giải pháp đó phần lớn tập trung vào vấn đề tiếp tục đổi mới tư duy, nhận
thức về nền kinh tế thị trường thời kỳ hội nhập; hoàn thiện hệ thống pháp luật,
chính sách kinh tế đồng bộ, phù hợp với cơ chế thị trường; cải cách, hoàn thiện
thể chế hành chính… [63], [68], [69], [102], [121], [126], [141]…
1.2.2. Các nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong bảo vệ môi
trường sinh thái
Do vị trí, tầm quan trọng đặc biệt của MTST đối với nền sản xuất xã
hội và với sức khoẻ của con người nên vấn đề bảo vệ MTST và vai trò của
nhà nước trong việc bảo vệ MTST đã trở thành đối tượng nghiên cứu của
nhiều chuyên ngành với phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Dưới dạng các bài báo
có: “Vai trò của nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ môi trường” của tác giả
Lê Thị Thanh Hà [59]; “Từ cảnh báo của Ăngghen về thảm hoạ thiên nhiên
nghĩ về vai trò của nhà nước đối với bảo vệ môi trường sinh thái” của tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Lan [81]; “Quản lý, bảo vệ môi trường - hiện trạng và giải
pháp” của tác giả Trần Thanh Lâm [83]; “Vấn đề quản lý nhà nước về bảo vệ
môi trường trong dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi)” của tác giả Phạm
Hữu Nghị [104]...
Ở cấp độ rộng hơn, có các nghiên cứu dưới dạng sách tham khảo, chuyên
khảo, luận án: “Những tác động của yếu tố văn hoá - xã hội trong quản lý nhà
nước đối với tài nguyên - môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” của tác giả Hoàng Hữu Bình [5]; “Nhà nước Việt Nam đối với vấn đề bảo
vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn” của tác giả Lê Thị Thanh Hà [60]; “Chủ động ứng phó với biến đổi khí
hậu, đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn”, của Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương [71];
“Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế” của tác giả Trần Thanh Lâm [84];
24
“Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường” của hai tác giả Nguyễn
Thị Thơm và tác giả An Như Hải [128]; “Quản lý nhà nước đối với tài nguyên
và môi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội - nhân văn” của
tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm [141]... Những vấn đề tác giả luận án rút ra qua
nghiên cứu, tìm hiểu các công trình khoa học này là:
Các công trình khoa học trên đều tập trung tìm hiểu chủ thể giữ vai
trò quan trọng nhất trong việc thúc đẩy quá trình bảo vệ MTST là nhà nước
và đưa ra các quan niệm khác nhau về quản lý nhà nước đối với TN - MT.
Quan niệm thứ nhất: Quản lý MT là sự tác động liên tục, có tổ chức và
hướng đích của chủ thể quản lý MT lên cá nhân hoặc cộng đồng người tiến
hành các hoạt động phát triển trong hệ thống MT và khách thể quản lý MT,
sử dụng một cách tốt nhất mọi tiềm năng, cơ hội nhằm đạt được mục tiêu
quản lý MT đã đề ra, phù hợp với pháp luật hiện hành. Quan niệm thứ hai:
Quản lý nhà nước đối với TN - MT là một quá trình mà ở đó, nhà nước sử
dụng cách thức, công cụ, phương tiện khác nhau, vận dụng những quy luật
vận động khác nhau của thế giới vật chất, tác động đến các hoạt động của
con người nhằm làm hài hoà mối quan hệ giữa TN - MT và phát triển, với
mục đích thoả mãn nhu cầu về mọi mặt của con người, đồng thời đảm bảo
chất lượng MT sống... Quản lý TN - MT không chỉ là hoạt động liên tục,
có tổ chức mà phải thường xuyên, lâu dài. Quản lý TN - MT có nhiều hình
thức khác nhau, song quản lý nhà nước về TN - MT giữ vai trò quan trọng
nhất. Các nghiên cứu khẳng định ở Việt Nam TNTN là tài sản quốc gia,
thuộc sở hữu toàn dân nhưng do Nhà nước là chủ đại diện. Nhà nước không
thể giao quyền quản lý TNTN và MT cho bất kỳ đối tượng nào khác, quyền
và trách nhiệm đó phải thuộc về nhà nước [59], [61], [84], [104], [128].
Một số nghiên cứu xuất phát từ phân tích thực trạng của lực lượng sản
xuất ở nước ta đã khẳng định, quản lý nhà nước về TN - MT còn phụ thuộc
vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, do đó, với tư cách là chủ thể sở
hữu cao nhất và duy nhất về TNTN cũng như các thành phần MT, Nhà nước
25
ta phải thực hiện chức năng tổ chức quản lý, điều hành, kiểm tra, giám sát
việc khai thác, sử dụng TNTN và các điều kiện tự nhiên nhằm sử dụng hợp lý,
tiết kiệm TNTN và bảo vệ MTST để phát triển KT - XH ở cả hiện tại lẫn
trong tương lai [59], [61], [84], [104], [128], [141].
Các nghiên cứu đều tập trung phân tích, chỉ ra thực trạng hiệu lực, vai
trò quản lý của Nhà nước về TN - MT ở nước ta. Các nghiên cứu đều cho
thấy Nhà nước ta giữ vai trò quan trọng trong việc đề ra chủ trương, chính
sách, pháp luật, hướng dẫn các cá nhân và tổ chức thực hiện pháp luật về TN -
MT; tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác quản lý TN -
MT từ cấp trung ương đến địa phương và thực hiện việc thanh tra, kiểm tra,
giảm sát việc thực hiện pháp luật TN - MT [59], [61], [71], [84], [104], [141].
Các nghiên cứu còn đưa ra quan điểm, mục tiêu và những giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về MT ở Việt Nam như: tiếp
tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách bảo vệ MT; tăng cường chế tài
xử phạt vi phạm pháp luật về bảo vệ TN - MT; tiếp tục hoàn thiện hệ thống tổ
chức bộ máy quản lý nhà nước về TN - MT ở các cấp; nâng cao ý thức trách
nhiệm bảo vệ MT cho quần chúng nhân dân, sử dụng hợp lý các nhân tố kinh
tế và con người trong quản lý nhà nước về TN - MT; xây dựng ý thức sinh
thái cho nhân dân... [5], [59], [61], [71], [81], [84], [104], [128], [141].
Kết luận chương 1
Những vấn đề: TTKT, bảo vệ MTST và vấn đề liên quan tới vai trò của
nhà nước trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST đã được các nhà nghiên
cứu tiếp cận và giải quyết dưới nhiều góc độ khác nhau. Sau khi nghiên cứu
các công trình đó, tác giả luận án rút ra được những kết luận sau:
Một là: Các công trình khoa học trên đều có ý nghĩa nhất định về mặt
lý luận và thực tiễn. Những giá trị khoa học của các công trình này đã tạo ra
những gợi mở quan trọng để tác giả luận án triển khai kết quả nghiên cứu theo
hướng mới. Các giá trị khoa học của các công trình được luận án tiếp thu, kế
thừa bao gồm các nội dung:
26
Dựa trên kết quả nghiên cứu thực tiễn, các công trình khoa học đã công
bố và đưa ra được bức tranh sinh động về mối quan hệ biện chứng giữa TTKT
với bảo vệ MTST. Đặc biệt, các nghiên cứu đã chứng minh lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa con người với tự nhiên thông qua hoạt
động thực tiễn sản xuất vật chất và bảo vệ MTST một cách sinh động. Kết
quả khoa học của các công trình này là tư liệu quan trọng và hữu ích để luận
án đề xuất cách tiếp cận mới về mối quan hệ giữa TTKT với bảo vệ MTST.
Các công trình đã nghiên cứu phân tích, làm rõ vai trò quan trọng của
nhà nước trong TTKT cũng như trong quản lý TN - MT. Các nghiên cứu đã đi
sâu lý giải vai trò của nhà nước với tư cách là chủ thể có quyền lực cao nhất
và duy nhất có khả năng bảo đảm quản lý sử dụng nguồn TNTN trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Do đó, Nhà nước
phải được coi là chủ thể tiên quyết đề ra các chủ trương, chính sách, pháp luật
để dẫn dắt nền kinh tế tăng trưởng và bảo vệ MTST vì sự PTBV đất nước.
Những giá trị khoa học này có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng, là tiền
đề để luận án phân tích sâu sắc hơn cơ sở triết học của vai trò nhà nước trong
việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST.
Các công trình nghiên cứu đã đề xuất những giải pháp quan trọng mà
nhà nước cần phải làm để thực hiện tốt chức năng “bà đỡ” của mình. Một số
giải pháp về xây dựng chính sách, pháp luật đồng bộ, về quản lý điều hành
kinh tế, môi trường, giải pháp về giáo dục ý thức môi trường, đạo đức sinh
thái... là những hướng gợi mở quan trọng để luận án đề xuất những giải pháp
cơ bản giúp Nhà nước kết hợp đồng bộ TTKT và bảo vệ MTST.
Hai là: Vấn đề kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST và chỉ ra vai trò
của Nhà nước trong việc kết hợp đó là một vấn đề hết sức mới mẻ. Tất cả các
công trình nghiên cứu trước đó đã nghiên cứu và giải quyết theo hai hướng
chủ yếu hoặc là chỉ ra vai trò của nhà nước trong TTKT, hoặc là chỉ ra vai trò
của nhà nước trong bảo vệ MTST. Việc nghiên cứu vai trò của nhà nước
trong việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST với cách tiếp cận triết học thì
27
hầu như chưa có công trình nào chỉ ra một cách hệ thống. Do đó, hướng
nghiên cứu và cách tiếp cận vấn đề này trong luận án là hoàn toàn mới mẻ. Để
góp phần làm sâu sắc thêm một nội dung quan trọng trong quản lý nhà nước
về các vấn đề KT - XH, luận án đi sâu vào ba nội dung cơ bản sau:
Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu đã có, luận án góp phần
làm rõ hơn quan hệ biện chứng giữa TTKT và bảo vệ MTST cũng tính tất yếu
của việc kết hợp TTKT với bảo vệ MTST.
Chỉ ra những nội dung thể hiện vai trò của nhà nước trong kết hợp TTKT
với bảo vệ MTST và những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai trò của Nhà
nước Việt Nam trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở nước ta hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước
Việt Nam trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST.
28
Chương 2
KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
SINH THÁI - YÊU CẦU CỦA SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG SỰ KẾT HỢP ĐÓ
2.1. KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
SINH THÁI - YÊU CẦU CỦA SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
2.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái
2.1.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng đến
tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học.
Mặc dù xuất hiện khá sớm trong lịch sử, nhưng chỉ khi phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa thiết lập được địa vị thống trị, thì khi ấy khái niệm TTKT
mới thực sự được định hình rõ nét. Trong điều kiện đó, những thành quả kinh
tế của nhân loại nói chung và chủ nghĩa tư bản nói riêng đã tạo ra bước
chuyển biến mạnh mẽ trong toàn bộ đời sống xã hội. Chính C.Mác là người
nhận thức rõ điều này khi ông viết:
Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một
thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn
lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại. Sự chinh
phục những lực lượng thiên nhiên, sự sản xuất bằng máy móc, việc
áp dụng hoá học vào công nghiệp và nông nghiệp, việc dùng tàu
chạy bằng hơi nước, đường sắt, máy điện báo, việc khai phá từng
lục địa nguyên vẹn, việc khai thông các dòng sông cho tầu bè đi lại
được, hàng khối dân cư tựa hồ như từ dưới đất trồi lên, có thế kỷ
nào trước đây lại ngờ được rằng có những lực lượng sản xuất như
thế vẫn nằm tiềm tàng trong lòng lao động xã hội! [91, tr.603].
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, các nhà kinh tế học tư sản đã dành
nhiều thời gian nghiên cứu quá trình tăng trưởng của nền kinh tế tư bản chủ
29
nghĩa và đưa ra các quan niệm khác nhau về TTKT. Trong tác phẩm “Của cải
của các dân tộc”, Adam Smith cho rằng, TTKT là tăng đầu ra theo đầu người,
hoặc tăng sản phẩm lao động; nguồn gốc của TTKT là tích lũy tư bản [theo
57]. Còn David Ricardo, trong tác phẩm nổi tiếng “Các nguyên tắc của chính
trị kinh tế học và thuế khóa” cho biết, các yếu tố cơ bản của TTKT là đất đai,
lao động và vốn, trong đó đất đai là yếu tố quan trọng nhất, là giới hạn của sự
tăng trưởng [theo 57]. Kế thừa tư tưởng của D.Ricardo, C.Mác khẳng định
không chỉ có đất đai, sức lao động, vốn mà tiến bộ kỹ thuật cũng là một trong
các yếu tố thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Nếu D.Ricardo nhấn mạnh tới yếu tố
đất đai như là yếu tố quan trọng hàng đầu của TTKT thì C.Mác lại đặc biệt
quan tâm đến yếu tố sức lao động, vì theo ông đó là yếu tố tạo ra giá trị thặng
dư. C.Mác cho rằng, muốn tăng tổng sản phẩm xã hội tạo nên TTKT thì phải
tăng quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, tăng cường bóc lột giai cấp công
nhân. Tuy nhiên, ông cũng thấy rằng, lao động cơ bắp của người công nhân là
có giới hạn, vì vậy, để tăng giá trị thặng dư, các nhà tư bản còn phải tăng năng
suất lao động nhờ vào quá trình cải tiến công cụ, kỹ thuật.
Thực tiễn phát triển của chủ nghĩa tư bản vào những năm đầu thế kỷ XX,
đặc biệt là cuộc khủng hoảng 1929-1933, một số lý thuyết về TTKT tiếp tục
được bổ sung và phát triển. John Maynard Keynes là được coi là người đặt nền
móng cho các lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại. Trong tác phẩm “Lý thuyết
chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ”, ông cho rằng, vấn đề việc làm ảnh
hưởng mạnh mẽ đến vấn đề tăng, giảm của thu nhập và tiêu dùng. Trong
trường hợp thu nhập giảm, cầu tiêu dùng giảm tương đối, sẽ ảnh hưởng đến
tình hình sản xuất, đầu tư được thu hẹp và nạn thất nghiệp theo đó sẽ gia tăng.
Vì vậy, để điều chỉnh sự thiếu hụt của cầu tiêu dùng, cần phải tăng đầu tư. Mỗi
sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo cầu bổ sung về công nhân và tư liệu sản
xuất, khi việc làm gia tăng, thu nhập quốc dân cũng tăng theo [theo 57].
Đến cuối những năm 50 của thế kỉ XX, cuộc cách mạng KH và CN
hiện đại bắt đầu phát triển mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu rộng, nhà kinh tế học
30
Mỹ Rober Solow, trên cơ sở nghiên cứu kinh tế xã hội tư bản đã khẳng định
các yếu tố cơ bản của TTKT gồm có vốn, lao động, tiến bộ CN. Trong đó, yếu
tố quyết định đến sự TTKT phải là tiến bộ CN mà kinh tế tri thức là nền tảng
ban đầu. Theo R.Solow thì thành tựu kiến thức cũng như việc áp dụng những
thành tựu ấy vào cải tiến công cụ lao động sẽ làm tăng năng suất lao động, sản
phẩm sản xuất ra cũng tốt hơn, đa dạng hơn. R.Solow cũng cho rằng, có được
sự tăng trưởng bình quân đầu người trong dài hạn, người ta phải nhờ vào sự
tiến bộ của KH và CN [theo 57].
Từ cuối những năm 1980 đến nay, lý thuyết tăng trưởng mới - mô hình
tăng trưởng nội sinh ra đời với mục đích thúc đẩy TTKT. Mô hình này đề cao
vai trò tác động của chính phủ đến TTKT ở cả hai trường hợp tốt và xấu. Chính
sách của chính phủ có thể tác động đến tăng trưởng dài hạn, bởi lẽ những hành
vi đánh thuế, bảo hộ sở hữu trí tuệ, điều chỉnh, duy trì pháp luật và trật tự… có
thể tác động tới các hoạt động sáng chế, phát minh [theo 57].
Như vậy, TTKT là khái niệm đã thực sự được bàn đến từ thế kỷ XVIII.
Từ đó đến nay khái niệm này luôn được bổ sung, phát triển theo các hướng
khác nhau. Mặc dù có điểm chung là cố gắng chỉ ra căn nguyên cơ bản của
TTKT, song hầu hết các quan điểm trên mới chỉ nhấn mạnh đến những yếu tố
kinh tế đơn thuần, ít cắt nghĩa về sự tác động của các yếu tố xã hội đến nhịp
độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Ở Việt Nam, khái niệm TTKT được hiểu theo nhiều lát cắt khác nhau
Theo lát cắt kinh tế, TTKT “là khái niệm diễn tả động thái của kinh tế phát
triển, đó là việc mở rộng sản lượng quốc gia tiềm năng qua thời gian của một
nước, hay là mở rộng khả năng kinh tế để sản xuất, di chuyển giới hạn khả
năng sản xuất qua thời gian” [44, tr.14]. Hiểu theo nghĩa rộng, TTKT “là sự
tăng thêm về quy mô, sản lượng hàng hoá và dịch vụ trong một thời kì nhất
định (thường là một năm). Đó là kết quả được tạo ra bằng tất cả các hoạt động
dịch vụ của nền kinh tế” [68, tr.37]. Hiện nay, một số nhà khoa học còn cho
rằng, TTKT “là một khái niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự gia tăng về
31
quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kì nhất định. Các chỉ tiêu để
đo tăng trưởng kinh tế thường được sử dụng là mức tăng tổng sản phẩm quốc
nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), GDP và GNP bình quân đầu
người cùng một số chỉ tiêu kinh tế tổng hợp khác” [144, tr.155].
Điểm giống nhau của các định nghĩa trên là đều có chung một nhận
định: TTKT là mức tăng sản lượng thực tế trong một thời kì nhất định. Các
chỉ tiêu GDP, GNP, GDP bình quân đầu người thường được sử dụng để đánh
giá về mức độ tăng trưởng cao hay thấp của nền kinh tế. Nếu tốc độ tăng
GDP, GNP, GDP bình quân đầu người thời kì sau cao hơn thời kì trước thì
nền kinh tế có sự tăng trưởng và ngược lại nền kinh tế đang sút giảm.
Như vậy, theo các quan niệm trên, khái niệm TTKT mới chỉ nói lên
mặt lượng trong quá trình phát triển của nền kinh tế. TTKT chưa phải là phát
triển kinh tế. Phát triển kinh tế là “sự gia tăng cả về số lượng và chất lượng
của nền kinh tế quốc dân trong một thời kì nhất định. Các chỉ tiêu phản ánh
phát triển kinh tế là hiệu quả của nền kinh tế, hiệu quả đầu tư, cơ cấu kinh tế,
khả năng cạnh tranh của nền kinh tế so với các nước khác trong khu vực và
thế giới” [127, tr.17]. Với nghĩa này, TTKT và phát triển kinh tế nằm trong
mối quan hệ tác động qua lại với nhau. TTKT phản ánh sự đi lên về mặt
lượng của nền kinh tế, còn phát triển kinh tế cho thấy cả mặt chất trong quá
trình đi lên của nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần, cơ bản để
phát triển kinh tế. Nếu không có TTKT thì sẽ không có phát triển kinh tế.
TTKT giúp cho sản phẩm làm ra ngày một nhiều, việc làm và thu nhập trong
xã hội tăng lên, xã hội có thêm điều kiện vật chất để đảm bảo các vấn đề an
sinh xã hội như GD và ĐT, chăm sóc sức khỏe, bảo vệ MTST… Nhưng,
nếu kinh tế có sự tăng trưởng mà nạn thất nghiệp tăng, MTST bị hủy hoại,
các tệ nạn xã hội gia tăng thì không thể có phát triển kinh tế.
Từ đó, có thể thấy rằng, điều kiện đủ cho kinh tế phát triển là quá
trình TTKT phải gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo tính cân đối,
tính hiệu quả, tính mục tiêu cũng như khả năng cạnh tranh của nền kinh tế,
32
TTKT ở giai đoạn trước sẽ không cản trở quá trình TTKT ở giai đoạn sau.
Nói cách khác, trong TTKT phải vừa có sự gia tăng về mặt số lượng, vừa
đạt được sự gia tăng cần thiết về mặt chất lượng. Để có được điều này, sự
gia tăng của nền kinh tế nhất thiết phải dựa trên việc khai thác các nguồn
lực sẵn có từ tự nhiên và xã hội.
Xuất phát các quan niệm trên có thể rút ra kết luận: Tăng trưởng kinh
tế là sự gia tăng không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng của nền kinh tế
trong một thời kỳ nhất định dựa trên việc khai thác các nguồn lực tự nhiên
và xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, để có thể tăng trưởng nhanh
và ở mức độ cao, mọi nền kinh tế phải dựa trên các trụ cột cơ bản như nguồn
nhân lực chất lượng cao, áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng
hiện đại, nguồn TNTN dồi dào…
Nguồn nhân lực: Ngay từ thế kỷ XVIII, các nhà kinh tế học tư sản hiện
đại đã nhận thấy, nguồn lực để sản xuất ra của cải vật chất chỉ có thể là lao
động và tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên đất đai. Còn chủ nghĩa Mác - Lênin
ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khi phân tích phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa, đã khẳng định chính người lao động mới là nhân tố giữ vai
trò quyết định trong sản xuất ra của cải vật chất. Đúng như quan niệm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, ngày nay, mặc dù trình độ kinh tế phát triển đã khác xa so
với các giai đoạn trước nhưng nguồn lực con người vẫn là một trong các yếu
tố quyết định, ưu thế của nguồn lực con người dần được khẳng định trên thực
tế. Lý thuyết hiện đại về sự tăng trưởng của nền kinh tế và sự phát triển thần
kỳ của nhiều nước, vùng lãnh thổ ở khu vực Đông Á như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan cùng với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của nhiều nước
công nghiệp mới, các nước ASEAN, Trung Quốc là những minh chứng sống
động cho việc khẳng định tầm quan trọng thiết yếu của nguồn nhân lực. Tất
nhiên, cái cấu thành nên giá trị nội tại của nguồn nhân lực là ở chất lượng của
nó. Chất lượng nguồn nhân lực không chỉ thể hiện ở tri thức, trí tuệ, chất xám
hay năng lực cơ bắp, mặc dù đó là những yếu tố cực kỳ quan trọng. Trong
33
nhiều trường hợp, chất lượng nguồn nhân lực còn thể hiện ở tinh thần dám
nghĩ, dám làm, khả năng lao động sáng tạo và các phẩm chất đạo đức như
lòng dũng cảm, trung thực, yêu lao động…
Công nghệ hiện đại: Yếu tố này bao gồm cả những tiến bộ về KH và
CN trong sản xuất và trong tổ chức quản lý sản xuất. Trong những thập kỷ
qua, loài người đã chứng kiến sự thay đổi chưa từng thấy của KH và CN.
Chúng đi sâu vào mọi ngõ ngách của nền sản xuất, trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp. Nhờ đó mà nhiều quốc gia tiến hành mở rộng quy mô sản xuất,
đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, trở thành các nước phát triển mạnh. Sự phát
triển của KH và CN không chỉ đem lại nhiều khả năng tái sinh và bảo vệ các
nguồn TNTN, mà còn giúp con người tạo ra những vật liệu mới thay thế cho
các nguồn TNTN đang ngày càng khan hiếm để đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng. Tất nhiên, sự phát triển của KH và CN cũng có thể tiềm ẩn những
nguy cơ bất lợi cho MTST, bởi lẽ, việc ứng dụng các thành tựu của KH và
CN hiện đại vào sản xuất nếu không được kiểm duyệt nghiêm ngặt sẽ có nguy
cơ trở thành nhân tố tàn sát MTST nhanh hơn.
Kết cấu hạ tầng hiện đại: Đây là tiền đề để mở rộng năng lực sản xuất của
nền kinh tế, giúp kinh tế tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên, muốn xây dựng được kết
cấu hạ tầng hiện đại, phải có tiềm năng về kinh tế nghĩa là phải có nguồn vốn đủ
lớn và sử dụng vốn có hiệu quả. Đối với các nước đang phát triển như ở Việt
Nam, nguồn vốn cho TTKT có được từ tích luỹ nội bộ nền kinh tế và đi vay. Việc
sử dụng hiệu quả nguồn vốn này sẽ đem đến khả năng tăng trưởng nhanh cho nền
kinh tế. Nhưng, nếu việc huy động nhanh cả hai nguồn vốn này không cẩn thận sẽ
làm phương hại đến MTST. Vì lẽ, để đẩy nhanh nguồn vốn, có thể phải chấp nhận
bóc lột TNTN. Đây là nghịch lý mà trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có
bàn tay can thiệp của nhà nước để lựa chọn hướng đi đúng đắn nhất, vừa duy trì sự
tăng trưởng của nền kinh tế, vừa không làm tổn hại đến MTST.
Tài nguyên thiên nhiên: Để sản xuất vật chất, con người phải khai thác,
sử dụng những dạng vật chất khác nhau trong tự nhiên như: đất đai, rừng,
34
biển, khoáng sản… Do sự phát triển của KH và CN, nhiều loại vật liệu nhân
tạo mới như tơ, sợi hoá học, các loại chất dẻo xuất hiện thay thế nguyên liệu
truyền thống. Song, không vì thế mà giá trị của các nguồn TNTN bị mất đi.
Xét đến cùng, nguyên vật liệu dùng để sản xuất ra các loại vật liệu nhân tạo
mới cũng được lấy từ tự nhiên. Việc khai thác các nguồn TNTN, do đó, sẽ
đem đến nhiều lợi ích to lớn cho nền kinh tế. Đương nhiên, kinh tế chỉ có thể
tăng trưởng vững chắc nếu TNTN được khai thác một cách hợp lý.
Ngoài các nhân tố trên, ngày nay, các nhân tố cấu thành quan hệ sản
xuất và một số nhân tố khác như thể chế kinh tế, hệ thống chính trị, đặc điểm
cộng đồng dân cư… cũng giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy
kinh tế tăng trưởng. Song, xét đến cùng, các yếu tố về nguồn nhân lực,
TNTN, khoa học kỹ thuật vẫn được coi là những nguồn lực chủ yếu, quyết
định mức độ tăng trưởng của nền kinh tế. Nếu các nguồn lực này được đảm
bảo, nền kinh tế sẽ có sự tăng trưởng bền vững.
2.1.1.2. Khái niệm môi trường sinh thái và bảo vệ môi trường sinh thái
Để tìm hiểu khái niệm môi trường sinh thái, trước hết cần hiểu về khái
niệm môi trường.
Môi trường là khái niệm được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên
cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam, môi
trường được định nghĩa “bao gồm các yếu tố tự nhiên và các yếu tố vật chất
nhân tạo có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng
tới đời sống sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và thiên nhiên”
[70, tr.940]. Hiểu theo nghĩa rộng, môi trường là khái niệm “chỉ toàn bộ các
điều kiện vô cơ và hữu cơ có liên quan đến sự tồn tại và phát triển của các cơ
thể sống, bao gồm tất cả những gì đang tồn tại khách quan, là toàn bộ thế giới
với tất cả các hình thức biểu hiện muôn màu của nó” [45, tr.7]. Luật Bảo vệ
môi trường (2005) của nước ta thì cho rằng, môi trường “bao gồm các yếu tố
tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời
sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật” [113, tr.8].
35
Theo quan niệm của UNESCO, MT của con người bao gồm toàn bộ các hệ
thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, những cái hữu hình (đô
thị, hồ chứa...) và những cái vô hình (tập quán, niềm tin, nghệ thuật...), trong
đó con người bằng lao động, tiến hành khai thác các loại tài nguyên nhằm
thoả mãn những nhu cầu của mình. Với nghĩa này, MT sống đối với con
người không chỉ là nơi tồn tại, sinh trưởng, phát triển mà còn là khung cảnh
của cuộc sống, của lao động và sự nghỉ ngơi của con người.
Như vậy, MT là khái niệm có nội hàm rộng lớn. Từ khái niệm này người
ta chia ra thành các khái niệm hẹp hơn như “môi trường tự nhiên”, “môi trường
xã hội”, “môi trường nhân tạo”, “môi trường sinh thái”, “môi trường sinh thái
nhân văn”… Mỗi khái niệm đó lại được nghiên cứu ở các góc độ khác nhau.
Không thể đi sâu vào từng khái niệm, luận án chỉ đề cập tới những khái niệm
điển hình nhất, được nhiều người thừa nhận và có mối liên quan chặt chẽ tới
đối tượng nghiên cứu trong luận án.
Môi trường xã hội, hiểu một cách chung nhất là tổng thể các mối quan
hệ giữa các cá nhân con người, giữa các cộng đồng người với nhau và hợp lại
thành quốc gia, xã hội. Từ đó hình thành nên luật lệ, thể chế, quy định, các
hình thức tổ chức, các thể chế KT - XH… khác nhau.
Môi trường nhân tạo là khái niệm dùng để chỉ MT do con người tạo ra,
bao gồm những nhân tố vật lý, sinh học, xã hội… Các yếu tố này luôn nằm
trong mối quan hệ với nhau, chịu sự chi phối của con người và phục vụ cho
cuộc sống của con người cũng như của cộng đồng xã hội trong mỗi giai đoạn
lịch sử nhất định.
Môi trường tự nhiên là khái niệm dùng để chỉ các nhân tố, các hiện
tượng tự nhiên và các loại TNTN bao quanh cuộc sống của con người như
bầu khí quyển, nước, động vật, thực vật, thổ nhưỡng, khoáng sản, không khí.
Các yếu tố này luôn có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Chúng tồn tại
khách quan ngoài ý muốn của con người, có ảnh hưởng đến cuộc sống của
con người và ít nhiều chịu sự chi phối của con người.
36
Ngay từ khi con người xuất hiện trên Trái Đất đã bị chi phối bởi MT
tự nhiên và chính bản thân con người cũng chinh phục lại MT tự nhiên. Bởi
vậy, ngày nay không có cái gọi là MT tự nhiên (theo nghĩa “nguyên thủy”,
thuần túy nữa), mà phải được hiểu như là “môi trường tự nhiên - xã hội”
hay “môi trường tự nhiên - người hóa”.
Một khái niệm khác được hiểu trong mối tương quan với khái niệm
MT tự nhiên là môi trường sinh thái. Đây cũng là khái niệm được tiếp cận
theo nhiều cách khác nhau. Trên cơ sở khẳng định vai trò của MT đối với
con người và xã hội, tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm định nghĩa MTST là “tất
cả những điều kiện tự nhiên và xã hội, cả vô cơ và hữu cơ có liên quan đến
sự sống của con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội” [138, tr.208]. Ở
khía cạnh khác, MTST còn được gọi là môi trường sinh thái tự nhiên hay
môi trường sinh thái - nhân văn, đó “là môi trường của sự sống hay sinh
quyển, nó bao gồm một phần của tự nhiên có tồn tại sự sống” [4, tr.13].
Để làm rõ sự khác nhau giữa khái niệm MTST với khái niệm môi
trường sinh thái - nhân văn, tác giả Hoàng Duy Chúc cho rằng “môi trường
sinh thái là môi trường sống hay cái nhà ở của sinh vật, bao gồm tất cả các
điều kiện xung quanh có liên quan đến sự sống của sinh thể” [39, tr.3]; còn
“môi trường sinh thái nhân văn là tổng hợp tất cả những điều kiện tự nhiên và
xã hội, cả vô cơ lẫn hữu cơ, có liên quan đến sự sống của con người, sự tồn tại
và phát triển của xã hội” [39, tr.3-4].
Như vậy, dù hiểu theo khía cạnh nào thì MTST vẫn được quan niệm
như một chỉnh thể trọn vẹn có quan hệ với sự ổn định và phát triển của xã hội.
Đó là nơi cung cấp cho con người các sản phẩm vật chất với tính cách là yếu
tố đầu vào và chứa đựng các sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất. MTST
không chỉ bao gồm các hợp chất vô cơ mà còn có cả các hợp chất hữu cơ có
sẵn từ tự nhiên hoặc được tạo ra từ con người. Nếu trong quá trình sản xuất,
con người chỉ biết khai thác triệt để các nguồn lợi từ tự nhiên mà không biết
37
tái tạo, phục hồi, không kiểm soát chặt chẽ đầu ra của quá trình sản xuất, các
chất thải độc hại được xả thẳng ra MT, sẽ dẫn đến huỷ hoại MTST.
Xuất phát từ những quan điểm trên, có thể nhận định: (1) Nói đến MTST
là nói đến một bộ phận của giới tự nhiên có tồn tại sự sống; (2) MTST được
cấu thành từ các yếu tố vô cơ (đất, nước, TNTN...) và hữu cơ (động - thực
vật…); (3) MTST còn được gọi là môi trường sống nếu xét nó trong mối tương
quan với sự sống, sự tồn tại của đối tượng vật chất sống nhất định; (4) MTST
còn được gọi là “môi trường tự nhiên”, “môi trường sinh thái tự nhiên”.
Dưới góc độ nghiên cứu của đề tài luận án, tác giả quan niệm rằng môi
trường sinh thái được hiểu là MTST tự nhiên với tính cách là nơi cung cấp
các yếu tố đầu vào cho sự tăng trưởng của nền kinh tế. Theo đó, môi trường
sinh thái bao hàm các loại động, thực vật, các hệ sinh thái tự nhiên và đặc biệt
là các loại TNTN như đất đai, các loại khoáng sản, nước... và đây cũng chính
là các yếu tố mà luận án sẽ đề cập tới và giải quyết ở các nội dung sau.
Ngày nay, MTST đã và đang nguy cơ bị lạm dụng nhiều hơn để phục
vụ cho TTKT, vượt ra khỏi khuôn khổ của nó, MTST biến đổi đã đem đến
nhiều bất lợi cho con người trên cả phương diện sinh hoạt lẫn sức khỏe. Do
đó, bảo vệ MTST đang trở thành vấn đề cấp bách mang tính toàn cầu.
Ở nước ta, thuật ngữ “Bảo vệ môi trường sinh thái” được Đảng và Nhà
nước đề cập từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và được nhắc lại trong Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Khi chưa xuất hiện thuật ngữ này, người ta
thường sử dụng thuật ngữ “Bảo vệ môi trường”, được hiểu là:
Tập hợp các biện pháp giữ gìn, sử dụng và phục hồi một cách
hợp lý sinh giới (vi sinh vật, động vật, thực vật) và môi sinh (đất,
nước, không khí, lòng đất, khí hậu), nghiên cứu thử nghiệm thiết bị
sử dụng tài nguyên thiên nhiên, áp dụng công nghệ ít có và không có
phế liệu… nhằm tạo ra không gian tối ưu cho cuộc sống của con
người. Bảo vệ môi trường địa lý là những vấn đề trước mắt và lâu dài
mà toàn thể các cộng đồng phải giải quyết ở quy mô toàn cầu; nhằm sử
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái

Más contenido relacionado

La actualidad más candente

Bản chất của lợi nhuận là gì và lợi nhuận đóng vai trò như thế nào trong sự p...
Bản chất của lợi nhuận là gì và lợi nhuận đóng vai trò như thế nào trong sự p...Bản chất của lợi nhuận là gì và lợi nhuận đóng vai trò như thế nào trong sự p...
Bản chất của lợi nhuận là gì và lợi nhuận đóng vai trò như thế nào trong sự p...
Cat Love
 
Tiểu luận môn dẫn luận ngôn ngữ âm tiết và âm tố trong tiếng việt
Tiểu luận môn dẫn luận ngôn ngữ   âm tiết và âm tố trong tiếng việtTiểu luận môn dẫn luận ngôn ngữ   âm tiết và âm tố trong tiếng việt
Tiểu luận môn dẫn luận ngôn ngữ âm tiết và âm tố trong tiếng việt
https://www.facebook.com/garmentspace
 
DẫN LuậN NgôN Ngữ nhóm 4 phần 2
DẫN LuậN NgôN Ngữ nhóm 4 phần 2DẫN LuậN NgôN Ngữ nhóm 4 phần 2
DẫN LuậN NgôN Ngữ nhóm 4 phần 2
atcak11
 
Hướng dẫn đồ án môn học Bê tông cốt thép 1 - Sàn sườn toàn khối có bản dầm ( ...
Hướng dẫn đồ án môn học Bê tông cốt thép 1 - Sàn sườn toàn khối có bản dầm ( ...Hướng dẫn đồ án môn học Bê tông cốt thép 1 - Sàn sườn toàn khối có bản dầm ( ...
Hướng dẫn đồ án môn học Bê tông cốt thép 1 - Sàn sườn toàn khối có bản dầm ( ...
Vinh Nguyen
 
Clbt7. khong tu, nho giao (2011 12-01)
Clbt7. khong tu, nho giao (2011 12-01)Clbt7. khong tu, nho giao (2011 12-01)
Clbt7. khong tu, nho giao (2011 12-01)
Khánh Phan Quốc
 
hội nhập kinh tế quốc tế của việt nam
hội nhập kinh tế quốc tế của việt namhội nhập kinh tế quốc tế của việt nam
hội nhập kinh tế quốc tế của việt nam
Tran Trang
 

La actualidad más candente (20)

Tm hd da nen mong
Tm hd da nen mongTm hd da nen mong
Tm hd da nen mong
 
Bản chất của lợi nhuận là gì và lợi nhuận đóng vai trò như thế nào trong sự p...
Bản chất của lợi nhuận là gì và lợi nhuận đóng vai trò như thế nào trong sự p...Bản chất của lợi nhuận là gì và lợi nhuận đóng vai trò như thế nào trong sự p...
Bản chất của lợi nhuận là gì và lợi nhuận đóng vai trò như thế nào trong sự p...
 
Tiểu luận môn dẫn luận ngôn ngữ âm tiết và âm tố trong tiếng việt
Tiểu luận môn dẫn luận ngôn ngữ   âm tiết và âm tố trong tiếng việtTiểu luận môn dẫn luận ngôn ngữ   âm tiết và âm tố trong tiếng việt
Tiểu luận môn dẫn luận ngôn ngữ âm tiết và âm tố trong tiếng việt
 
DẫN LuậN NgôN Ngữ nhóm 4 phần 2
DẫN LuậN NgôN Ngữ nhóm 4 phần 2DẫN LuậN NgôN Ngữ nhóm 4 phần 2
DẫN LuậN NgôN Ngữ nhóm 4 phần 2
 
Phân tích ưu điểm và nhược điểm của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
Phân tích ưu điểm và nhược điểm của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nayPhân tích ưu điểm và nhược điểm của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
Phân tích ưu điểm và nhược điểm của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
 
Slide thuyết trình - Tư tưởng Hồ Chí Minh
Slide thuyết trình - Tư tưởng Hồ Chí MinhSlide thuyết trình - Tư tưởng Hồ Chí Minh
Slide thuyết trình - Tư tưởng Hồ Chí Minh
 
Chủ trương hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa
Chủ trương hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩaChủ trương hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa
Chủ trương hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa
 
Hướng dẫn đồ án môn học Bê tông cốt thép 1 - Sàn sườn toàn khối có bản dầm ( ...
Hướng dẫn đồ án môn học Bê tông cốt thép 1 - Sàn sườn toàn khối có bản dầm ( ...Hướng dẫn đồ án môn học Bê tông cốt thép 1 - Sàn sườn toàn khối có bản dầm ( ...
Hướng dẫn đồ án môn học Bê tông cốt thép 1 - Sàn sườn toàn khối có bản dầm ( ...
 
Những Mặt tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Những Mặt tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường định hướng XHCN.Những Mặt tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Những Mặt tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường định hướng XHCN.
 
Mẫu thiết kế Profile Công ty xăng dầu Petrolimex
Mẫu thiết kế Profile Công ty xăng dầu PetrolimexMẫu thiết kế Profile Công ty xăng dầu Petrolimex
Mẫu thiết kế Profile Công ty xăng dầu Petrolimex
 
Clbt7. khong tu, nho giao (2011 12-01)
Clbt7. khong tu, nho giao (2011 12-01)Clbt7. khong tu, nho giao (2011 12-01)
Clbt7. khong tu, nho giao (2011 12-01)
 
hội nhập kinh tế quốc tế của việt nam
hội nhập kinh tế quốc tế của việt namhội nhập kinh tế quốc tế của việt nam
hội nhập kinh tế quốc tế của việt nam
 
Phần mở đầu
Phần mở đầuPhần mở đầu
Phần mở đầu
 
Môn chính sách quản lý Hàng hóa XNK
Môn chính sách quản lý Hàng hóa XNKMôn chính sách quản lý Hàng hóa XNK
Môn chính sách quản lý Hàng hóa XNK
 
bậc phản ứng
bậc phản ứngbậc phản ứng
bậc phản ứng
 
Sàn sườn Bê Tông toàn khối - GS.TS. Nguyễn Đình Cống
Sàn sườn Bê Tông toàn khối - GS.TS. Nguyễn Đình CốngSàn sườn Bê Tông toàn khối - GS.TS. Nguyễn Đình Cống
Sàn sườn Bê Tông toàn khối - GS.TS. Nguyễn Đình Cống
 
Mô hình tăng trưởng kinh tế Brazil
Mô hình tăng trưởng kinh tế BrazilMô hình tăng trưởng kinh tế Brazil
Mô hình tăng trưởng kinh tế Brazil
 
Trắc nghiệm Kinh tế chính trị - Phần 1
Trắc nghiệm Kinh tế chính trị - Phần 1Trắc nghiệm Kinh tế chính trị - Phần 1
Trắc nghiệm Kinh tế chính trị - Phần 1
 
PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI THỜI KÌ ĐỔI MỚI
PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI THỜI KÌ ĐỔI MỚIPHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI THỜI KÌ ĐỔI MỚI
PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI THỜI KÌ ĐỔI MỚI
 
Chương 5. chiến lược phát triển ngoại thương
Chương 5. chiến lược phát triển ngoại thươngChương 5. chiến lược phát triển ngoại thương
Chương 5. chiến lược phát triển ngoại thương
 

Similar a Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái

luan van thac si kinh te (13).pdf
luan van thac si kinh te (13).pdfluan van thac si kinh te (13).pdf
luan van thac si kinh te (13).pdf
Nguyễn Công Huy
 
Giao duc NLKH quan he voi KTXHMT - Bao Huy.pdf
Giao duc NLKH quan he voi KTXHMT - Bao Huy.pdfGiao duc NLKH quan he voi KTXHMT - Bao Huy.pdf
Giao duc NLKH quan he voi KTXHMT - Bao Huy.pdf
TranLyTuong1
 

Similar a Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái (20)

Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung BộTăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
 
Phật giáo với vấn đề bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
Phật giáo với vấn đề bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nayPhật giáo với vấn đề bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
Phật giáo với vấn đề bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
 
luan van thac si kinh te (13).pdf
luan van thac si kinh te (13).pdfluan van thac si kinh te (13).pdf
luan van thac si kinh te (13).pdf
 
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Kinh Tế Chính Trị.
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Kinh Tế Chính Trị.Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Kinh Tế Chính Trị.
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Kinh Tế Chính Trị.
 
Luận án: Đảng Cộng sản lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường, HAY
Luận án: Đảng Cộng sản lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường, HAYLuận án: Đảng Cộng sản lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường, HAY
Luận án: Đảng Cộng sản lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường, HAY
 
Luận án: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường giai đoạn...
Luận án: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường giai đoạn...Luận án: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường giai đoạn...
Luận án: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường giai đoạn...
 
Luận án: Cơ chế pháp lý trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam, HAY
Luận án: Cơ chế pháp lý trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam, HAYLuận án: Cơ chế pháp lý trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam, HAY
Luận án: Cơ chế pháp lý trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam, HAY
 
Đề tài: Pháp lý về sự tham gia của tổ chức trong bảo vệ môi trường
Đề tài: Pháp lý về sự tham gia của tổ chức trong bảo vệ môi trườngĐề tài: Pháp lý về sự tham gia của tổ chức trong bảo vệ môi trường
Đề tài: Pháp lý về sự tham gia của tổ chức trong bảo vệ môi trường
 
Luận văn: Nguồn nhân lực trong CNH, HĐH ở Hà Giang, HAY
Luận văn: Nguồn nhân lực trong CNH, HĐH ở Hà Giang, HAYLuận văn: Nguồn nhân lực trong CNH, HĐH ở Hà Giang, HAY
Luận văn: Nguồn nhân lực trong CNH, HĐH ở Hà Giang, HAY
 
Luận Văn Tác Động Của Dự Án Duy Trì Và Phát Triển Bền Vững Vườn Quốc Gia Tam ...
Luận Văn Tác Động Của Dự Án Duy Trì Và Phát Triển Bền Vững Vườn Quốc Gia Tam ...Luận Văn Tác Động Của Dự Án Duy Trì Và Phát Triển Bền Vững Vườn Quốc Gia Tam ...
Luận Văn Tác Động Của Dự Án Duy Trì Và Phát Triển Bền Vững Vườn Quốc Gia Tam ...
 
Luận án: Vai trò của an sinh xã hội đối với tiến bộ xã hội Việt Nam
Luận án: Vai trò của an sinh xã hội đối với tiến bộ xã hội Việt NamLuận án: Vai trò của an sinh xã hội đối với tiến bộ xã hội Việt Nam
Luận án: Vai trò của an sinh xã hội đối với tiến bộ xã hội Việt Nam
 
Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội trên địa bàn Quận Sơn Trà Thành phố Đà N...
Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội trên địa bàn Quận Sơn Trà Thành phố Đà N...Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội trên địa bàn Quận Sơn Trà Thành phố Đà N...
Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội trên địa bàn Quận Sơn Trà Thành phố Đà N...
 
Luận văn: Giải pháp phát triển kinh tế nông hộ sau thu hồi đất nông nghiệp
Luận văn: Giải pháp phát triển kinh tế nông hộ sau thu hồi đất nông nghiệpLuận văn: Giải pháp phát triển kinh tế nông hộ sau thu hồi đất nông nghiệp
Luận văn: Giải pháp phát triển kinh tế nông hộ sau thu hồi đất nông nghiệp
 
Luận Văn Phát triển bền vững nông nghiệp Huyện Quảng Điền, Tỉnh Thừa Thiên Hu...
Luận Văn Phát triển bền vững nông nghiệp Huyện Quảng Điền, Tỉnh Thừa Thiên Hu...Luận Văn Phát triển bền vững nông nghiệp Huyện Quảng Điền, Tỉnh Thừa Thiên Hu...
Luận Văn Phát triển bền vững nông nghiệp Huyện Quảng Điền, Tỉnh Thừa Thiên Hu...
 
Công tác trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ở Đà Nẵng, 9đ
Công tác trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ở Đà Nẵng, 9đCông tác trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ở Đà Nẵng, 9đ
Công tác trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ở Đà Nẵng, 9đ
 
Luận văn: Phát triển bền vững nông nghiệp huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
Luận văn: Phát triển bền vững nông nghiệp huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng NgãiLuận văn: Phát triển bền vững nông nghiệp huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
Luận văn: Phát triển bền vững nông nghiệp huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
 
Giao duc NLKH quan he voi KTXHMT - Bao Huy.pdf
Giao duc NLKH quan he voi KTXHMT - Bao Huy.pdfGiao duc NLKH quan he voi KTXHMT - Bao Huy.pdf
Giao duc NLKH quan he voi KTXHMT - Bao Huy.pdf
 
Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi trường của người dân ...
Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi trường của người dân ...Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi trường của người dân ...
Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi trường của người dân ...
 
Ljnhljnh
LjnhljnhLjnhljnh
Ljnhljnh
 
Luận Văn Phát Triển Kinh Tế Hộ Và Những Tác Động Đến Môi Trường Khu Vực Nông ...
Luận Văn Phát Triển Kinh Tế Hộ Và Những Tác Động Đến Môi Trường Khu Vực Nông ...Luận Văn Phát Triển Kinh Tế Hộ Và Những Tác Động Đến Môi Trường Khu Vực Nông ...
Luận Văn Phát Triển Kinh Tế Hộ Và Những Tác Động Đến Môi Trường Khu Vực Nông ...
 

Más de Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Más de Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Último

SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
DungxPeach
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
dnghia2002
 

Último (20)

Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 

Luận án: Tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái

  • 1. Häc viÖn ChÝnh trÞ quèc gia Hå ChÝ Minh NguyÔn ThÞ Kh­¬ng Vai trß cña nhµ n­íc trong viÖc kÕt hîp gi÷a t¨ng tr­ëng kinh tÕ víi b¶o vÖ m«I tr­êng sinh th¸I ë n­íc ta hiÖn nay Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS Mã số : 62 22 80 05 luËn ¸n tiÕn sÜ triÕt häc Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS,TS TrÇn thµnh 2. PGS,Ts nguyÔn minh hoµn Hµ néi - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận án là trung thực. Những kết luận nêu trong luận án chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình khoa học nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Nguyễn Thị Khương
  • 3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6 1.1. Các công trình nghiên cứu về kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái 6 1.2. Các công trình nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong tăng trưởng kinh tế và vai trò của nhà nước trong bảo vệ môi trường sinh thái 20 Chương 2: KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI - YÊU CẦU CỦA SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG SỰ KẾT HỢP ĐÓ 28 2.1. Kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái - yêu cầu của sự phát triển bền vững 28 2.2. Vai trò của Nhà nước trong kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái 49 Chương 3: VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 70 3.1. Mâu thuẫn của việc đòi hỏi cần phải có tính đồng bộ về chính sách, chiến lược, pháp luật trong kết hợp tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái, với tình trạng còn thiếu, chưa đồng bộ 70 3.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát việc kết hợp tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái, với hiệu quả thực tế còn bất cập, nhiều hạn chế 84 3.3. Mâu thuẫn của việc đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà nước cùng các tổ chức, các lực lượng xã hội trong kết hợp tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái, với tình trạng phối hợp còn lỏng lẻo, chưa chặt chẽ 97 Chương 4: MỘT SỐ NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 113 4.1. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng hệ thống chính sách, chiến lược, pháp luật của nhà nước trong kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái 113 4.2. Nhóm giải pháp nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của bộ máy nhà nước trong kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái 126 4.3. Nhóm giải pháp nâng cao vai trò của nhà nước trong việc tạo ra sự đồng thuận của toàn xã hội nhằm thực hiện tốt việc kết hợp tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái 136 KẾT LUẬN 149 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153 PHỤ LỤC 165
  • 4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CN : Công nghệ CT - XH : Chính trị - xã hội ĐT : Đào tạo GD : Giáo dục KH : Khoa học KT - XH : Kinh tế - xã hội MT : Môi trường MTST : Môi trường sinh thái Nxb : Nhà xuất bản PTBV : Phát triển bền vững TN - MT : Tài nguyên - môi trường TNTN : Tài nguyên thiên nhiên TTKT : Tăng trưởng kinh tế XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  • 5. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Loài người chúng ta đã bước vào thiên nhiên kỷ thứ ba và đang đứng trước những thách thức có tính toàn cầu. Biến đổi khí hậu cùng với suy thoái TNTN, ô nhiễm MTST là mối quan tâm lớn nhất của thế giới đương đại. Tình trạng ô nhiễm MTST đã, đang và sẽ làm thay đổi toàn diện, sâu sắc các hệ sinh thái tự nhiên, ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng của nền kinh tế cũng như toàn bộ đời sống xã hội, đe dọa nghiêm trọng tới an ninh MT, năng lượng, lương thực trên phạm vi toàn cầu. Biến đổi khí hậu, ô nhiễm MTST trên thế giới bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân: sự chưa hoàn thiện của kỹ thuật, công nghệ khai thác, chế biến TNTN; sự hiểu biết chưa đầy đủ của con người về MTST. Đặc biệt là do trong các chính sách phát triển, các quốc gia thường chỉ chú trọng, ưu tiên cho mục tiêu TTKT mà ít quan tâm tới mục tiêu bảo vệ MTST. Để bảo vệ MTST, chống biến đổi khí hậu, việc làm có ý nghĩa tiên quyết mà các quốc gia cần phải tiến hành là thiết lập hài hoà mối quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MTST. Đây cùng là đòi hỏi tất yếu của công cuộc phát triển bền vững mà các quốc gia đang theo đuổi trong thế kỷ XXI. Cũng giống như nhiều quốc gia khác trên thế giới, ở Việt Nam, do tác động của việc duy trì khá lâu mô hình phát triển theo chiều rộng, dựa chủ yếu vào khai thác TNTN và các yếu tố MT, nên chất lượng MTST ở Việt Nam thời gian qua suy giảm nhanh. Các hệ sinh thái tự nhiên bị thu hẹp diện tích, xuống cấp về chất lượng, nhiều nguồn TNTN bị suy kiệt, dẫn tới nguy cơ không đảm bảo nguồn cung… Tình trạng đó đã tác động tiêu cực lên các mặt đời sống KT - XH, ảnh hưởng không nhỏ tới tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, đe dọa an ninh lương thực, an ninh MT và sức khỏe cộng đồng, đe dọa nghiêm trọng tới tiến trình PTBV ở Việt Nam. Nhằm khắc phục những tiêu cực đó, trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành đổi mới mô hình phát
  • 6. 2 triển. Theo đó, mô hình “phát triển toàn diện” mà nội dung quan trọng là “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ mội trường” [53, tr.162] đã ra đời. Nhờ thực hiện mô hình này, nền kinh tế thị trường định hướng XHCH ở nước ta được hình thành và có những bước đi khá vững chắc. Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nền kinh tế tăng trưởng cao trong khu vực. Đặc biệt, những thành tựu mà TTKT đem lại đã giúp nước ta có được sự tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Các vấn đề xã hội như xóa đói, giảm nghèo, phát triển y tế, giáo dục, văn hóa… từng bước được giải quyết. Tuy nhiên, không phải là không có những hạn chế trong việc thực hiện mô hình phát triển mới. Trong hàng loạt các hạn chế, yếu kém thì việc “quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên hiệu quả chưa cao, còn lãng phí” [55, tr.166], “môi trường ở nhiều nơi tiếp tục bị xuống cấp, một số nơi đã đến mức báo động” [55, tr.169] đã được Đảng và Nhà nước ta đánh giá là một trong những hạn chế lớn nhất. Hạn chế này do nhiều nguyên nhân gây ra, trong đó nguyên nhân chủ quan vẫn là chính. Tư duy coi trọng tăng trưởng kinh tế, xem nhẹ bảo vệ môi trường vẫn còn phổ biến; phát triển kinh tế vẫn còn theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào khai thác TNTN; nhiều ngành, lĩnh vực sản xuất còn sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm MT nghiêm trọng; gia tăng dân số, đô thị hóa nhanh đang gây áp lực lớn lên MT. Trong khi đó, thể chế, chính sách về bảo vệ MT và PTBV vẫn chưa theo kịp với yêu cầu phát triển KT - XH của đất nước. Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước vẫn còn nhiều bất cập, thiếu nhân lực, nhất là ở các địa phương. Đầu tư của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân cho bảo vệ môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu. Khâu tổ chức thực hiện còn nhiều yếu kém, còn thiếu cương quyết và chưa xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Đảng và Nhà nước ta khẳng định, hạn chế nêu trên, nếu không được giải quyết một cách thỏa đáng, sẽ không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực
  • 7. 3 hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, mà còn đe dọa nghiêm trọng tới sự tăng trưởng của nền kinh tế, gây ra nhiều hiểm họa khôn lường cho đời sống của nhân dân. Phát triển nhanh, bền vững là yêu cầu cấp thiết trong chiến lược phát triển KT - XH của đất nước. Gắn TTKT với bảo vệ MTST trong thời gian tới có ý nghĩa sống còn, là nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp. Đòi hỏi Nhà nước ta phải đổi mới tư duy, đổi mới cách làm, phải tiếp tục củng cố chính sách, công cụ pháp luật, đảm bảo thực hiện tốt công tác tổ chức, thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát quá trình quản lý kinh tế và quản lý TN - MT, đầu tư tài chính cho công tác bảo vệ TN - MT, nâng cao nhận thức cho quần chúng nhân dân về ý nghĩa của kết hợp TTKT với bảo vệ MTST… Từ những phân tích trên đây cho thấy, việc nghiên cứu vai trò của nhà nước đối với vấn đề bảo vệ MTST trong TTKT là rất cần thiết. Xuất phát từ những lý do đó, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện nay” làm đề tài luận án tiến sỹ triết học của mình. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản về vai trò của nhà nước trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST, luận án phân tích những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai trò của Nhà nước ta trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST, qua đó, đề xuất một số nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của Nhà nước trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa TTKT với bảo vệ MTST và những nội dung cơ bản thể hiện vai trò của nhà nước trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST. - Phân tích, đánh giá những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai trò của Nhà nước trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam.
  • 8. 4 - Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của Nhà nước trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu, tìm hiểu vai trò của nhà nước trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam. 2.3. Phạm vi nghiên cứu Luận án làm rõ việc kết hợp TTKT với bảo vệ MTST dưới góc độ triết học. Thông qua chức năng xã hội của nhà nước với tư cách là nhân tố quan trọng trong kiến trúc thượng tầng; luận án đề xuất những nội dung cơ bản thể hiện vai trò của Nhà nước ta trong việc kết hợp TTKT với bảo vệ MTST thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH từ năm 1996 đến nay ở Việt Nam. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển KT - XH trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Trong khi thực hiện, luận án còn kế thừa một số thành tựu của các công trình khoa học có liên quan. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án dựa trên cơ sở những nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp với các phương pháp khác như: lôgic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch, điều tra, thu thập thông tin, khảo sát, tra cứu, đối chiếu so sánh... 5. Đóng góp mới của luận án - Luận án làm rõ được những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai trò của Nhà nước trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
  • 9. 5 - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước ta trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. 6. Ý nghĩa của luận án - Luận án góp phần vào việc đưa ra những luận cứ khoa học để Đảng và Nhà nước ta đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật đúng đắn, nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MTST. - Những vấn đề luận án đề cập và giải quyết sẽ góp phần nâng cao vai trò của Nhà nước ta trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai việc kết hợp TTKT với bảo vệ MTST. - Luận án còn có thể làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu, giảng dạy và những người quan tâm đến lĩnh vực kết hợp TTKT với bảo vệ MTST. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
  • 10. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI 1.1.1. Các nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế là chủ đề được bàn luận khá nhiều trong thời gian qua dưới các góc độ kinh tế, xã hội, môi trường… Trên khía cạnh kinh tế học, khái niệm TTKT thường được hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau: TTKT là mức tăng sản lượng thực tế (sản phẩm hàng hóa, dịch vụ) của một quốc gia theo một thời gian nhất định [58]; TTKT là mở rộng quy mô sản xuất sản xuất quốc gia, tiềm năng của một nước, tiềm năng hiện thực: việc mở rộng khả năng kinh tế để sản xuất [146]; TTKT là sự tăng lên của sản lượng hàng hóa và dịch vụ trong một nước do sự tăng lên của thu nhập quốc dân và sản phẩm bình quân đầu người [132]; TTKT là một khái niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời gian nhất định. Các chỉ tiêu để đánh giá TTKT thường được sử dụng là tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), GDP và GNP bình quân đầu người cùng một số chỉ tiêu kinh tế tổng hợp khác [127], [144]. Đi sâu hơn nữa về TTKT, nhiều công trình đã có những luận chứng sâu sắc về quá trình TTKT ở Việt Nam, qua đó đề ra các giải pháp giúp nâng cao tốc độ tăng trưởng cho nền kinh tế ở nước ta, tiêu biểu như các công trình sau: Trong công trình “Các mô hình tăng trưởng kinh tế” của tác giả Trần Thọ Đạt [57] và “Mô hình tăng trưởng kinh tế” của tác giả Trần Văn Tùng [147] đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về các mô hình TTKT trên thế giới như: Mô hình tăng trưởng trường phái Keynes, Harrod Domar, tăng trưởng tân cổ điển mở rộng, tăng trưởng nội sinh. Các nghiên cứu này còn chỉ rõ những nội dung cơ bản của các lý thuyết TTKT, lý thuyết TTKT dưới dạng các mô hình
  • 11. 7 toán học và tập trung phân tích quá trình tăng trưởng ở các khu vực, các quốc gia trên thế giới và ở nước ta hiện nay. Về mô hình TTKT ở nước ta hiện nay, các nghiên cứu đều khẳng định cho đến nay mô hình TTKT trong nước vẫn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào tăng quy mô tài sản cố định và khai thác TNTN là chính. Mô hình này, ở phương diện tích cực đã đem lại nhiều lợi thế để kinh tế đất nước tăng trưởng với tốc độ nhanh, song, mô hình kinh tế đó còn để lại nhiều hạn chế, trong đó có hạn chế lớn nhất là làm cho kinh tế tăng trưởng chưa thật sự bền vững. Bài viết “Về chất lượng phát triển của Việt Nam thời kỳ 2000 - 2010”, được biên soạn theo tài liệu của các cơ quan Trung ương, Tạp chí Lý luận chính trị [148] đã khẳng định, “trong thời kỳ chiến lược 2001 - 2010, nước ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định, ước tính tăng trưởng GDP đạt khoảng 7,2%/năm. Việt Nam tiếp tục giữ vị trí là một trong những nước có sự tăng trưởng nhanh so với các nước trong khu vực và trên thế giới” [148, tr.48], “tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh có ý nghĩa rất quan trọng giúp nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển và bước vào thời kỳ mới, gia nhập nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình” [148, tr.48]. Tuy nhiên, bài báo cũng khẳng định, nền kinh tế trong nước vẫn kéo dài tình trạng tăng trưởng chủ yếu vào các yếu tố phát triển theo theo chiều rộng. TTKT trong những năm qua nghiêng nhiều về yếu tố vốn hơn là yếu tố lao động. Bên cạnh đó, mức tiêu hao năng lượng ở nước ta còn khá cao, năng lực cạnh tranh tổng thể của nền kinh tế thấp; đặc biệt những hạn chế về lĩnh vực xã hội còn nhiều: chẳng hạn thành tựu xóa đói, giảm nghèo chưa vững chắc, bất bình đẳng có xu hướng gia tăng giữa các vùng và các tầng lớp dân cư, tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng, việc “quản lý, bảo vệ tài nguyên còn buông lỏng; một số tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là những tài nguyên không có khả năng tái tạo đang bị khai thác với công nghệ lạc hậu, gây lãng phí và đứng trước nguy cơ cạn kiệt” [148, tr.54]. Tác giả Nguyễn Thị Doan trong bài viết “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta” [44] cho rằng, trong
  • 12. 8 những năm đổi mới, “so với các quốc gia, nước ta đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và liên tục. Cùng với tăng trưởng kinh tế cao, chất lượng tăng trưởng kinh tế cũng đang được cải thiện” [44, tr.61]. Tuy nhiên, tác giả cũng nhấn mạnh, “tăng trưởng kinh tế của nước ta chủ yếu vẫn theo bề rộng, dựa vào tăng quy mô tài sản cố định, tài nguyên thô và số lượng lao động; cơ cấu kinh tế kém hiệu quả, năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh thấp; các cân đối vĩ mô của nền kinh tế chưa thật vững chắc” [44, tr.61]. Do đó, Việt Nam cần phải thay đổi mô hình TTKT từ tăng trưởng theo bề rộng là chủ yếu sang tăng trưởng bền vững theo chiều sâu, TTKT phải dựa trên nền tảng coi trọng chất lượng. Về lâu dài, cần triệt để chuyển từ tăng trưởng nhờ tăng quy mô vốn đầu tư, khai thác TNTN và sức lao động sang tăng trưởng dựa vào tri thức và công nghệ, giảm các ngành tiêu hao nhiều năng lượng, TNTN, tăng các ngành sử dụng năng lượng sinh học, năng lượng gió. Bên cạnh đó, cần có các giải pháp chiến lược như đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa lớn; GD, ĐT nguồn nhân lực chất lượng cao; phát triển KH và CN để KH, CN trở thành động lực phát triển đất nước, cần mạnh dạn đổi mới tư duy trong quản lý, điều hành, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước; tăng cường giám sát, kiểm tra việc sử dụng vốn của Nhà nước và xử lý dứt điểm các kết luận sau thanh tra, kiểm tra. Nghiên cứu dưới góc độ tăng trưởng bền vững, các tác giả Hoàng Đức Thân, Đinh Quang Ty trong cuốn sách “Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam” [127]; tác giả Nguyễn Phú Trọng trong cuốn “Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” [144] đã đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa TTKT với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như mối quan hệ giữa TTKT với tiến bộ, công bằng xã hội, mối quan hệ giữa TTKT với phát triển văn hoá, mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN, mối quan hệ giữa TTKT với bảo vệ MT... Các tác giả cho rằng, đó là những mối quan hệ cơ bản, phức tạp, có liên quan đến sự tồn vong của quốc gia dân tộc, đòi
  • 13. 9 hỏi Nhà nước ta phải có những biện pháp để giải quyết thỏa đáng. Trong nội dung về mối quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MT, các tác giả khẳng định, ở nước ta, kể từ khi đổi mới, kinh tế có sự tăng trưởng khá, song vấn đề MT lại ngày một xuống cấp. Nhà nước cần phải có những chính sách, chiến lược hợp lý để giải quyết dứt điểm tình trạng này. Các tác giả Nguyễn Văn Nam, Trần Thọ Đạt trong nghiên cứu “Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” [102] đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến tốc độ, chất lượng TTKT ở Việt Nam. Qua việc phân tích thực trạng, chất lượng TTKT ở nước ta giai đoạn cuối thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI, các tác giả cho rằng, những yếu tố thể hiện chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta là: tổng giá trị sản xuất, tổng sản phẩm quốc nội, tổng thu nhập quốc dân, thu nhập bình quân đầu người và một số các tiêu chí định tính khác như: xóa đói giảm nghèo, phúc lợi xã hội, công bằng xã hội, môi trường môi sinh. Cũng trong cuốn sách này, các tác giả đã chỉ ra và phân tích những giải pháp cơ bản để thúc đẩy kinh tế Việt Nam tăng trưởng đạt chất lượng và hiệu quả cao. Như vậy, qua nghiên cứu một số công trình khoa học về TTKT, cho thấy, nhìn chung, các nghiên cứu đều tập trung làm rõ nội hàm của khái niệm TTKT, chỉ ra các mô hình TTKT khác nhau trên thế giới và mô hình kinh tế mà Việt Nam đang theo đuổi. Các nghiên cứu còn làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô TTKT trên thế giới và ở Việt Nam, vạch ra các giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy quá trình TTKT ở nước ta giai đoạn CNH, HĐH đất nước. 1.1.2. Các nghiên cứu về môi trường sinh thái, về bảo vệ môi trường sinh thái Môi trường sinh thái là một trong những vấn đề được đề cập đến khá nhiều trong thời gian qua ở nước ta trên các bình diện khác nhau. Dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc bảo vệ MTST. Nhằm bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng, đảm bảo quyền con người
  • 14. 10 được sống trong MT trong, sạch, đẹp, phục vụ sự nghiệp PTBV đất nước, Đảng và Nhà nước đã ra nhiều văn bản luật, dưới luật, các chỉ thị, nghị quyết về MTST và bảo vệ MTST. Trong một loạt các văn bản quy phạm pháp luật như “Luật Bảo vệ môi trường và văn bản hướng dẫn thi hành”; “ Luật Bảo vệ môi trường năm 2005”; “Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia”… Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định nhiều nội dung quan trọng về MTST cũng như bảo vệ MTST. Theo đó, bảo vệ MTST được quan niệm là bảo vệ các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và các giống loài động thực vật. Thực chất của bảo vệ MTST là bảo vệ MT nước, MT không khí, bảo vệ TNTN, bảo tồn đa dạng sinh học… [20], [27], [31], [33], [111], [113], [105]. Tác giả Nguyễn Minh Hằng trong bài viết “Môi trường sinh thái - vấn đề của mọi người” [62] khẳng định, MTST là một mạng lưới chỉnh thể có mối liên quan chặt chẽ với nhau giữa đất, nước, không khí và các cơ thể sống trong phạm vi toàn cầu. Trong quá trình sinh sống vì nhiều lý do khác nhau, con người đã làm suy thoái MTST, thể hiện rõ nhất ở sự suy thoái tầng ôzon, gây “hiệu ứng nhà kính”, ô nhiễm nguồn nước sạch. Các giải pháp cơ bản mà tác giả nêu ra nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm MTST là: xây dựng ý thức sinh thái, kết hợp giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu sinh thái trong quá trình sản xuất… Tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm trong bài viết “Khía cạnh triết học - xã hội của vấn đề môi trường sinh thái ở Việt Nam” [138] cho rằng, MTST hay MT sống vốn là MT tự nhiên, là đối tượng nghiên cứu của khoa học tự nhiên, trực tiếp là của sinh thái học - sinh học. Nói đến MTST là nói đến môi trường tự nhiên - xã hội hay môi trường sinh thái - nhân văn và thực chất vấn đề MTST là vấn đề về mối quan hệ giữa con người - xã hội - tự nhiên. Theo tác giả, cùng với sự phát triển của xã hội, dưới tác động của con người, MTST đang ngày càng biến đổi theo chiều hướng xấu. Do vậy, để bảo vệ MTST, cần phải có sự thay đổi cơ bản trong quan niệm về sự phát triển, thay đổi quan
  • 15. 11 niệm về tự nhiên, về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên; đồng thời kết hợp với việc ngăn chặn, loại bỏ các tệ nạn trong xã hội; đưa vấn đề giáo dục MT trở thành một nội dung quan trọng trong GD và ĐT. Tác giả Nguyễn Văn Kim trong bài viết “Mối quan hệ giữa phát triển và bảo vệ môi trường - kinh nghiệm của Nhật Bản” [80] lại khẳng định, chính con người là tác nhân chủ yếu gây ra tình trạng ô nhiễm MT, làm mất cân bằng sinh thái. Phân tích sự phát triển kinh tế của Nhật Bản trong những năm đầu thế kỷ XX có ảnh hưởng tới MTST, tác giả cho rằng, sự tập trung quá mức các ngành sản xuất và dân cư vào những khu vực địa lý nhất định đã dẫn đến tình trạng mất cân bằng sinh thái và ô nhiễm MT sống. Từ đây, tác giả đưa ra một số kinh nghiệm của Nhật Bản trong bảo vệ MT và phát triển kinh tế như luật hóa các chính sách về MT, động viên nhân dân tham gia bảo vệ MT, có lối sống hòa hợp với nhiên nhiên. Cũng trong bài viết này, tác giả còn khẳng định, Việt Nam nên coi kinh nghiệm của Nhật Bản như một bài học để phát triển kinh tế và bảo vệ MT bền vững. Tác giả Đỗ Huy trong bài viết “Giáo dục đạo đức sinh thái và xây dựng môi trường văn hoá trong lịch trình thế kỷ XXI” [74] đã làm rõ vai trò vô cùng quan trọng của MTST trong quá trình phát triển kinh tế. Theo tác giả, do nhu cầu tăng năng suất lao động người ta đã từng coi việc khai thác vô hạn độ MT là hành động tích cực. Kết quả là có nhà máy, công trường, có thêm việc làm cho người lao động, song, các giá trị văn hoá bị xuống cấp, sức khoẻ con người giảm sút thì lại không được chú ý thích đáng. Theo tác giả bài viết thì giá trị của hệ sinh thái có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống con người, các giá trị này tuy “im lặng” nhưng nếu con người lạm dụng quyền lực của mình, tác động thô bạo vào chúng thì cái giá phải trả là rất lớn. Do đó, tác giả khẳng định, việc giáo dục đạo đức sinh thái là rất cần thiết để MT và con người phát triển một cách hài hoà. Đi sâu nghiên cứu về đạo đức sinh thái, tác giả Phan Thị Hồng Duyên trong bài viết “Giáo dục đạo đức sinh thái vì sự phát triển bền vững cho con
  • 16. 12 người và giới tự nhiên” [46] lại thể hiện sự bức xúc về vấn đề MT và bảo vệ MT hiện nay ở nước ta. Theo tác giả, Việt Nam cần thiết phải PTBV, nghĩa là phải tạo ra sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ MT. Tác giả cũng cho rằng việc bảo vệ MT để nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển KT - XH không thể chỉ bằng những văn bản, chỉ thị mà giáo dục đạo đức sinh thái cũng là một trong những biện pháp có tác dụng lâu dài và quan trọng. Giáo dục đạo đức sinh thái phải được tiến hành từ tuổi ấu thơ tới tuổi trưởng thành, với mọi đối tượng từ những người dân, đến những người làm công tác lãnh đạo, quản lý, hoạch định đường lối, chiến lược phát triển KT - XH của đất nước. Quan niệm này hoàn toàn đúng và có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước ta trong cả hiện nay lẫn mai sau. Tác giả Vũ Trọng Dung trong cuốn sách “Đạo đức sinh thái và giáo dục đạo đức sinh thái” [45] quan niệm “môi trường sinh thái là tất cả những điều kiện xung quanh có liên quan đến sự sống của sinh thể, của con người” [45, tr.153]. Theo tác giả thì các nguyên nhân cơ bản gây ra tình trạng ô nhiễm MTST là các vấn đề về công nghiệp hóa, kỹ thuật hóa, sự phát triển dân số… Không chỉ nhấn mạnh một phương diện quan trọng trong việc giải quyết vấn đề ô nhiễm MTST đó là giáo dục đạo đức sinh thái, tức là giáo dục thái độ, ý thức, hành vi tôn trọng và yêu quý thiên nhiên, giữ gìn và bảo vệ MTST cho mọi chủ thể, tác giả còn khẳng định sự thống nhất giữa nghĩa vụ đạo đức với nghĩa vụ pháp lý trong việc giữ gìn và bảo vệ MTST là đòi hỏi cấp bách đối với mỗi người và đó cũng là giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề ô nhiễm MTST ở Việt Nam hiện nay. Tác giả Nguyễn Danh Sơn trong bài viết “Một số vấn đề về bảo vệ tài nguyên và môi trường trong bối cảnh biến đổi khí hậu ở nước ta” [71] nhấn mạnh, tài nguyên và MT là một yếu tố nền tảng của PTBV. Nguy cơ suy giảm, cạn kiệt tài nguyên, suy thoái MT đang hiện hữu và đe dọa đến tiến trình PTBV của nước ta. Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu mà một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do
  • 17. 13 nạn cạn kiệt TNTN. Do đó, các quyết định phát triển và quản lý phát triển trong thời gian tới ở nước ta cần phải tính đến tác động của biến đổi khí hậu. Để thực hiện việc này, cần thiết phải bảo vệ TN - MT, cần hướng quá trình phát triển vào việc tăng trưởng xanh, phát triển xanh. Như vậy, thông qua nghiên cứu các công trình khoa học trên, có thể thấy, MTST là tổng hợp các yếu tố vật chất tự nhiên và các loại TNTN, chúng giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế. Do vậy, việc bảo vệ MTST là hết sức quan trọng. Bảo vệ MTST là bảo vệ các yếu tố tự nhiên và các loại TNTN. Bảo vệ MTST không những tạo điều kiện cho kinh tế tăng trưởng ngày một bền vững hơn, mà còn giúp cho con người ngày một tiếp cận với cuộc sống văn minh hơn, tốt đẹp hơn. 1.1.3. Các nghiên cứu về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái Ở Việt Nam, trong những năm qua, vấn đề về phòng chống ô nhiễm MTST, khai thác bền vững nguồn TNTN, gắn TTKT với bảo vệ MTST cùng nhiều vấn đề liên quan đã trở thành nội dung quan trọng trong các chiến lược, các hội nghị, hội thảo về phát triển, các công trình nghiên cứu khoa học của nhiều cấp bộ, ngành từ trung ương đến địa phương. Trong các Chiến lược quan trọng ban hành từ năm 2010 đến nay như: “Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020” [20]; “Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020” [27]; “Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” [30]; “Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu” [31]; “Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” [33]; “Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020” [34]; “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh” [35]… Chính phủ Việt Nam đã nhấn mạnh tới PTBV như là sự gắn kết chặt chẽ giữa TTKT với bảo vệ MTST. Tất cả các Chiến lược đã có đều khẳng định PTBV trên khía cạnh gắn TTKT với bảo vệ MTST là nội dung hết sức quan trọng trong quá trình phát triển KT - XH ở nước ta thời kỳ
  • 18. 14 đẩy mạnh CNH, HĐH. Nội dung này phải được coi là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân; toàn thể các bộ, ngành, các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương cũng như mọi doanh nghiệp, mọi tổ chức xã hội. Những năm gần đây, còn có khá nhiều hội nghị, hội thảo khoa học quốc tế và trong nước bàn luận khá sôi nổi về vấn đề gắn TTKT với bảo vệ MTST, về PTBV như: “Hội nghị quốc tế Động thái dân số, biến đổi khí hậu và phát triển bền vững” [15]; Hội thảo “Toàn cầu hoá và ảnh hưởng đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương: khía cạnh kinh tế, xã hội và văn hoá” [65]; “Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 23” [66]; Hội thảo “Xây dựng và phát triển bền vững” [72], Hội thảo “Phát triển năng lượng bền vững” [149]... Các hội nghị, hội thảo này đã đề cập tới nhiều vấn đề quan trọng của PTBV và gắn TTKT với bảo vệ MTST ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Các vấn đề như: tình hình, thách thức đang đặt ra hiện nay cho tiến trình PTBV chung của thế giới trong đó có Việt Nam; nỗ lực và tăng cường ý nguyện chính trị của cộng đồng quốc tế để cùng nhau xây dựng cương lĩnh hành động, thực hiện các cam kết, giải quyết những vấn đề cấp thiết của các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy toàn diện tiến trình PTBV của thế giới; xem xét, giải quyết các hoạt động xây dựng trong sự PTBV về kinh tế, xã hội, môi trường; đánh giá tổng quát về tình hình năng lượng tại Việt Nam, chỉ ra những thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt như: khai thác đa dạng và hiệu quả các nguồn tự nhiên trong nước, phát triển các dự án mới, phát triển năng lượng đi kèm với bảo vệ MT, thành lập thị trường công nghệ cạnh tranh, thúc đẩy chương trình năng lượng nông thôn... được bàn luận khá sôi nổi tại các hội thảo này. Phát triển bền vững, gắn TTKT với bảo vệ MTST còn là chủ đề của nhiều bài viết và công trình nghiên cứu khoa học theo các hướng khác nhau của các tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm, Nguyễn Văn Kim, Chu Thái Thành, Trương Mạnh Tiến, Bùi Văn Dũng… Trong rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí như:“Sự kết hợp giữa các mục tiêu kinh tế và sinh thái trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
  • 19. 15 [136]; “Khía cạnh triết học - xã hội của vấn đề môi trường sinh thái ở Việt Nam” [138]; “Về cách tiếp cận triết học - xã hội đối với hiện trạng môi trường sinh thái nhân văn ở Việt Nam: các vấn đề, nguyên nhân và giải pháp” [139]; “Xây dựng đạo đức sinh thái - một trách nhiệm của con người đối với tự nhiên” [142]… tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm đã đề cập tới nhiều phương diện khác nhau của vấn đề bảo vệ MTST. Theo tác giả, nói đến MTST là nói đến môi trường tự nhiên - xã hội hay môi trường sinh thái - nhân văn; thực chất của vấn đề MTST là vấn đề về mối quan hệ giữa con người - xã hội - tự nhiên. Khi nghiên cứu về mục tiêu kinh tế và mục tiêu sinh thái, tác giả khẳng định, mục tiêu sinh thái là sự khai thác hợp lý các nguồn TNTN, bảo vệ và không ngừng cải thiện chất lượng môi trường sống. Trên cơ sở luận giải về sự tác động qua lại giữa con người và tự nhiên, tác giả đề cập một cách sâu sắc tới sự tác động của quá trình TTKT đối với MTST, qua đó khẳng định rằng, để gắn kết TTKT với bảo vệ MTST, cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp khác nhau như sử dụng cơ chế lợi ích, xây dựng các chính sách xã hội về bảo vệ môi trường, đổi mới công nghệ để khai thác, sử dụng hợp lý TNTN, bảo vệ MTST… Tác giả Nguyễn Đình Hòa trong bài viết “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay: khía cạnh môi trường sống” [67] khẳng định, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận, một nội dung quan trọng của tiến trình hiện đại hóa ở các nước đang phát triển. Ở nước ta các vấn đề về MT sống nảy sinh trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hiện nay đang trở nên phức tạp cả về quy mô và tính chất. Nguy cơ cạn kiệt một số nguồn TNTN do các hoạt động sản xuất và dân sinh, vấn đề ô nhiễm MT do tác động của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; nguy cơ suy giảm đa dạng sinh học chủ yếu do các hoạt động sản xuất và dân sinh… phải được coi là những vấn đề cấp bách và phải có những biện pháp khắc phục. Các biện pháp được tác giả đưa ra nhằm PTBV khu vực nông nghiệp, nông thôn trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay là: Phát triển, ứng dụng KH và CN cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn; phát
  • 20. 16 triển nguồn nhân lực chất lượng cao; quán triệt mục tiêu bảo vệ MT trong xây dựng, triển khai thực hiện các chính sách, dự án phát triển kinh tế. Tác giả Trần Đắc Hiến trong bài viết“Ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay - Thực trạng và một số giải pháp khắc phục” [64] cho rằng, một trong những vấn đề gây bức xúc dư luận trong thời gian qua là ô nhiễm MT. Nguyên nhân của tình trạng này được khẳng định là do các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người như nước, chất thải của các khu công nghiệp, các làng nghề, các khu đô thị đổ trực tiếp ra MT. Trên cơ sở đó, tác giả kết luận: các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cần phải có những điều chỉnh kịp thời theo hướng chú trọng công tác bảo vệ MT; công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục nhân dân bảo vệ MT và thực hiện điều chỉnh quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, làng nghề… phải được coi là các giải pháp chủ đạo để giải quyết vấn nạn ô nhiễm môi trường ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Tác giả Chu Thái Thành trong bài viết “Mấy vấn đề về phát triển bền vững” [124], xuất phát từ khía cạnh PTBV trên cơ sở kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST, tác giả đã coi phát triển kinh tế, dân số, TNTN và bảo vệ MTST là bốn trụ cột của một căn nhà. Tác giả khẳng định phát triển kinh tế phải gắn với bảo vệ MTST, đó là đòi hỏi tất yếu khách quan của PTBV và sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Một số giải pháp cho vấn đề PTBV được tác giả đề cập tới trong bài viết này là: thực hiện chiến lược quốc gia về tài nguyên MT; thực hiện các dự án về cải tạo, bảo vệ TN - MT, giữ gìn đa dạng sinh học; chấm dứt tình trạng làm suy thoái tài nguyên, quy hoạch cơ cấu sản xuất để đảm bảo gắn TTKT với bảo vệ MTST. Ngoài các bài viết dưới dạng tạp chí, còn có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về mối quan hệ giữa TTKT với bảo vệ MTST. Dưới đây là một trong số các công trình đó. Luận án tiến sỹ khoa học kinh tế với tiêu đề “Sự phát triển của thương mại tự do trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay với vấn đề
  • 21. 17 bảo vệ môi trường sinh thái” của tác giả Trương Mạnh Tiến [131]. Các vấn đề được tác giả đề cập trong luận án là: Xuất phát từ mục đích, đối tượng và phù hợp với chuyên ngành kinh tế học, tác giả đã luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về tự do thương mại và bảo vệ MTST ở nước ta. Thông qua nghiên cứu về nền kinh tế thị trường và quá trình tự do hoá thương mại, tác giả phân tích liên kết xã hội - kinh tế - môi trường sinh thái và chỉ ra rằng quá trình TTKT chỉ có thể đạt được khi có sự bền vững về MTST. Theo tác giả, con đường khả thi duy nhất để TTKT lâu bền là cân bằng các nguồn lực kinh tế, sinh thái, con người. Trên cơ sở đánh giá những hậu quả về mặt MT của các chính sách kinh tế như tự do hoá thương mại gây ra. Tác giả Trương Mạnh Tiến cho rằng, quy mô hoạt động thương mại tăng, sẽ dẫn đến việc sử dụng các nguồn TNTN và ô nhiễm MTST cũng tăng theo. Trong khi khẳng định bảo vệ MTST “được hiểu là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên” [131, tr. 40], tác giả đồng thời nhấn mạnh tự do hoá thương mại và bảo vệ MTST phải được thừa nhận như một tất yếu khách quan nhằm đảm bảo thúc đẩy kinh tế tăng trưởng qua hoạt động tự do hoá thương mại và bảo vệ nguồn vốn đầu vào cho quá trình tăng trưởng đó. Nghiên cứu của tác giả Trương Mạnh Tiến cũng chỉ ra những ảnh hưởng của quá trình phát triển tự do thương mại tới MTST trong thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở nước ta. Sau khi phân tích thực trạng nền kinh tế và hoạt động thương mại, cùng với thực trạng MTST ở nước ta, tác giả đã rút ra kết luận, sự phát triển tự do thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta có ảnh hưởng rõ rệt tới MTST. Các hoạt động tự do hoá thương mại như nhập rác thải công nghiệp, xuất khẩu gỗ, thuỷ hải sản… đã để lại nhiều hậu quả về MTST. Nhu cầu sử dụng chất đốt, năng lượng,
  • 22. 18 nguyên liệu cho các ngành công nghiệp gia tăng đều là nguyên nhân chính làm cho MTST bị ô nhiễm, TNTN bị khai thác triệt để. Từ các nội dung trên, tác giả Trương Mạnh Tiến đã chỉ ra các mục tiêu, chiến lược phát triển thương mại đến năm 2010, nêu lên các giải pháp cơ bản để bảo vệ MTST trong điều kiện tự do hoá thương mại ở nước ta như: Hoàn thiện cơ chế quản lý và chính sách nhà nước ở tầm vĩ mô; hoàn thiện cơ chế quản lý, chính sách và biện pháp về MT và thương mại; thành lập hội đồng doanh nghiệp vì sự PTBV; củng cố bộ máy tổ chức bảo vệ MT ở trung ương và địa phương; đẩy mạnh công tác GD, ĐT, bảo vệ môi trường… Luận án tiến sỹ triết học “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền” [47], tác giả Bùi Văn Dũng đã luận giải sâu sắc các vấn đề sau: Ở nội dung nghiên cứu thứ nhất: “Tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái” [47, tr.11], tác giả Bùi Văn Dũng đã nêu ra và so sánh hai khái niệm TTKT, phát triển kinh tế. Từ đó, đi tới kết luận, các nhân tố quyết định tới sự TTKT là: số lượng, chất lượng nguồn nhân lực; số lượng, chất lượng nguồn tài nguyên; mức độ tích luỹ vốn và sự đổi mới công nghệ. Nội dung nghiên cứu thứ hai của tác giả Bùi Văn Dũng là: “phát triển lâu bền: sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường” [47, tr.48], tác giả đã chứng minh phát triển lâu bền là sự thống nhất giữa TTKT với bảo vệ môi trường. Qua việc làm rõ mâu thuẫn giữa TTKT và bảo vệ MT, tác giả khẳng định hệ thống “tự nhiên - con người - xã hội” vốn có sự gắn bó mật thiết với nhau trong một chỉnh thể, song lại có sự khác nhau qua từng giai đoạn. Ở thời kỳ đầu trong sự phát triển của nền văn minh loài người, các lực lượng tự nhiên gần như thống trị con người, sau đó, do sự phát triển của công cụ lao động con người đã học cách chế ngự tự nhiên, thiết lập “sự thống trị” của mình đối với tự nhiên, làm xuất hiện mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên, biểu hiện cụ thể của mâu thuẫn này trong nền sản xuất vật chất là mâu thuẫn giữa TTKT với bảo vệ MT. Để giải quyết mâu thuẫn giữa TTKT với
  • 23. 19 bảo vệ MT cho sự phát triển lâu bền, tác giả đưa ra năm giải pháp cơ bản, đó là: thay đổi thái độ và hành động của con người; duy trì tỷ lệ tăng dân số một cách hợp lý; xoá bỏ nghèo nàn; mở rộng cách mạng KH và CN vào sản xuất; hoà bình và hợp tác toàn cầu; xoá bỏ chế độ người áp bức bóc lột người. Nội dung thứ ba mà tác giả Bùi Văn Dũng nghiên cứu là “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền” [47, tr.107]. Trong nội dung này, tác giả đã vạch rõ những thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển lâu bền ở Việt Nam. Về thuận lợi, tác giả cho rằng đó là: sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế từ khi đổi mới, nguồn nhân lực dồi dào… Còn về khó khăn, thách thức, theo tác giả đó là điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thế giới, yêu cầu về thể chế kinh tế, về phát triển nhanh và bền vững… Luận án còn đưa ra một số giải pháp có ý nghĩa quan trọng để nước ta có thể kết hợp tốt TTKT với bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Các giải pháp đó là: thống nhất quan điểm về sự phát triển, xây dựng đồng bộ hệ thống chính sách và pháp luật bảo vệ môi trường; thực hiện tốt chính sách dân số; đổi mới công nghệ và giải pháp về giáo dục, tuyên truyền ý thức bảo vệ môi trường cho quần chúng nhân dân. Như vậy, qua khảo sát các công trình khoa học trên, có thể rút ra các nội dung cơ bản đã được các nhà khoa học nghiên cứu, giải quyết là: Các công trình nghiên cứu đã có các hiểu đồng nhất về khái niệm MTST. Trong các công trình trên, khái niệm MTST còn được hiểu là môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái - nhân văn. Một số tác giả còn đồng nhất MTST với khái niệm môi trường. Các công trình nghiên cứu đều khẳng định hoạt động sản xuất vật chất, sinh hoạt và các hoạt động nhằm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng ô nhiễm MTST và cạn kiệt các nguồn TNTN. Các công trình nghiên cứu đã tập trung phân tích và đưa ra một số giải pháp cơ bản để có thể kết hợp một cách tốt nhất TTKT với bảo vệ MTST. Giải pháp mà các công trình nghiên cứu hướng vào là hoàn thiện cơ chế chính
  • 24. 20 sách, pháp luật về TTKT và về bảo vệ MTST; giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; giải pháp về phát triển KH và CN; giải pháp về giáo dục ý thức đạo đức sinh thái cho nhân dân, đặc biệt là các chủ doanh nghiệp. Những vấn đề trên là những gợi mở quan trọng để luận án nghiên cứu về các khái niệm TTKT, khái niệm MTST, bảo vệ MTST. Kết quả nghiên cứu của các công trình trên còn là cơ sở để luận án đi sâu phân tích về mối quan hệ biện chứng giữa TTKT với bảo vệ MTST dựa trên cách tiếp cận triết học. 1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI 1.2.1. Các nghiên cứu về vai trò của nhà nước đối với tăng trưởng kinh tế Có thể khẳng định, nghiên cứu về vai trò của nhà nước đối với TTKT là một trong những hướng nghiên cứu thu hút được sự quan tâm của khá nhiều nhà khoa học trong những năm gần đây. Điều đó thể hiện ở số lượng ngày càng nhiều bài viết đăng trên các tạp chí, các công trình nghiên cứu luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ, các loại sách tham khảo, chuyên khảo dưới góc độ nhiều chuyên ngành khác nhau như triết học, kinh tế học, kinh tế chính trị học... Cụ thể là các công trình sau: “Về chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Hậu [63]; “Vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của nhà nước đối với phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Thị Hồng [69]; “Vai trò của Nhà nước đối với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam” của tác giả Mai Lan Hương [76]; “Vai trò nhà nước đối với việc xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay” của tác giả Trần Thị Thu Hường [78]; “Quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta hiện nay” của tác giả Ngô Quang Minh [101]; “Thể chế kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam” của hai tác giả Lương Xuân Quỳ và Đỗ Đức Bình [121]; “Vai trò của nhân tố chủ quan trong việc định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển
  • 25. 21 nền kinh tế ở nước ta hiện nay” của tác giả Trần Thành [125]; “Về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường” của tác giả Lê Nguyễn Hương Trinh [143]; “Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” của tác giả Nguyễn Phú Trọng [144]… Nghiên cứu các các công trình này, tác giả luận án rút ra những kết luận sau: Các khái niệm về TTKT, kinh tế thị trường, toàn cầu hoá kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế… đã được nhiều công trình nghiên cứu đặt ra và giải quyết một cách công phu, nghiêm túc. Mặc dù các công trình đã tiếp cận khái niệm TTKT theo nhiều hướng khác nhau, song, nhìn chung đều thống nhất ở nội dung: TTKT và phát triển kinh tế là hai khái niệm không đồng nhất với nhau. TTKT và phát triển kinh tế luôn gắn liền với việc phát huy vai trò của nhà nước nhằm hoàn thiện cơ cấu kinh tế, thể chế kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống [63], [69], [78], [101], [121], [125], [143], [144]… Các nghiên cứu đã tập trung làm rõ sự thay đổi vai trò của Nhà nước ta từ khi đất nước thực hiện đổi mới mô hình phát triển kinh tế. Nền kinh tế thị trường luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm xây dựng, hoàn thiện theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế, vai trò, chức năng quản lý của nhà nước ngày càng được điều chỉnh theo xu thế phát triển [63], [69], [76], [78]… Tác giả Nguyễn Phú Trọng khẳng định, việc nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường, không những hướng tới mục đích hạn chế các khuyết tật của kinh tế thị trường, mà còn duy trì sự ổn định để kinh tế thị trường hoạt động và phát triển. Ngày nay, có nhiều mô hình kinh tế thị trường khác nhau trên thế giới, mặc dù mức độ và hình thức can thiệp của nhà nước vào các mô hình kinh tế có khác nhau, nhưng đều là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước [144]. Các nghiên cứu còn khẳng định, nhà nước có tác động lớn tới TTKT. Thông qua các thể chế kinh tế, nhà nước đã tạo ra một hành lang pháp lý, một sân chơi ngày càng bình đẳng cho các chủ thể kinh tế tham gia thị trường, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khơi dậy các tiềm năng, sức sáng tạo của các nguồn lực vào phát triển kinh tế, tạo
  • 26. 22 ra các thành tựu to lớn về TTKT. Các tác giả quả quyết, nhờ có vai trò kinh tế của nhà nước mà nền kinh tế nước ta đã có sự tăng trưởng nổi bật, GDP không ngừng nâng cao, cơ cấu lao động có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, các cân đối vĩ mô của nền kinh tế cơ bản được giữ ổn định, tạo môi trường và điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, cũng không phải là không có những hạn chế trong việc thực hiện vai trò quản lý kinh tế của nhà nước [69], [76], [78], [121], [122]… Một số nghiên cứu còn cho thấy, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan và điều đó dẫn đến hầu hết mọi nền kinh tế tham gia vào guồng quay của nó. Việt Nam đã hội nhập với kinh tế thế giới, do đó, không thể thiếu bàn tay can thiệp của nhà nước. Để nâng cao vai trò nhà nước trong hội nhập kinh tế quốc tế, các công trình đều cho rằng Nhà nước cần thực hiện tốt các giải pháp: tiếp tục triển khai chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, hội nhập sâu và đầy đủ hơn với kinh tế quốc tế; đẩy mạnh tăng cường thu hút vốn đầu tư; hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những cam kết quốc tế; tiếp tục đổi mới phương thức và chức năng quản lý kinh tế của nhà nước phù hợp với các nguyên tắc quốc tế…[76], [78]. Các nghiên cứu còn chỉ ra rằng so với yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh mới, bên cạnh ưu điểm, vai trò của nhà nước trong điều tiết nền kinh tế còn bộc lộ nhiều yếu kém. Chẳng hạn, hệ thống luật pháp còn thiếu và chưa đồng bộ so với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường; một số chính sách ban hành chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa mục tiêu kinh tế với các mục tiêu bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ MTST; sự quản lý của nhà nước ở các thị trường vốn, thị trường sức lao động, thị trường KH và CN… còn lúng túng, thiếu tính chuyên nghiệp. Đó được coi là những nguyên nhân cơ bản làm cho kinh tế tăng trưởng chưa vững chắc, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chưa hợp lý, sự phát triển thiếu tính bền vững: hiệu quả sử dụng vốn thấp, tình trạng khai thác cạn kiệt tài nguyên và gây ô nhiễm MTST vẫn còn phổ biến, sự phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng trong xã hội gia tăng [63], [69], [76], [78], [121], [122], [126], [141]…
  • 27. 23 Từ việc phân tích các ưu, khuyết điểm trong năng lực quản lý kinh tế của nhà nước, các nghiên cứu đã đưa ra các giải pháp khác nhau nhằm thúc đẩy hiệu lực, hiệu quả vai trò của nhà nước trong tổ chức điều hành nền kinh tế. Các giải pháp đó phần lớn tập trung vào vấn đề tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức về nền kinh tế thị trường thời kỳ hội nhập; hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách kinh tế đồng bộ, phù hợp với cơ chế thị trường; cải cách, hoàn thiện thể chế hành chính… [63], [68], [69], [102], [121], [126], [141]… 1.2.2. Các nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong bảo vệ môi trường sinh thái Do vị trí, tầm quan trọng đặc biệt của MTST đối với nền sản xuất xã hội và với sức khoẻ của con người nên vấn đề bảo vệ MTST và vai trò của nhà nước trong việc bảo vệ MTST đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều chuyên ngành với phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Dưới dạng các bài báo có: “Vai trò của nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ môi trường” của tác giả Lê Thị Thanh Hà [59]; “Từ cảnh báo của Ăngghen về thảm hoạ thiên nhiên nghĩ về vai trò của nhà nước đối với bảo vệ môi trường sinh thái” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Lan [81]; “Quản lý, bảo vệ môi trường - hiện trạng và giải pháp” của tác giả Trần Thanh Lâm [83]; “Vấn đề quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi)” của tác giả Phạm Hữu Nghị [104]... Ở cấp độ rộng hơn, có các nghiên cứu dưới dạng sách tham khảo, chuyên khảo, luận án: “Những tác động của yếu tố văn hoá - xã hội trong quản lý nhà nước đối với tài nguyên - môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của tác giả Hoàng Hữu Bình [5]; “Nhà nước Việt Nam đối với vấn đề bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn” của tác giả Lê Thị Thanh Hà [60]; “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, của Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương [71]; “Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế” của tác giả Trần Thanh Lâm [84];
  • 28. 24 “Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường” của hai tác giả Nguyễn Thị Thơm và tác giả An Như Hải [128]; “Quản lý nhà nước đối với tài nguyên và môi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội - nhân văn” của tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm [141]... Những vấn đề tác giả luận án rút ra qua nghiên cứu, tìm hiểu các công trình khoa học này là: Các công trình khoa học trên đều tập trung tìm hiểu chủ thể giữ vai trò quan trọng nhất trong việc thúc đẩy quá trình bảo vệ MTST là nhà nước và đưa ra các quan niệm khác nhau về quản lý nhà nước đối với TN - MT. Quan niệm thứ nhất: Quản lý MT là sự tác động liên tục, có tổ chức và hướng đích của chủ thể quản lý MT lên cá nhân hoặc cộng đồng người tiến hành các hoạt động phát triển trong hệ thống MT và khách thể quản lý MT, sử dụng một cách tốt nhất mọi tiềm năng, cơ hội nhằm đạt được mục tiêu quản lý MT đã đề ra, phù hợp với pháp luật hiện hành. Quan niệm thứ hai: Quản lý nhà nước đối với TN - MT là một quá trình mà ở đó, nhà nước sử dụng cách thức, công cụ, phương tiện khác nhau, vận dụng những quy luật vận động khác nhau của thế giới vật chất, tác động đến các hoạt động của con người nhằm làm hài hoà mối quan hệ giữa TN - MT và phát triển, với mục đích thoả mãn nhu cầu về mọi mặt của con người, đồng thời đảm bảo chất lượng MT sống... Quản lý TN - MT không chỉ là hoạt động liên tục, có tổ chức mà phải thường xuyên, lâu dài. Quản lý TN - MT có nhiều hình thức khác nhau, song quản lý nhà nước về TN - MT giữ vai trò quan trọng nhất. Các nghiên cứu khẳng định ở Việt Nam TNTN là tài sản quốc gia, thuộc sở hữu toàn dân nhưng do Nhà nước là chủ đại diện. Nhà nước không thể giao quyền quản lý TNTN và MT cho bất kỳ đối tượng nào khác, quyền và trách nhiệm đó phải thuộc về nhà nước [59], [61], [84], [104], [128]. Một số nghiên cứu xuất phát từ phân tích thực trạng của lực lượng sản xuất ở nước ta đã khẳng định, quản lý nhà nước về TN - MT còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, do đó, với tư cách là chủ thể sở hữu cao nhất và duy nhất về TNTN cũng như các thành phần MT, Nhà nước
  • 29. 25 ta phải thực hiện chức năng tổ chức quản lý, điều hành, kiểm tra, giám sát việc khai thác, sử dụng TNTN và các điều kiện tự nhiên nhằm sử dụng hợp lý, tiết kiệm TNTN và bảo vệ MTST để phát triển KT - XH ở cả hiện tại lẫn trong tương lai [59], [61], [84], [104], [128], [141]. Các nghiên cứu đều tập trung phân tích, chỉ ra thực trạng hiệu lực, vai trò quản lý của Nhà nước về TN - MT ở nước ta. Các nghiên cứu đều cho thấy Nhà nước ta giữ vai trò quan trọng trong việc đề ra chủ trương, chính sách, pháp luật, hướng dẫn các cá nhân và tổ chức thực hiện pháp luật về TN - MT; tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác quản lý TN - MT từ cấp trung ương đến địa phương và thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, giảm sát việc thực hiện pháp luật TN - MT [59], [61], [71], [84], [104], [141]. Các nghiên cứu còn đưa ra quan điểm, mục tiêu và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về MT ở Việt Nam như: tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách bảo vệ MT; tăng cường chế tài xử phạt vi phạm pháp luật về bảo vệ TN - MT; tiếp tục hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về TN - MT ở các cấp; nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ MT cho quần chúng nhân dân, sử dụng hợp lý các nhân tố kinh tế và con người trong quản lý nhà nước về TN - MT; xây dựng ý thức sinh thái cho nhân dân... [5], [59], [61], [71], [81], [84], [104], [128], [141]. Kết luận chương 1 Những vấn đề: TTKT, bảo vệ MTST và vấn đề liên quan tới vai trò của nhà nước trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST đã được các nhà nghiên cứu tiếp cận và giải quyết dưới nhiều góc độ khác nhau. Sau khi nghiên cứu các công trình đó, tác giả luận án rút ra được những kết luận sau: Một là: Các công trình khoa học trên đều có ý nghĩa nhất định về mặt lý luận và thực tiễn. Những giá trị khoa học của các công trình này đã tạo ra những gợi mở quan trọng để tác giả luận án triển khai kết quả nghiên cứu theo hướng mới. Các giá trị khoa học của các công trình được luận án tiếp thu, kế thừa bao gồm các nội dung:
  • 30. 26 Dựa trên kết quả nghiên cứu thực tiễn, các công trình khoa học đã công bố và đưa ra được bức tranh sinh động về mối quan hệ biện chứng giữa TTKT với bảo vệ MTST. Đặc biệt, các nghiên cứu đã chứng minh lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa con người với tự nhiên thông qua hoạt động thực tiễn sản xuất vật chất và bảo vệ MTST một cách sinh động. Kết quả khoa học của các công trình này là tư liệu quan trọng và hữu ích để luận án đề xuất cách tiếp cận mới về mối quan hệ giữa TTKT với bảo vệ MTST. Các công trình đã nghiên cứu phân tích, làm rõ vai trò quan trọng của nhà nước trong TTKT cũng như trong quản lý TN - MT. Các nghiên cứu đã đi sâu lý giải vai trò của nhà nước với tư cách là chủ thể có quyền lực cao nhất và duy nhất có khả năng bảo đảm quản lý sử dụng nguồn TNTN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Do đó, Nhà nước phải được coi là chủ thể tiên quyết đề ra các chủ trương, chính sách, pháp luật để dẫn dắt nền kinh tế tăng trưởng và bảo vệ MTST vì sự PTBV đất nước. Những giá trị khoa học này có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng, là tiền đề để luận án phân tích sâu sắc hơn cơ sở triết học của vai trò nhà nước trong việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST. Các công trình nghiên cứu đã đề xuất những giải pháp quan trọng mà nhà nước cần phải làm để thực hiện tốt chức năng “bà đỡ” của mình. Một số giải pháp về xây dựng chính sách, pháp luật đồng bộ, về quản lý điều hành kinh tế, môi trường, giải pháp về giáo dục ý thức môi trường, đạo đức sinh thái... là những hướng gợi mở quan trọng để luận án đề xuất những giải pháp cơ bản giúp Nhà nước kết hợp đồng bộ TTKT và bảo vệ MTST. Hai là: Vấn đề kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST và chỉ ra vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp đó là một vấn đề hết sức mới mẻ. Tất cả các công trình nghiên cứu trước đó đã nghiên cứu và giải quyết theo hai hướng chủ yếu hoặc là chỉ ra vai trò của nhà nước trong TTKT, hoặc là chỉ ra vai trò của nhà nước trong bảo vệ MTST. Việc nghiên cứu vai trò của nhà nước trong việc kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST với cách tiếp cận triết học thì
  • 31. 27 hầu như chưa có công trình nào chỉ ra một cách hệ thống. Do đó, hướng nghiên cứu và cách tiếp cận vấn đề này trong luận án là hoàn toàn mới mẻ. Để góp phần làm sâu sắc thêm một nội dung quan trọng trong quản lý nhà nước về các vấn đề KT - XH, luận án đi sâu vào ba nội dung cơ bản sau: Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu đã có, luận án góp phần làm rõ hơn quan hệ biện chứng giữa TTKT và bảo vệ MTST cũng tính tất yếu của việc kết hợp TTKT với bảo vệ MTST. Chỉ ra những nội dung thể hiện vai trò của nhà nước trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST và những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao vai trò của Nhà nước Việt Nam trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST ở nước ta hiện nay. Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước Việt Nam trong kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST.
  • 32. 28 Chương 2 KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI - YÊU CẦU CỦA SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG SỰ KẾT HỢP ĐÓ 2.1. KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI - YÊU CẦU CỦA SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 2.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái 2.1.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Mặc dù xuất hiện khá sớm trong lịch sử, nhưng chỉ khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thiết lập được địa vị thống trị, thì khi ấy khái niệm TTKT mới thực sự được định hình rõ nét. Trong điều kiện đó, những thành quả kinh tế của nhân loại nói chung và chủ nghĩa tư bản nói riêng đã tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong toàn bộ đời sống xã hội. Chính C.Mác là người nhận thức rõ điều này khi ông viết: Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại. Sự chinh phục những lực lượng thiên nhiên, sự sản xuất bằng máy móc, việc áp dụng hoá học vào công nghiệp và nông nghiệp, việc dùng tàu chạy bằng hơi nước, đường sắt, máy điện báo, việc khai phá từng lục địa nguyên vẹn, việc khai thông các dòng sông cho tầu bè đi lại được, hàng khối dân cư tựa hồ như từ dưới đất trồi lên, có thế kỷ nào trước đây lại ngờ được rằng có những lực lượng sản xuất như thế vẫn nằm tiềm tàng trong lòng lao động xã hội! [91, tr.603]. Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, các nhà kinh tế học tư sản đã dành nhiều thời gian nghiên cứu quá trình tăng trưởng của nền kinh tế tư bản chủ
  • 33. 29 nghĩa và đưa ra các quan niệm khác nhau về TTKT. Trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc”, Adam Smith cho rằng, TTKT là tăng đầu ra theo đầu người, hoặc tăng sản phẩm lao động; nguồn gốc của TTKT là tích lũy tư bản [theo 57]. Còn David Ricardo, trong tác phẩm nổi tiếng “Các nguyên tắc của chính trị kinh tế học và thuế khóa” cho biết, các yếu tố cơ bản của TTKT là đất đai, lao động và vốn, trong đó đất đai là yếu tố quan trọng nhất, là giới hạn của sự tăng trưởng [theo 57]. Kế thừa tư tưởng của D.Ricardo, C.Mác khẳng định không chỉ có đất đai, sức lao động, vốn mà tiến bộ kỹ thuật cũng là một trong các yếu tố thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Nếu D.Ricardo nhấn mạnh tới yếu tố đất đai như là yếu tố quan trọng hàng đầu của TTKT thì C.Mác lại đặc biệt quan tâm đến yếu tố sức lao động, vì theo ông đó là yếu tố tạo ra giá trị thặng dư. C.Mác cho rằng, muốn tăng tổng sản phẩm xã hội tạo nên TTKT thì phải tăng quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, tăng cường bóc lột giai cấp công nhân. Tuy nhiên, ông cũng thấy rằng, lao động cơ bắp của người công nhân là có giới hạn, vì vậy, để tăng giá trị thặng dư, các nhà tư bản còn phải tăng năng suất lao động nhờ vào quá trình cải tiến công cụ, kỹ thuật. Thực tiễn phát triển của chủ nghĩa tư bản vào những năm đầu thế kỷ XX, đặc biệt là cuộc khủng hoảng 1929-1933, một số lý thuyết về TTKT tiếp tục được bổ sung và phát triển. John Maynard Keynes là được coi là người đặt nền móng cho các lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại. Trong tác phẩm “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ”, ông cho rằng, vấn đề việc làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến vấn đề tăng, giảm của thu nhập và tiêu dùng. Trong trường hợp thu nhập giảm, cầu tiêu dùng giảm tương đối, sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, đầu tư được thu hẹp và nạn thất nghiệp theo đó sẽ gia tăng. Vì vậy, để điều chỉnh sự thiếu hụt của cầu tiêu dùng, cần phải tăng đầu tư. Mỗi sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo cầu bổ sung về công nhân và tư liệu sản xuất, khi việc làm gia tăng, thu nhập quốc dân cũng tăng theo [theo 57]. Đến cuối những năm 50 của thế kỉ XX, cuộc cách mạng KH và CN hiện đại bắt đầu phát triển mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu rộng, nhà kinh tế học
  • 34. 30 Mỹ Rober Solow, trên cơ sở nghiên cứu kinh tế xã hội tư bản đã khẳng định các yếu tố cơ bản của TTKT gồm có vốn, lao động, tiến bộ CN. Trong đó, yếu tố quyết định đến sự TTKT phải là tiến bộ CN mà kinh tế tri thức là nền tảng ban đầu. Theo R.Solow thì thành tựu kiến thức cũng như việc áp dụng những thành tựu ấy vào cải tiến công cụ lao động sẽ làm tăng năng suất lao động, sản phẩm sản xuất ra cũng tốt hơn, đa dạng hơn. R.Solow cũng cho rằng, có được sự tăng trưởng bình quân đầu người trong dài hạn, người ta phải nhờ vào sự tiến bộ của KH và CN [theo 57]. Từ cuối những năm 1980 đến nay, lý thuyết tăng trưởng mới - mô hình tăng trưởng nội sinh ra đời với mục đích thúc đẩy TTKT. Mô hình này đề cao vai trò tác động của chính phủ đến TTKT ở cả hai trường hợp tốt và xấu. Chính sách của chính phủ có thể tác động đến tăng trưởng dài hạn, bởi lẽ những hành vi đánh thuế, bảo hộ sở hữu trí tuệ, điều chỉnh, duy trì pháp luật và trật tự… có thể tác động tới các hoạt động sáng chế, phát minh [theo 57]. Như vậy, TTKT là khái niệm đã thực sự được bàn đến từ thế kỷ XVIII. Từ đó đến nay khái niệm này luôn được bổ sung, phát triển theo các hướng khác nhau. Mặc dù có điểm chung là cố gắng chỉ ra căn nguyên cơ bản của TTKT, song hầu hết các quan điểm trên mới chỉ nhấn mạnh đến những yếu tố kinh tế đơn thuần, ít cắt nghĩa về sự tác động của các yếu tố xã hội đến nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế. Ở Việt Nam, khái niệm TTKT được hiểu theo nhiều lát cắt khác nhau Theo lát cắt kinh tế, TTKT “là khái niệm diễn tả động thái của kinh tế phát triển, đó là việc mở rộng sản lượng quốc gia tiềm năng qua thời gian của một nước, hay là mở rộng khả năng kinh tế để sản xuất, di chuyển giới hạn khả năng sản xuất qua thời gian” [44, tr.14]. Hiểu theo nghĩa rộng, TTKT “là sự tăng thêm về quy mô, sản lượng hàng hoá và dịch vụ trong một thời kì nhất định (thường là một năm). Đó là kết quả được tạo ra bằng tất cả các hoạt động dịch vụ của nền kinh tế” [68, tr.37]. Hiện nay, một số nhà khoa học còn cho rằng, TTKT “là một khái niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự gia tăng về
  • 35. 31 quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kì nhất định. Các chỉ tiêu để đo tăng trưởng kinh tế thường được sử dụng là mức tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), GDP và GNP bình quân đầu người cùng một số chỉ tiêu kinh tế tổng hợp khác” [144, tr.155]. Điểm giống nhau của các định nghĩa trên là đều có chung một nhận định: TTKT là mức tăng sản lượng thực tế trong một thời kì nhất định. Các chỉ tiêu GDP, GNP, GDP bình quân đầu người thường được sử dụng để đánh giá về mức độ tăng trưởng cao hay thấp của nền kinh tế. Nếu tốc độ tăng GDP, GNP, GDP bình quân đầu người thời kì sau cao hơn thời kì trước thì nền kinh tế có sự tăng trưởng và ngược lại nền kinh tế đang sút giảm. Như vậy, theo các quan niệm trên, khái niệm TTKT mới chỉ nói lên mặt lượng trong quá trình phát triển của nền kinh tế. TTKT chưa phải là phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế là “sự gia tăng cả về số lượng và chất lượng của nền kinh tế quốc dân trong một thời kì nhất định. Các chỉ tiêu phản ánh phát triển kinh tế là hiệu quả của nền kinh tế, hiệu quả đầu tư, cơ cấu kinh tế, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế so với các nước khác trong khu vực và thế giới” [127, tr.17]. Với nghĩa này, TTKT và phát triển kinh tế nằm trong mối quan hệ tác động qua lại với nhau. TTKT phản ánh sự đi lên về mặt lượng của nền kinh tế, còn phát triển kinh tế cho thấy cả mặt chất trong quá trình đi lên của nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần, cơ bản để phát triển kinh tế. Nếu không có TTKT thì sẽ không có phát triển kinh tế. TTKT giúp cho sản phẩm làm ra ngày một nhiều, việc làm và thu nhập trong xã hội tăng lên, xã hội có thêm điều kiện vật chất để đảm bảo các vấn đề an sinh xã hội như GD và ĐT, chăm sóc sức khỏe, bảo vệ MTST… Nhưng, nếu kinh tế có sự tăng trưởng mà nạn thất nghiệp tăng, MTST bị hủy hoại, các tệ nạn xã hội gia tăng thì không thể có phát triển kinh tế. Từ đó, có thể thấy rằng, điều kiện đủ cho kinh tế phát triển là quá trình TTKT phải gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo tính cân đối, tính hiệu quả, tính mục tiêu cũng như khả năng cạnh tranh của nền kinh tế,
  • 36. 32 TTKT ở giai đoạn trước sẽ không cản trở quá trình TTKT ở giai đoạn sau. Nói cách khác, trong TTKT phải vừa có sự gia tăng về mặt số lượng, vừa đạt được sự gia tăng cần thiết về mặt chất lượng. Để có được điều này, sự gia tăng của nền kinh tế nhất thiết phải dựa trên việc khai thác các nguồn lực sẵn có từ tự nhiên và xã hội. Xuất phát các quan niệm trên có thể rút ra kết luận: Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định dựa trên việc khai thác các nguồn lực tự nhiên và xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, để có thể tăng trưởng nhanh và ở mức độ cao, mọi nền kinh tế phải dựa trên các trụ cột cơ bản như nguồn nhân lực chất lượng cao, áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại, nguồn TNTN dồi dào… Nguồn nhân lực: Ngay từ thế kỷ XVIII, các nhà kinh tế học tư sản hiện đại đã nhận thấy, nguồn lực để sản xuất ra của cải vật chất chỉ có thể là lao động và tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên đất đai. Còn chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khi phân tích phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đã khẳng định chính người lao động mới là nhân tố giữ vai trò quyết định trong sản xuất ra của cải vật chất. Đúng như quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, ngày nay, mặc dù trình độ kinh tế phát triển đã khác xa so với các giai đoạn trước nhưng nguồn lực con người vẫn là một trong các yếu tố quyết định, ưu thế của nguồn lực con người dần được khẳng định trên thực tế. Lý thuyết hiện đại về sự tăng trưởng của nền kinh tế và sự phát triển thần kỳ của nhiều nước, vùng lãnh thổ ở khu vực Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan cùng với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của nhiều nước công nghiệp mới, các nước ASEAN, Trung Quốc là những minh chứng sống động cho việc khẳng định tầm quan trọng thiết yếu của nguồn nhân lực. Tất nhiên, cái cấu thành nên giá trị nội tại của nguồn nhân lực là ở chất lượng của nó. Chất lượng nguồn nhân lực không chỉ thể hiện ở tri thức, trí tuệ, chất xám hay năng lực cơ bắp, mặc dù đó là những yếu tố cực kỳ quan trọng. Trong
  • 37. 33 nhiều trường hợp, chất lượng nguồn nhân lực còn thể hiện ở tinh thần dám nghĩ, dám làm, khả năng lao động sáng tạo và các phẩm chất đạo đức như lòng dũng cảm, trung thực, yêu lao động… Công nghệ hiện đại: Yếu tố này bao gồm cả những tiến bộ về KH và CN trong sản xuất và trong tổ chức quản lý sản xuất. Trong những thập kỷ qua, loài người đã chứng kiến sự thay đổi chưa từng thấy của KH và CN. Chúng đi sâu vào mọi ngõ ngách của nền sản xuất, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nhờ đó mà nhiều quốc gia tiến hành mở rộng quy mô sản xuất, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, trở thành các nước phát triển mạnh. Sự phát triển của KH và CN không chỉ đem lại nhiều khả năng tái sinh và bảo vệ các nguồn TNTN, mà còn giúp con người tạo ra những vật liệu mới thay thế cho các nguồn TNTN đang ngày càng khan hiếm để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng. Tất nhiên, sự phát triển của KH và CN cũng có thể tiềm ẩn những nguy cơ bất lợi cho MTST, bởi lẽ, việc ứng dụng các thành tựu của KH và CN hiện đại vào sản xuất nếu không được kiểm duyệt nghiêm ngặt sẽ có nguy cơ trở thành nhân tố tàn sát MTST nhanh hơn. Kết cấu hạ tầng hiện đại: Đây là tiền đề để mở rộng năng lực sản xuất của nền kinh tế, giúp kinh tế tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên, muốn xây dựng được kết cấu hạ tầng hiện đại, phải có tiềm năng về kinh tế nghĩa là phải có nguồn vốn đủ lớn và sử dụng vốn có hiệu quả. Đối với các nước đang phát triển như ở Việt Nam, nguồn vốn cho TTKT có được từ tích luỹ nội bộ nền kinh tế và đi vay. Việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn này sẽ đem đến khả năng tăng trưởng nhanh cho nền kinh tế. Nhưng, nếu việc huy động nhanh cả hai nguồn vốn này không cẩn thận sẽ làm phương hại đến MTST. Vì lẽ, để đẩy nhanh nguồn vốn, có thể phải chấp nhận bóc lột TNTN. Đây là nghịch lý mà trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có bàn tay can thiệp của nhà nước để lựa chọn hướng đi đúng đắn nhất, vừa duy trì sự tăng trưởng của nền kinh tế, vừa không làm tổn hại đến MTST. Tài nguyên thiên nhiên: Để sản xuất vật chất, con người phải khai thác, sử dụng những dạng vật chất khác nhau trong tự nhiên như: đất đai, rừng,
  • 38. 34 biển, khoáng sản… Do sự phát triển của KH và CN, nhiều loại vật liệu nhân tạo mới như tơ, sợi hoá học, các loại chất dẻo xuất hiện thay thế nguyên liệu truyền thống. Song, không vì thế mà giá trị của các nguồn TNTN bị mất đi. Xét đến cùng, nguyên vật liệu dùng để sản xuất ra các loại vật liệu nhân tạo mới cũng được lấy từ tự nhiên. Việc khai thác các nguồn TNTN, do đó, sẽ đem đến nhiều lợi ích to lớn cho nền kinh tế. Đương nhiên, kinh tế chỉ có thể tăng trưởng vững chắc nếu TNTN được khai thác một cách hợp lý. Ngoài các nhân tố trên, ngày nay, các nhân tố cấu thành quan hệ sản xuất và một số nhân tố khác như thể chế kinh tế, hệ thống chính trị, đặc điểm cộng đồng dân cư… cũng giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Song, xét đến cùng, các yếu tố về nguồn nhân lực, TNTN, khoa học kỹ thuật vẫn được coi là những nguồn lực chủ yếu, quyết định mức độ tăng trưởng của nền kinh tế. Nếu các nguồn lực này được đảm bảo, nền kinh tế sẽ có sự tăng trưởng bền vững. 2.1.1.2. Khái niệm môi trường sinh thái và bảo vệ môi trường sinh thái Để tìm hiểu khái niệm môi trường sinh thái, trước hết cần hiểu về khái niệm môi trường. Môi trường là khái niệm được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam, môi trường được định nghĩa “bao gồm các yếu tố tự nhiên và các yếu tố vật chất nhân tạo có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và thiên nhiên” [70, tr.940]. Hiểu theo nghĩa rộng, môi trường là khái niệm “chỉ toàn bộ các điều kiện vô cơ và hữu cơ có liên quan đến sự tồn tại và phát triển của các cơ thể sống, bao gồm tất cả những gì đang tồn tại khách quan, là toàn bộ thế giới với tất cả các hình thức biểu hiện muôn màu của nó” [45, tr.7]. Luật Bảo vệ môi trường (2005) của nước ta thì cho rằng, môi trường “bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật” [113, tr.8].
  • 39. 35 Theo quan niệm của UNESCO, MT của con người bao gồm toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, những cái hữu hình (đô thị, hồ chứa...) và những cái vô hình (tập quán, niềm tin, nghệ thuật...), trong đó con người bằng lao động, tiến hành khai thác các loại tài nguyên nhằm thoả mãn những nhu cầu của mình. Với nghĩa này, MT sống đối với con người không chỉ là nơi tồn tại, sinh trưởng, phát triển mà còn là khung cảnh của cuộc sống, của lao động và sự nghỉ ngơi của con người. Như vậy, MT là khái niệm có nội hàm rộng lớn. Từ khái niệm này người ta chia ra thành các khái niệm hẹp hơn như “môi trường tự nhiên”, “môi trường xã hội”, “môi trường nhân tạo”, “môi trường sinh thái”, “môi trường sinh thái nhân văn”… Mỗi khái niệm đó lại được nghiên cứu ở các góc độ khác nhau. Không thể đi sâu vào từng khái niệm, luận án chỉ đề cập tới những khái niệm điển hình nhất, được nhiều người thừa nhận và có mối liên quan chặt chẽ tới đối tượng nghiên cứu trong luận án. Môi trường xã hội, hiểu một cách chung nhất là tổng thể các mối quan hệ giữa các cá nhân con người, giữa các cộng đồng người với nhau và hợp lại thành quốc gia, xã hội. Từ đó hình thành nên luật lệ, thể chế, quy định, các hình thức tổ chức, các thể chế KT - XH… khác nhau. Môi trường nhân tạo là khái niệm dùng để chỉ MT do con người tạo ra, bao gồm những nhân tố vật lý, sinh học, xã hội… Các yếu tố này luôn nằm trong mối quan hệ với nhau, chịu sự chi phối của con người và phục vụ cho cuộc sống của con người cũng như của cộng đồng xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Môi trường tự nhiên là khái niệm dùng để chỉ các nhân tố, các hiện tượng tự nhiên và các loại TNTN bao quanh cuộc sống của con người như bầu khí quyển, nước, động vật, thực vật, thổ nhưỡng, khoáng sản, không khí. Các yếu tố này luôn có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Chúng tồn tại khách quan ngoài ý muốn của con người, có ảnh hưởng đến cuộc sống của con người và ít nhiều chịu sự chi phối của con người.
  • 40. 36 Ngay từ khi con người xuất hiện trên Trái Đất đã bị chi phối bởi MT tự nhiên và chính bản thân con người cũng chinh phục lại MT tự nhiên. Bởi vậy, ngày nay không có cái gọi là MT tự nhiên (theo nghĩa “nguyên thủy”, thuần túy nữa), mà phải được hiểu như là “môi trường tự nhiên - xã hội” hay “môi trường tự nhiên - người hóa”. Một khái niệm khác được hiểu trong mối tương quan với khái niệm MT tự nhiên là môi trường sinh thái. Đây cũng là khái niệm được tiếp cận theo nhiều cách khác nhau. Trên cơ sở khẳng định vai trò của MT đối với con người và xã hội, tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm định nghĩa MTST là “tất cả những điều kiện tự nhiên và xã hội, cả vô cơ và hữu cơ có liên quan đến sự sống của con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội” [138, tr.208]. Ở khía cạnh khác, MTST còn được gọi là môi trường sinh thái tự nhiên hay môi trường sinh thái - nhân văn, đó “là môi trường của sự sống hay sinh quyển, nó bao gồm một phần của tự nhiên có tồn tại sự sống” [4, tr.13]. Để làm rõ sự khác nhau giữa khái niệm MTST với khái niệm môi trường sinh thái - nhân văn, tác giả Hoàng Duy Chúc cho rằng “môi trường sinh thái là môi trường sống hay cái nhà ở của sinh vật, bao gồm tất cả các điều kiện xung quanh có liên quan đến sự sống của sinh thể” [39, tr.3]; còn “môi trường sinh thái nhân văn là tổng hợp tất cả những điều kiện tự nhiên và xã hội, cả vô cơ lẫn hữu cơ, có liên quan đến sự sống của con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội” [39, tr.3-4]. Như vậy, dù hiểu theo khía cạnh nào thì MTST vẫn được quan niệm như một chỉnh thể trọn vẹn có quan hệ với sự ổn định và phát triển của xã hội. Đó là nơi cung cấp cho con người các sản phẩm vật chất với tính cách là yếu tố đầu vào và chứa đựng các sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất. MTST không chỉ bao gồm các hợp chất vô cơ mà còn có cả các hợp chất hữu cơ có sẵn từ tự nhiên hoặc được tạo ra từ con người. Nếu trong quá trình sản xuất, con người chỉ biết khai thác triệt để các nguồn lợi từ tự nhiên mà không biết
  • 41. 37 tái tạo, phục hồi, không kiểm soát chặt chẽ đầu ra của quá trình sản xuất, các chất thải độc hại được xả thẳng ra MT, sẽ dẫn đến huỷ hoại MTST. Xuất phát từ những quan điểm trên, có thể nhận định: (1) Nói đến MTST là nói đến một bộ phận của giới tự nhiên có tồn tại sự sống; (2) MTST được cấu thành từ các yếu tố vô cơ (đất, nước, TNTN...) và hữu cơ (động - thực vật…); (3) MTST còn được gọi là môi trường sống nếu xét nó trong mối tương quan với sự sống, sự tồn tại của đối tượng vật chất sống nhất định; (4) MTST còn được gọi là “môi trường tự nhiên”, “môi trường sinh thái tự nhiên”. Dưới góc độ nghiên cứu của đề tài luận án, tác giả quan niệm rằng môi trường sinh thái được hiểu là MTST tự nhiên với tính cách là nơi cung cấp các yếu tố đầu vào cho sự tăng trưởng của nền kinh tế. Theo đó, môi trường sinh thái bao hàm các loại động, thực vật, các hệ sinh thái tự nhiên và đặc biệt là các loại TNTN như đất đai, các loại khoáng sản, nước... và đây cũng chính là các yếu tố mà luận án sẽ đề cập tới và giải quyết ở các nội dung sau. Ngày nay, MTST đã và đang nguy cơ bị lạm dụng nhiều hơn để phục vụ cho TTKT, vượt ra khỏi khuôn khổ của nó, MTST biến đổi đã đem đến nhiều bất lợi cho con người trên cả phương diện sinh hoạt lẫn sức khỏe. Do đó, bảo vệ MTST đang trở thành vấn đề cấp bách mang tính toàn cầu. Ở nước ta, thuật ngữ “Bảo vệ môi trường sinh thái” được Đảng và Nhà nước đề cập từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và được nhắc lại trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Khi chưa xuất hiện thuật ngữ này, người ta thường sử dụng thuật ngữ “Bảo vệ môi trường”, được hiểu là: Tập hợp các biện pháp giữ gìn, sử dụng và phục hồi một cách hợp lý sinh giới (vi sinh vật, động vật, thực vật) và môi sinh (đất, nước, không khí, lòng đất, khí hậu), nghiên cứu thử nghiệm thiết bị sử dụng tài nguyên thiên nhiên, áp dụng công nghệ ít có và không có phế liệu… nhằm tạo ra không gian tối ưu cho cuộc sống của con người. Bảo vệ môi trường địa lý là những vấn đề trước mắt và lâu dài mà toàn thể các cộng đồng phải giải quyết ở quy mô toàn cầu; nhằm sử