SlideShare una empresa de Scribd logo
1 de 80
LUẬN VĂN:
Hoàn thiện pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu
của nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ lâu, hợp đồng đã trở thành một công cụ pháp lý để xác lập quan hệ của các chủ
thể phát sinh từ các giao lưu dân sự, kinh tế. Chúng ta đều biết rằng, nhu cầu của các tổ
chức và cá nhân trong đời sống xã hội vô cùng đa dạng và phong phú. Để đáp ứng nhu cầu
đó, con người phải quan hệ với nhau thông qua các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa,
vật phẩm. Công việc của các bên được thực hiện thông qua những cam kết đó là hợp đồng.
Như vậy, hợp đồng thể hiện trong hầu hết các quan hệ mua bán của các bên trong nhiều
lĩnh vực như dân sự, kinh tế, nghiên cứu khoa học... Chính vì vậy, việc áp dụng những giao
dịch, cũng như các nhu cầu về vận dụng pháp luật của nhà nước để đảm bảo quyền và
nghĩa vụ của các bên khi tham gia ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng cũng như giải
quyết những tranh chấp liên quan đến hợp đồng là hết sức cần thiết. Đặc biệt trong nền
kinh tế thị trường, khi mà các quan hệ dân sự kinh tế càng trở nên phức tạp và trong điều
kiện nước ta đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
thì yêu cầu này càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Điều này đã được minh chứng trong
chính các quy định của nhiều văn bản pháp luật, như Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, Bộ
luật Hàng hải Việt Nam... Riêng Bộ luật Dân sự bao gồm 215 điều quy định về hợp đồng
dân sự trên tổng số 777 điều luật, chúng ta có thể thấy được tính phức tạp, đa dạng cũng
như mức độ quan trọng của quan hệ hợp đồng. Ngoài ra, Bộ luật Dân sự còn chứa đựng rất
nhiều quy định có liên quan đến hợp đồng.
Tuy hợp đồng là sự thỏa thuận tự nguyện của các bên nhưng để sự tự nguyện đó
không không ảnh hưởng tới lợi ích của người khác và lợi ích của cộng đồng thì cần thiết
có sự điều chỉnh của pháp luật.
Trải qua các thời kỳ kinh tế - xã hội, pháp luật về hợp đồng của Việt Nam cũng
có nhiều thay đổi. Trong thời kỳ kinh tế tập trung (trước năm 1986) vấn đề hợp đồng chủ
yếu mang tính hành chính mà tập trung nhiều và biểu hiện rõ nét đó là các hợp đồng theo
chỉ tiêu pháp lệnh mà không thể hiện đúng bản chất của hợp đồng. Sự ra đời của Pháp
lệnh Hợp đồng kinh tế, Pháp lệnh Hợp đồng dân sự, Bộ luật Dân sự năm 1995 và đặc biệt
sự ra đời Bộ luật Dân sự năm 2005, chế định hợp đồng đã được hoàn thiện ở một mức độ
cơ bản.
Mặc dù Bộ luật Dân sự năm 2005 có nhiều quy định mới tiến bộ về hợp đồng nhưng
việc áp dụng trong thực tế đang bộc lộ những điểm bất cập, những thiếu sót hạn chế. Thực tế
đó đã đặt ra nhu cầu phải nghiên cứu làm rõ các quy định mới của Bộ luật dân sự 2005 liên
quan đến hợp đồng; đánh giá sự tác động của chúng đến thực tiễn ký kết và thực hiện hợp
đồng, phát hiện những quy định bất hợp lý và từ đó đề xuất khắc phục nhằm nâng cao hiệu
quả điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ hợp đồng, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị
trường…
Xuất phát từ lý do như vậy mà học viên đã chọn đề tài: "Hoàn thiện pháp luật
hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay" làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khoa học pháp lý Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới các vấn
đề khác nhau của hợp đồng như: đề tài luận án tiến sĩ "Chế độ hợp đồng trong nền kinh tế
thị trường ở giai đoạn hiện nay" của tác giả Phạm Hữu Nghị, Hà Nội, 1996; Đề tài luận
án tiến sĩ "Xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế nhằm bảo đảm quyền tự do kinh
doanh ở nước ta" của tác giả Bùi Ngọc Cường, 2001; Đề tài luận văn thạc sĩ "Hợp đồng
kinh doanh vô hiệu và hậu quả pháp lý của nó" của tác giả Lê Thị Bích Thọ, 2002; Công
trình nghiên cứu khoa học "Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về giao dịch dân sự vô
hiệu tại Tòa án nhân dân" của tác giả Nguyễn Văn Luật, 2003; "Hợp đồng kinh doanh vô
hiệu: Lý luận và thực tiễn", Tài liệu Hội thảo về việc xử lý hợp đồng vô hiệu, Diễn đàn
doanh nghiệp và Câu lạc bộ Luật gia Việt - Đức, Hà Nội... và nhiều công trình của nhiều
tác giả khác. Các công trình nghiên cứu trước đây là nguồn tài liệu quan trọng, có giá trị
tham khảo và cung cấp những luận cứ khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
Tuy nhiên, kể từ sau ngày Bộ luật Dân sự năm 2005 có hiệu lực, chưa có một
công trình nào đề cập hệ thống và toàn diện về hợp đồng cũng như điều chỉnh pháp luật
đối với quan hệ hợp đồng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Luận văn đặt mục đích nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận về pháp luật đối với
quan hệ hợp đồng, đánh giá thực trạng pháp luật về hợp đồng trong điều kiện thi hành Bộ
luật Dân sự 2005, đồng thời chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong thực tế áp dụng pháp
luật. Trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật hợp đồng để nâng cao
hiệu quả áp dụng của pháp luật về hợp đồng trong thực tiễn.
Với mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Làm rõ vai trò của pháp luật trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng;
- Xác định cấu trúc pháp luật về hợp đồng trong điều kiện thực hiện Bộ luật Dân
sự 2005;
- Đánh giá thực trạng pháp luật đối với quan hệ hợp đồng ở Việt Nam;
- Đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật hợp đồng đáp ứng yêu
cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận chung về pháp luật đối với
hợp đồng, các quy định pháp luật liên quan đến ký kết, thực hiện hợp đồng, vấn đề hợp đồng
vô hiệu và trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu ở thực trạng của pháp luật đối với ký kết hợp
đồng ở Việt Nam hiện nay, hiệu lực của hợp đồng, nghĩa vụ và tài sản của các bên trong
hợp đồng nhằm bảo đảm hợp đồng là một công cụ hiệu quả trong việc bảo vệ lợi ích hợp
pháp của đôi bên, công cụ để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó, để thực hiện các nhiệm
vụ nghiên cứu cụ thể, luận văn còn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau
như phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tiễn.
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn có một số đóng góp mới về lý luận và thực tiễn như sau:
Thứ nhất, luận văn đi sâu phân tích những quy định của pháp luật về hợp đồng để
từ đó nêu lên được những thiếu sót và bất cập đối với pháp luật về hợp đồng trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, luận văn đề xuất một số định hướng và giải pháp trong việc xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về hợp đồng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu tổng hợp lý luận ở chương một, phân tích thực trạng ở
chương hai và những giải pháp của chương ba của luận văn đã góp phần cung cấp những
luận cứ khoa học để thấy rõ vai trò của hợp đồng cũng như pháp luật về hợp đồng trong
đời sống giao lưu kinh tế và đặc biệt là các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
Cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật về hợp đồng trong nền kinh tế việt nam hiện nay
1. khái niệm, đặc điểm, phân loại, vai trò của hợp đồng
1.1.1. Khái niệm và những đặc điểm của hợp đồng
1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng
Cơ sở cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của hợp đồng đã hình thành và phát triển
hàng nghìn năm nay. Nó tồn tại và phát triển trong xã hội phương Tây, xã hội phương
Đông hay cả chính xã hội như Bắc Mỹ, châu úc. Như vậy, để tìm hiểu thể nào là hợp
đồng, cơ sở cho sự hình thành hợp đồng cũng như sự ra đời của pháp luật về hợp đồng,
trước hết ta khái quát tóm lược những quan điểm về hợp đồng của các nước cũng như các
khu vực trên thế giới.
Khởi nguồn từ triết lý pháp luật tự nhiên, dựa trên các giá trị pháp luật hợp đồng
của La Mã và các học thuyết về quyền cá nhân, hợp đồng và pháp luật hợp đồng phương
Tây đã có hơn hai nghìn năm để phát triển các học thuyết về tính bắt buộc thực hiện của
hợp đồng, công bằng, thống nhất về ý chí và trách nhiệm đối với việc không tuân thủ
nghĩa vụ và cam kết. Vì cá nhân là trung tâm của xã hội phương Tây nên sự bày tỏ ý chí
cá nhân, các cam kết và hợp đồng trở thành công cụ chủ yếu để tổ chức các quan hệ xã
hội. Điều đó cho thấy, trật tự xã hội từ nhỏ đến lớn đều dựa trên khế ước - "khế ước xã
hội ", những người nghỉ hưu và chính sách an sinh là "khế ước giữa các thế hệ", còn
trong hoạt động tổ chức sản xuất kinh doanh căn cứ theo "hợp đồng công ty". Ví dụ,
người Anh quan niệm về hợp đồng như sau: Điểm cốt yếu của hợp đồng là sự gặp gỡ các
ý chí của các bên trong việc thoả thuận cuối cùng và đầy đủ. Quan điểm của luật pháp
Hoa Kỳ lại cho rằng: hợp đồng như một trong những phương pháp khác thủ đắc quyền sở
hữu động sản và chỉ phân biệt nó với tặng cho (Commenarien on Laws of England). Tự
do giao kết và tuân thủ nội dung của hợp đồng là một yếu tố hình thành nên trật tự xã hội
phương Tây. Ngược lại, đối với phương Đông, nền tảng của xã hội không phải là chủ
nghĩa cá nhân, mà là gia đình, là tính cộng đồng. Xã hội phương Đông tìm sự ổn định
thông qua việc giữ gìn tôn ti trật tự, từ chuyện nhỏ trong gia đình, đến việc "trong họ,
ngoài làng", cho tới "quốc gia đại sự" con người cần biết và tuân thủ bổn phận của mình
theo "nhân, nghĩa, trí, lễ, tín". Hợp đồng khi được thu nạp vào các xã hội phương Đông
truyền thống cần ghi nhận sự tin tưởng, quan hệ, thể hiện giữa các bên giao kết - một dấu
hiệu của các ràng buộc mang tính xã hội.
Nếu như hợp đồng và đền bù là hai lĩnh vực pháp luật trái vụ cổ điển của phương
Tây, thì các quy định về khế ước cũng như hợp đồng trong hệ thống trong các bộ luật cổ
Việt Nam, được thể hiện cụ thể nhất trong hệ thống pháp luật của nhà Lê về các nội
dung: hiệu lực và sự vô hiệu của hợp đồng, hình thức hợp đồng; nghĩa vụ thực hiện hợp
đồng; phạt hợp đồng và đền bù thiệt hại (theo cổ luật Việt Nam lược khảo) được thể hiện
ẩn dưới các quy định hình luật. Pháp luật thời Lê đề cao sự tự nguyện giao kết và thực
hiện khế ước, quy định thể thức giao kết bằng văn bản, cách lập văn bản và làm cứng các
khế ước, cho đến việc định hình phạt và đền bù cho vi phạm khế ước.
Từ những quan điểm về hợp đồng như đã nêu trên, ta thấy chủ thể của hợp đồng
chính là những cá nhân hoặc các tổ chức. Để tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân cũng như
mỗi tổ chức phải tham gia vào nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau. Trong các quan hệ
đó, tồn tại mối quan hệ khi các bên thiết lập với nhau để chuyển giao cho nhau các lợi ích
vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng và kinh doanh đóng một vai trò quan
trọng như là một tất yếu đối với mọi đời sống xã hội. Tuy nhiên, việc chuyển giao các lợi
ích vật chất, tài sản đó không thể tự chúng tìm đến với nhau để thiết lập các quan hệ. Các
quan hệ tài sản chỉ được hình thành từ những hành vi có ý chí của các chủ thể. Mác nói
rằng: "Tự chúng, hàng hóa không thể đi đến thị trường và trao đổi với nhau được. Muốn
cho những vật đó trao đổi với nhau, thì những người giữ chúng phải đối xử với nhau như
những người mà ý chí nằm trong các vật đó".
Mặt khác, nếu chỉ có một bên thể hiện ý chí của mình mà không được bên kia
chấp nhận cũng không thể hình thành mối quan hệ để qua đó thực hiện việc chuyển giao
tài sản hoặc làm một công việc đối với nhau được. Do đó, chỉ khi nào có sự thể hiện và
thống nhất ý chí giữa các bên thì quan hệ trao đổi lợi ích vật chất mới được hình thành.
Quan hệ đó được gọi là hợp đồng. Như vậy, cơ sở đầu tiên và quan trọng nhất để hình
thành một hợp đồng là việc thỏa thuận bằng ý chí tự nguyện của các bên tham gia hợp
đồng. Tuy nhiên, hợp đồng đó chỉ có hiệu lực pháp luật khi ý chí của các bên phù hợp
quy định của pháp luật. Các bên được tự do thỏa thuận để thiết lập hợp đồng, nhưng sự
"tự do" ấy phải được đặt trong giới hạn để không xâm hại đến lợi ích của người khác, lợi
ích chung của xã hội và trật tự công cộng.
Khi hợp đồng được giao kết hợp pháp thì hợp đồng có hiệu lực pháp luật đối với
các bên giao kết. Nghĩa là, từ lúc đó, các bên đã tự nhận về mình những nghĩa vụ pháp lý
nhất định. Sự "can thiệp" của Nhà nước không những là việc buộc các bên phải giao kết
hợp đồng phù hợp với lợi ích chung và đạo đức xã hội mà còn buộc các bên phải thực
hiện hợp đồng đúng với những cam kết mà họ đã thoả thuận. Theo nội dung đã cam kết,
dưới sự hỗ trợ của pháp luật, các bên phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự đối với
nhau.
Về bản chất, hợp đồng là một giao dịch mà trong đó các bên thỏa thuận với nhau
nhằm đi đến thống nhất để cùng nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ nhất định.
Trên phương diện này, hợp đồng vừa được xem xét ở dạng cụ thể vừa được xem xét ở
dạng khái quát. Qua các thời kỳ phát triển kinh tế-xã hội, pháp luật Việt Nam dưa ra
những khái niệm khác nhau về hợp đồng. Theo Điều 1 Pháp lệnh hợp đồng dân sự 1991:
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hay
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay, mượn,
tặng, cho tài sản làm một việc hoặc không làm một việc, dịch vụ hoặc các thỏa
thuận khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt,
tiêu dùng [73].
Bộ luật Dân sự 2005 đưa ra định nghĩa về hợp đồng khái quát hơn: "Hợp đồng
dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi và chấm dứt các quyền và
nghĩa vụ dân sự" (Điều 388 Bộ luật Dân sự 2005). Như vậy, hợp đồng dân sự không chỉ
là sự thỏa thuận để một bên chuyển tài sản, thực hiện một công việc cho bên kia mà có
thể còn là sự thỏa thuận để thay đổi hay chấm dứt các nghĩa vụ đó. Đối với các hợp đồng
được ký kết nhằm mục đích kinh doanh ngoài có những dấu hiệu chung của hợp đồng thì
hợp đồng doanh có sự khác biệt thêm. Hợp đồng kinh doanh được hiểu là sự thỏa thuận
bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện công việc sản xuất,
trao đổi hàng hóa, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thỏa
thuận khác có mục đích tìm kiếm lợi nhuận với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ
của mỗi bên.
Điều một Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 định nghĩa: Hợp đồng kinh tế là
những hợp đồng được ký kết giữa các bên nhằm sản xuất, mua bán, lưu thông hàng hóa,
trao đổi dịch vụ, nghiên cứu, liên doanh liên kết giữa các bên nhằm sản xuất, mua bán,
lưu thông hàng hóa, trao đổi, dịch vụ, nghiên cứu, liên doanh, liên kết sản xuất nhằm bất
kỳ một mục đích kinh doanh khác để thực hiện tốt kế hoạch của bản thân các bên ký kết
và thu lợi nhuận. Hoạt động có thể bao gồm các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế, đó có thể là công ty nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty
hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp
100% vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp ký kết hợp đồng để phục vụ cho hoạt
động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận. Các hoạt động kinh doanh hết sức đa dạng: đầu tư
vốn, sản xuất, mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên thương trường. Hợp đồng được ký
kết trong nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau như mua bán hàng hóa, vận chuyển, xây
dựng, bảo hiểm, tín dụng, đại lý, ủy thác, liên kết kinh doanh… Hình thức của hợp đồng
có thể bằng lời nói, văn bản hoặc bằng các hành vi cụ thể.
Tóm lại, từ những nội dung cơ bản nhất của hợp đồng nói chung, hợp đồng dân
sự, hợp đồng trong hoạt động kinh doanh và cả quan điểm nước ngoài cũng như quan
điểm của các tổ chức thế giới cho thấy: Hợp đồng là thoả thuận của các bên nhằm thống
nhất các quyền và nghĩa vụ pháp lý.
1.1.1.2. Những đặc điểm của hợp đồng
Trên cơ sở bản chất và khái niệm về hợp đồng đã nêu, ta thấy hợp đồng có những
đặc điểm pháp lý cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng
Phạm vi chủ thể của hợp đồng rất rộng lớn. Tùy từng lĩnh vực và ngành nghề khác
nhau mà pháp luật giới hạn phạm vi chủ thể cho phù hợp để nhằm bảo đảm việc thực
hiện nghĩa vụ trong hợp đồng.
Với các hợp đồng dân sự thông thường, chủ thể là các cá nhân, pháp nhân, hay
các tổ chức khác. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chủ thể của hợp đồng kinh doanh
được quy định rất cụ thể đó thường là thương nhân đáp ứng những điều kiện nhất định
theo quy định của pháp luật.
Tựa chung lại, chủ thể của hợp đồng bao gồm cá nhân có năng lực pháp luật và
năng lực hành vi dân sự, các tổ chức, doanh nghiệp, và các pháp nhân khác… được pháp
luật thừa nhận có tư cách pháp lý độc lập với nhau, hoàn toàn bình đẳng với nhau khi
tham gia quan hệ hợp đồng. Tuỳ từng loại hợp đồng mà pháp luật có thể quy định những
điều kiện ràng buộc cho các chủ thể hợp đồng phải dáp ứng, ví dụ: cá nhân phải đủ độ
tuổi, doanh nghiệp phải có ngành nghề kinh doanh phù hợp.
Thứ hai, sự tự nguyện khi thỏa thuận và ký kết hợp đồng
Cơ sở hình thành hợp đồng là sự tự nguyện từ tự do ý chí của các bên. Các điều
kiện của hợp đồng được giải thích trong các điều kiện tự do ý chí, xem xét về vấn đề tự
do ý chí ta thấy: Một mặt, tự do ý chí được xuất phát từ nền tảng là tự do cá nhân, có
nghĩa là không ai có thể bị ép buộc làm hay không làm một công việc gì đó ngoài ý muốn
của họ, Mặt khác, tự do ý chí có nghĩa là không ai có thể bị ép buộc làm hay không làm
một công việc mà xuất phát từ lợi ích của họ. Do vậy, hợp đồng được xem là sản phẩm
của ý chí được hình thành từ lợi ích của các bên tham gia giao kết hợp đồng. Tuy nhiên,
trong điều kiện đa dạng và phức tạp của các mối quan hệ ngày nay khi mà con người
sống trong sự phụ thuộc lẫn nhau, khi mà lợi ích kinh tế của mọi người là không bằng
nhau thì chính ích lợi của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng vẫn bị giới hạn và bắt
buộc những lợi ích đó phải phù hợp với lợi ích chung của xã hội.
Tính độc lập và sự phụ thuộc của hai nhóm lợi ích đó (lợi ích của các bên tham
gia hợp đồng và lợi ích của xã hội) đã làm nảy sinh nghĩa vụ trong hợp đồng. Như vậy, tự
do ý chí, tự do thoả thuận và tự do giao kết hợp đồng cũng bị giới hạn phần nào, sự giới
hạn đó chính là sự can thiệp của pháp luật thông qua việc nhà nước ban hành những điều
bắt buộc cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng (ví dụ: điều kiện chủ thể,…).
Tóm lại, trên cơ sở tự do ý chí của các bên khi thỏa thuận và ký kết hợp đồng, sự
can thiệp của pháp luật về vấn đề hợp đồng sẽ bảo đảm cho các quan hệ hợp đồng được
phát triển ổn định và đúng định hướng đã dự định.
Thứ ba, các bên bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
Cơ quan nhà nước đã được ấn định thì người cán bộ công chức phải có nghĩa vụ
hoàn thành, việc hoàn thành nghĩa vụ đó như một yêu cầu bắt buộc. Trong một cơ quan,
tổ chức, nhiệm vụ của cán bộ cấp trên giao cho cán bộ cấp dưới phải phục tùng chịu sự
phân công và chỉ đạo của cán bộ cấp trên. Trong mối quan hệ này cơ sở hình thành quyền
và nghĩa vụ bắt nguồn từ quyết định đơn phương của thủ trưởng cấp trên, của cơ quan
nhà nước và nó mang tính mệnh lệnh hành chính. Khác với tính bất bình đẳng về quyền
và nghĩa vụ trong các quan hệ trên, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng luôn
ngang bằng và bình đẳng nhau. Trong hợp đồng, quyền lợi của bên này có nghĩa đó là
nghĩa vụ của bên còn lại và ngược lại nghĩa vụ của bên này chính là quyền của bên còn
lại. Quyền và nghĩa vụ của các bên hình thành từ sự tự nguyện thoả thuận của các bên,
các bên tự mình đàm phán, trao đổi và ghi nhận quyền và nghĩa vụ đó.
Thứ tư, về hình thức của hợp đồng
Theo quy định của Bộ luật Dân sự thì hợp đồng được ký kết dưới nhiều hình thức
khác nhau như: văn bản, lời nói hay các hành vi cụ thể; trong một số trường hợp khác
pháp luật quy định hợp đồng phải ký dưới một hình thức nhất định (như hợp đồng phải
ký bằng văn bản có công chứng, chứng thực hợp lệ) thì phải tuân thủ hình thức đó. Văn
bản là hình thức có thể thể hiện một cách hữu hình nội dung của hợp đồng mà các bên đã
thỏa thuận với nhau. Đó có thể là bản hợp đồng với đầy đủ chữ ký của các bên hoặc công
văn, tài liệu giao dịch chứa đựng những nội dung chủ yếu của hợp đồng mà các bên đã
thỏa thuận được với nhau.
1.1.2. Phân loại hợp đồng
Tùy thuộc vào nội dung, tính chất hình thức của từng quan hệ hợp đồng, người ta
phân biệt thành nhiều loại hợp đồng khác nhau:
- Căn cứ vào nội dung và tính chất cụ thể của hợp đồng mà chia thành từng loại
hợp đồng riêng như: Hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng xây dựng, vận chuyển, tín
dụng, thuê tài sản, hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại, hợp đồng lao động, hợp đồng
khoa học công nghệ
- Căn cứ vào hình thức thể hiện, quan hệ hợp đồng chia thành: hợp đồng bằng văn
bản, hợp đồng bằng lời nói, hợp đồng có chứng nhận, chứng thực...
+ Hợp đồng bằng văn bản
Nhằm nâng cao độ xác thực về những nội dung đã cam kết, các bên có thể ghi nhận
nội dung giao kết hợp đồng bằng một văn bản và cùng ký xác nhận. Khi có tranh chấp, hợp
đồng được giao kết bằng hình thức văn bản tạo ra chứng cứ pháp lý chắc chắn hơn so với
hình thức hợp đồng được giao kết bằng lời nói. Căn cứ vào văn bản của hợp đồng, các bên
dễ dàng thực hiện quyền yêu cầu của mình đối với bên kia. Vì vậy, đối với những hợp đồng
có giá trị lớn, tính chất phức tạp,các bên chưa thực sự tin tưởng nhau thì các bên thường chọn
hình thức này. Thông thường, hợp đồng được lập thành nhiều bản và mỗi bên giữ một bản,
coi như đã có trong tay một bằng chứng, chứng minh quyền dân sự của mình.
Trong những hợp đồng bằng văn bản có thể chia thành hợp đồng ký bằng văn
bản thông thường và hợp đồng ký bằng văn bản có công chứng, chứng thực hợp lệ.
+ Hợp đồng có chứng nhận, chứng thực
Đối với những hợp đồng có tính chất phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp và đối tượng
của nó là những tài sản mà Nhà nước cần quản lý, kiểm soát khi chúng được dịch chuyển
từ chủ thể này sang chủ thể khác, thì các bên phải lập thành văn bản có công chứng, chứng
thực. Hợp đồng được lập ra theo hình thức này có giá trị chứng cứ cao nhất. Vì vậy, đối
với những hợp đồng mà pháp luật không yêu cầu phải lập theo hình thức này nhưng để
quyền lợi của mình được đảm bảo, các bên vẫn có thể chọn hình thức này để giao kết hợp
đồng.
+ Hợp đồng bằng lời nói
Thông qua hình thức này, các bên giao kết hợp đồng chỉ cần thỏa thuận miệng với
nhau về nội dung cơ bản của hợp đồng hoặc mặc nhiên thực hiện những hành vi nhất định
đối với nhau. Hình thức này thường được áp dụng trong những trường hợp các bên thân
quen hoặc đã có độ tin tưởng lẫn nhau hoặc đối với những hợp đồng mà ngay sau khi giao
kết sẽ được thực hiện và chấm dứt.
- Căn cứ vào sự tương xứng về quyền và nghĩa vụ các bên, có thể chia thành:
Hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ.
+ Hợp đồng song vụ
Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà các bên chủ thể đều có quyền và nghĩa vụ.
Hay nói cách khác, mỗi một bên chủ thể của hợp đồng song vụ là người vừa có quyền lại
vừa có nghĩa vụ dân sự. Trong nội dung của loại hợp đồng này, quyền dân sự của bên này
đối lập tương ứng với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Vì thế, nếu hợp đồng song vụ
được giao kết theo hình thức văn bản, thì phải lập thành nhiều văn bản để mỗi bên giữ
một bản hợp đồng. Tại khoản 1 Điều 406 Bộ luật Dân sự 2005 đã định nghĩa: "Hợp đồng
song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau" [56].
+ Hợp đồng đơn vụ
Hợp đồng đơn vụ là những hợp đồng mà trong đó một bên chỉ có nghĩa vụ mà
không có quyền gì đối với bên kia và bên kia là người có quyền nhưng không phải thực
hiện một nghĩa vụ nào.
Việc xác định quyền và nghĩa vụ dân sự đối với nhau giữa các chủ thể trong hợp
đồng dân sự được bắt đầu từ thời điểm hợp đồng dân sự có hiệu lực.
- Căn cứ theo sự phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực giữa các hợp đồng, có thể chia
thành:
+ Hợp đồng chính
Tại khoản 3 Điều 406 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: "Hợp đồng chính là hợp
đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng khác" Như vậy, các hợp đồng chính khi
đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện mà pháp luật đã quy định thì đương nhiên phát sinh hiệu
lực và có hiệu lực bắt buộc đối với các bên từ thời điểm giao kết.
+ Hợp đồng phụ
"Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc và hợp đồng chính" (khoản 4
Điều 406 Bộ luật Dân sự 2005). Trước hết các hợp đồng phụ muốn có hiệu lực phải tuân
thủ đầy đủ các điều kiện luật định về chủ thể, về nội dung, về hình thức v.v... Mặt khác,
dù rằng đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện nói trên nhưng hợp đồng vẫn không có hiệu lực
nếu hợp đồng chính (hợp đồng mà nó phụ thuộc) bị coi là không có hiệu lực.
- Căn cứ theo tính chất có đi có lại về lợi ích của các chủ thể, có thể chia thành:
+ Hợp đồng có đền bù
Là loại hợp đồng mà trong đó mỗi bên chủ thể khi đã thực hiện cho bên kia một
lợi ích sẽ nhận được từ bên kia một lợi ích tương ứng. Chúng ta biết rằng, đặc điểm cơ
bản của quan hệ tài sản trong giao lưu dân sự là sự trao đổi có đền bù. Tuy nhiên, không
nhất thiết cứ bên này hưởng lợi ích vật chất thì bên kia hưởng lợi ích vật chất mới được
coi là "đền bù tương ứng". Do nhu cầu đa dạng, các bên có thể thỏa thuận để giao kết
những hợp đồng mà trong đó một bên hưởng lợi ích vật chất nhưng bên kia lại hưởng
một lợi ích thuộc về tinh thần. Cần xác định rằng các hợp đồng mang tính chất đền bù đa
phần là hợp đồng song vụ cũng như đa phần các hợp đồng song vụ đều mang tính đền bù.
Tuy nhiên, trong thực tế có rất nhiều hợp đồng dù mang tính chất đền bù nhưng lại là hợp
đồng đơn vụ như hợp đồng cho vay có lãi mà hiệu lực của nó được xác định tại thời điểm
bên vay đã nhận tiền. Mặt khác, có nhiều hợp đồng song vụ nhưng không mang tính chất
đền bù như hợp đồng gửi giữ không có thù lao.
+ Hợp đồng không có đền bù
Hợp đồng không đền bù là những hợp đồng mà trong đó một bên nhận được từ
bên kia một lợi ích nhưng không phải giao lại một lợi ích nào. Bên cạnh việc sử dựng
hợp đồng làm phương tiện trao đổi những lợi ích, các chủ thể còn dùng nó làm phương
tiện để giúp đỡ nhau. Vì vậy, hợp đồng không có đền bù thường được giao kết trên cơ sở
tình cảm và tinh thần tương thân, tương ái giữa các chủ thể. Có thể nói rằng, nếu tiền đề
của hợp đồng có đền bù là những lợi ích (mà đa phần là lợi ích vật chất) thì tiền đề của
hợp đồng không có đền bù là mối quan hệ tình cảm sẵn có giữa các chủ thể. Đây là một
loại hợp đồng dân sự mà tính chất của nó đã vượt ra ngoài tính chất của quy luật giá trị
bởi sự chi phối của yếu tố tình cảm. trên sơ sở tình cảm, các bên thiết lập các hợp đồng
không có đền bù để giúp đỡ nhau. Do đó, trong quá trình giao kết loại hợp đồng này dù
đã hứa hẹn (đã có sự thống nhất ý chí) nhưng việc chấp nhận đề nghị không mang tính
chất ràng buộc đối với bên được đề nghị. Vì vậy, đối với hợp đồng tặng cho tài sản, pháp
luật đã quy định có hiệu lực khi các bên đã thực tế trao cho nhau đối tượng tặng cho hoặc
đã hoàn thành thủ tục chuyển quyền sở hữu.
- Căn cứ vào thời điểm phát sinh hiệu lực, có thể chia thành:
+ Hợp đồng ưng thuận
Hợp đồng ưng thuận là những hợp đồng mà theo quy định của pháp luật, quyền
và nghĩa vụ của các bên phát sinh quay sau khi các bên đã thỏa thuận với nhau xong về
nội dung chủ yếu của hợp đồng. Trong trường hợp này, dù rằng các bên chưa trực tiếp
thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết nhưng đã phát sinh quyền yêu cầu của bên này đối với
bên kia trong việc thực hiện hợp đồng. Hay nói cách khác, hợp đồng ưng thuận là những
hợp đồng mà thời điểm có hiệu lực của nó được xác định tại thời điểm giao kết.
+ Hợp đồng thực tế
Hợp đồng thực tế là những hợp đồng mà sau khi thỏa thuận, hiệu lực của nó chỉ
phát sinh tại thời điểm khi các bên đã chuyển giao cho nhau đối tượng của hợp đồng.
- Căn cứ vào tính chất của nội dung của hợp đồng, người ta có thể hợp đồng
thành các loại hợp đồng như: hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại, hợp đồng trong
hoạt động kinh doanh, hợp đồng lao động, hợp đồng khoa học công nghệ …
- Ngoài các cách phân loại hợp đồng như trên, pháp luật của nhiều nước còn có
nhiều cách phân loại hợp đồng khác
Tóm lại, việc phân chia hợp đồng dân sự thành các loại nói trên vừa dựa vào sự
quy định của pháp luật, vừa dựa trên phương diện lý luận, vừa dựa trên phương diện thực
tiễn. Qua đó, nhằm xác định được những đặc điểm chung và riêng của từng nhóm hợp
đồng, góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình điều chỉnh các quan hệ hợp đồng
1.1.3. Vai trò của hợp đồng
Xuất phát từ bản chất của hợp đồng cũng như các hình thức khác nhau của hợp
đồng đã được pháp luật ghi nhận và đã có ý nghĩa đối với đời sống xã hội. Ta thấy hợp
đồng có một số vai trò nhất định như sau:
- Hợp đồng là cơ sở quan trọng để xây dựng và thực hiện kế hoạch của các bên.
Có thể khẳng định rằng trong tất cả mọi vấn đề nếu không xây dựng kế hoạch cụ thể và
chi tiết thì mọi công việc tiến hành đều rơi vào tình trạng không có phương hướng và để
bảo đảm việc xây dựng kế hoạch được bảo đảm thì một trong những cơ sở quan trọng bắt
nguồn của vấn đề chính là hợp đồng. Hợp đồng là một phương tiện để kiểm tra việc thực
hiện kế hoạch của các bên ký kết. Trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của các
bên, cơ sở để cho sự phân minh cũng như khẳng định tính đúng sai không thể có nội dung
nào khác quan trọng hơn đó chính là hợp đồng. Bên cạnh những nội dung chính của hợp
đồng như: tên của hợp đồng, tên chủ thể, tên mặt hàng, phương thức thanh toán... nhưng
trong đó có nhiều hợp đồng quy định rất cụ thể tiến độ thực hiện các nội dung được thoả
thuận trong hợp đồng (ví dụ như các hợp đồng liên quan đến xây dựng công trình, các
loại hợp đồng BOT, BT,…) và như vậy nội dung hợp đồng sẽ trở thành tiêu chí để kiểm
tra việc thực hiện các thoả thuận của các bên. Hay nói cách khác, hợp đồng được xem
như công cụ để các bên kiểm tra việc thực hiện kế hoạch.
- Hợp đồng làm cho lợi ích của các bên ký kết phù hợp với lợi ích chung của nền
kinh tế quốc dân. Cho dù nội dung của hợp đồng chủ yếu được các bên tự thoả thuận
nhưng sự thoả thuận đó phải trong khuôn khổ pháp luật và việc các nhà xây dựng pháp
luật trong quá trình soạn thảo để ban hành đã phải tính toán các lợi ích của nền kinh tế
quốc dân.
- Hợp đồng là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời của cơ chế quản lý mới.
Một trong những nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là sự điều tíêt của nền kinh tế được đặt dưới điều tiết của nhà nước và sự tự điều
tiết của các quy luật thị trường. Nhà nước chỉ tập trung quản lý ở tầm vĩ mô, còn quá
trình tổ chức và quản lý sẽ thuộc về các doanh nghiệp. Đối với các giao lưu dân sự thông
thường, Nhà nước luôn đề cao quyền tự do của cá nhân, chính vì vậy việc quản lý của
nhà nước cũng như việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các bên chủ yếu được đánh giá
qua sự thoả thuận của các bên. Nếu như trước đây, Nhà nước luôn là trung tâm quản lý
trực tiếp đối với doanh nghiệp thì nay sự quản lý đó lại để cho các doanh nghiệp tự quản
lý và nhà nước chỉ tập trung quản lý theo phương pháp mới như quản lý về thuế, quản lý
tỷ giá hối đoái, quản lý về chính sách thương mại, và quản lý xã hội bằng pháp luật. Như
vậy, một trong những nội dung quan trọng để nhà nước quản lý và bảo đảm quyền và
nghĩa vụ của các cá nhân và tổ chức đó là hợp đồng. Bên cạnh nhà nước sử dụng hợp
đồng như một công cụ quản lý mới thì chính các tổ chức với tổ chức, tổ chức với cá nhân
thành viên có liên quan, cá nhân với cá nhân, hợp đồng cũng là cơ sở tạo sự ràng buộc lẫn
nhau và trở thành công cụ quản lý hiệu quả.
1.2. khái niệm, nguyêntắc, cấutrúc của phápluậtvề hợpđồng
1.2.1. Khái niệm pháp luật về hợp đồng
Từ khái niệm về hợp đồng, các đặc điểm của hợp đồng cũng như vai trò của hợp
đồng đã trình bày ở phần một của chương một cho ta thấy các quan hệ về hợp đồng tồn
tại trong nhiều lĩnh vực khác nhau: từ lĩnh vực kinh doanh, linh vực dân sự, lao động, tín
dụng và khoa học công nghệ. Điều này cho thấy quan hệ hợp đồng có phạm vi rất rộng.
Quan hệ hợp đồng có thể chỉ là các quan hệ rất đơn giản như việc mua bán hàng hoá đơn
gian của đời sống dân sự hàng ngày(trong những trường hợp này, các hợp đồng thường
chỉ là hợp đồng bằng lời nói) tới các hợp đồng có nội dung rất phức tạp bao gồm nhiều
chủ thể tham gia, nội dung lớn với nhiều bộ phận khác nhau đẻ thực hiện các nội dung
công việc đã thoả thuận trong hợp đồng (trong trường hợp này, các hợp đồng thường là
hợp đồng thương mại, hợp đồng xây dựng BTO, BOT, BT, hay các hợp đồng mua bán
hàng hoá xuất nhập khẩu). Để bảo đảm các quan hệ hợp được phát triển đúng mục đích
và yêu cầu của nhà nước cũng như quan hệ hợp đồng được ký kết và thực hiện trên
nguyên tắc bình đẳng và tự nguyện của các bên, bảo đảm lợi ích cũng như nghĩa vụ cho
các bên tham gia ký kết thì quan hệ hợp đồng cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp
luật. Do tính chất đa dạng của hợp đồng là tồn tại trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội chính dẫn tới các quy định pháp luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh các
quan hệ hợp đồng cũng tồn tại trong nhiều ngành luật khác nhau, trong nhiều văn bản quy
phạm pháp luật khác nhau. Bộ luật Dân sự là văn bản pháp luật chứa dựng nhiều quy
định nhất về hợp đồng, đây cũng là văn bản quy định luật chung về hợp đồng. Bên cạnh
Bộ luật Dân sự, luật Thương mại, Luật Điện lực, Bộ luật Lao động…cũng quy định về
vấn đề hợp đồng và chúng được áp dụng cho các hợp đồng chuyên ngành. Như vậy, đối
với nhiều nhóm quan hệ có tính độc lập sẽ hình thành một ngành luật riêng: ví dụ, quan
hệ lao động sẽ được điều chỉnh bởi Bộ luật Lao động, các quan hệ dân sự sẽ được điều
chỉnh bởi Bộ luật Dân sự… Đối với các quan hệ hợp đồng xuất hiện trong nhiều lĩnh vực
khác nhau và thể hiện ở nhiều dạng quan hệ khác nhau (quan hệ dân sự, quan hệ thương
mại…) dẫn tới pháp luật về hợp đồng cũng rất đa dạng và tồn tại trong nhiều văn bản
pháp luật khác nhau(Bộ luật Dân sự, luật Thương mại, Luật bảo hiểm, luật Điện lực…).
Từ những nội dung đã phân tích như trên, ta có bước đầu hình dung pháp luật về hợp
đồng là hệ thống các quy định do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ về hợp
đồng. ở Việt Nam, do tính chất riêng biệt của quan hệ hợp đồng tồn tại trong nhiều nhành
nghề khác nhau, nhièu lĩnh vực khác nhau mà Quốc hội của nước Việt Nam sẽ không ban
hành văn bản pháp luật quy định riêng biệt về hợp đồng. Các quy định pháp luật về hợp
đồng của nước ta tồn tại trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Ngoài các
quy định chung về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự có thể tìm thấynhững quy định về từng
hợp đồng cụ thể trong các văn bản khác nhau như: Luật Thương mại, Luật Kinh doanh bảo
hiểm... Các hợp đồng trong những lĩnh vực khác nhau sẽ do pháp luật chung về hợp đồng kết
hợp với pháp luật chuyên ngành điều chỉnh. Chẳng hạn, hợp đồng thương mại sẽ do Bộ luật
Dân sự và Luật Thương mại điều chỉnh; hợp đồng lao động sẽ do Bộ luật Lao động điều
chỉnh... Khi nói tới pháp luật về hợp đồng, nhiều người có quan điểm rằng phải tách riêng
từng loại hợp đồng riêng biệt. Chẳng hạn, hợp đồng dân sự sẽ có những nội dung và đặc
điểm khác với hợp đồng trong kinh doanh, hợp đồng thương mại khác với hợp đồng lao
động…
Tuy nhiên, để cho hợp đồng được ký kết giữa các chủ thể được thực hiện có hiệu
quả và bảo đảm được sự quản lý của nhà nước thì nhà nước ban hành nhiều quy phạm
pháp luật để áp dụng trong việc cụ thể hóa các vấn đề của hợp đồng. Như vậy, pháp luật về
hợp đồng bao gồm một hệ thống các văn bản pháp luật khác nhau, trong mỗi văn bản pháp
luật đó sẽ bao gồm nhiều điều luật quy định cụ thể hóa các nội dung của hợp đồng, định
hình các quy tắc xử sự của các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Từ đó ta có thể kết luận
pháp luật về hợp đồng như sau: Pháp luật về hợp đồng là một hệ thống các quy tắc xử sự,
do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện nhằm bảo vệ
quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong hợp đồng.
1.2.2. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về hợp đồng
1.2.2.1. Tôn trọng quyền thỏa thuận tự nguyện của các bên
Các bên tham gia quan hệ hợp đồng có quyền tự do cam kết, thỏa thuận phù hợp
với pháp luật trong việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Mọi cam kết và
thỏa thuận hợp pháp được pháp luật bảo hộ.
Khi cam kết, thỏa thuận các bên hoàn toàn tự nguyện, không được ai dùng bất cứ
thủ đoạn nào nhằm buộc một người cam kết, thỏa thuận trái với ý chí của người đó. Mọi
cam kết, thỏa thuận không có sự tự nguyện của các bên có thể coi là vô hiệu.
Khi tiến hành thỏa thuận các chủ thể đều bình đẳng, không được lấy bất cứ một lí
do nào về sự khác biệt để đối xử không bình đẳng. Các chủ thể bình đẳng về năng lực
pháp luật, bình đẳng giữa các hình thức sở hữu khi giao kết hợp đồng. Bình đẳng của các
chủ thể được thể hiện ở các điểm sau:
- Bình đẳng trong việc tham gia vào các quan hệ hợp đồng không phụ thuộc vào
giới tính và các địa vị xã hội khác;
- Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ khi chúng được xác lập. Các bên phải thực
hiện nghĩa vụ đối với những người có quyền;
- Bình đẳng về trách nhiệm dân sự nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực
hiện không đúng nghĩa vụ đều phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.
Trong quan hệ hợp đồng các bên phải hợp tác, giúp đỡ nhau để tạo lập và thực
hiện các quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận. Ngoài ra, đòi hỏi các bên phải tìm mọi biện
pháp cần thiết để khắc phục và hạn chế thiệt hại. Tuy nhiên, trong quan hệ dân sự các bên
được suy đoán là trung thực, thiện chí. Nếu một bên cho rằng bên kia không trung thực,
thiện chí phải có chứng cứ.
1.2.2.2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hợp đồng
Trách nhiệm trong hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lí nhưng trước tiên là
trách nhiệm của người vi phạm đối với người bị vi phạm. Người có nghĩa vụ phải thực
hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của họ nếu các quyền và nghĩa vụ đó phát sinh từ các căn cứ
hợp pháp. Nếu không thực hiện phải tự chịu trách nhiệm và có thể bị cưỡng chế thi hành
nghĩa vụ và phải bồi thường thiệt hại (nếu có). Mỗi chủ thể tham gia phải tự chịu trách
nhiệm về hành vi của mình (Điều 7 Bộ luật Dân sự).
Quyền sở hữu và các quyền tài sản khác là những quyền quan trọng nhất của
công dân cũng như tổ chức trong giao lưu dân sự, kinh tế; là cốt lõi trong các quyền dân
sự của các chủ thể và chi phối các quyền năng khác. Mọi chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng
quyền sở hữu, quyền tài sản của các chủ thể khác. Khi có hành vi xâm phạm đến tài sản
của người khác, ngoài việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế (hình sự, hành chính…) cơ
quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp dân sự với mục đích khôi phục lại
tình trạng tài sản của người bị xâm phạm, bảo đảm quyền sở hữu tài sản của các chủ thể
được thực hiện bình đẳng (Điều 9 Bộ luật Dân sự).
1.2.2.3. Bảo vệ trật tự công và lợi ích của người thứ ba ngoài quan hệ hợp
đồng
"Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi
ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền lợi ích hợp pháp của người khác".
Việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ hợp đồng nhằm thỏa mãn nhu cầu vật
chất và tinh thần của các bên tham gia vào quan hệ đó. Tuy nhiên, khi thực hiện các hành
vi không được phép thực hiện tùy tiện mà phải thực hiện trong khuôn khổ, giới hạn của
hợp đồng. Quyền của một chủ thể được giới hạn bởi quyền của các chủ thể khác, lợi ích
của Nhà nước, lợi ích công cộng, nhằm bảo đảm việc các chủ thể gây thiệt hại cho các
chủ thể còn lại thì phải bồi thường các thiệt hại như đã thỏa thuận trong hợp đồng.
1.2.2.4. Tôn trọng và tuân thủ pháp luật, đạo đức và truyền thống tốt đẹp
Quan hệ hợp đồng luôn luôn đề cao tính tự nguyện và sự tự do ý chí của các bên
trong việc thoả thuận ký kết hợp đồng, Nội dung này của hợp đồng luôn được pháp luật
ghi nhận và bảo đảm. Tuy nhiên, việc phát huy quyền tự do hợp đồng của các bên luôn
phải được đặt trong mố quan hệ với lợi ích của người khác và những giá trị văn hoá
truyền thống. Chính vì vậy, quyền tự do hợp đồng luôn phải được đặt trong khuôn khổ
pháp luật của nhà nước, nghĩa là các bên được quyền phát huy tối đa quyền tự do hợp
đồng nhưng việc phát huy đó phải đặt trong sự kiểm soát của pháp luật (trong khuôn khổ
pháp luật). Bên cạnh việc tuân thu đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật các ben
tham gia hợp đồng cần phải tôn trọng những giá trị đạo đức và những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tình đoàn két tương thân tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì
mỗi người và vì truyền thống tốt đẹp của các dân tộc anh em tren đất nước Việt Nam
1.2.3. Cấu trúc của pháp luật hợp đồng trong pháp luật Việt Nam hiện hành
Xét về cấu trúc hình thức thì pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng rất đa dạng,
tồn tại trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Ngoài những quy định trực
tiếp về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự, còn có thể tìm thấy nhiều quy định có liên quan
đến hợp đồng trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau thuộc các lĩnh vực kinh tế như:
kinh doanh điện lực, thương mại, tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm, xây dựng, vận chuyển,
đầu tư, chuyển giao công nghệ, đất đai...
Để đơn giản trong việc xác định cấu trúc hình thức của pháp luật hợp đồng, có
thể chia hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng thành hai nhóm:
Nhóm văn bản quy phạm pháp luật quy định các vấn đề chung về hợp đồng
Nhóm văn bản pháp luật này quy định những vấn đề chung, mang tính nguyên tắc
về mọi loại hợp đồng, không phân biệt lĩnh vực phát sinh quan hệ hợp đồng. Các văn bản
pháp luật chung về hợp đồng là Bộ luật Dân sự
Pháp luật chung về hợp đồng của nước ta có nhiều thay đổi qua từng thời kỳ phát
triển kinh tế - xã hội:
- Giai đoạn trước ngày 01/01/2006 (là ngày Bộ luật Dân sự năm 2005 có hiệu
lực)
Trong giai đoạn này thì pháp luật chung về hợp đồng chủ yếu được điều chỉnh bởi
Bộ luật Dân sự năm 1995(áp dụng cho các hợp đồng dân sự) và Pháp lệnh hợp đồng kinh
tế ngày 25/9/1989 (áp dụng cho các hợp đồng được coi là hợp đồng kinh doanh).
- Giai đoạn sau ngày 01/01/2006:
Kể từ ngày 01/01/2006 thì luật chung về hợp đồng chỉ là Bộ luật Dân sự năm
2005. Bộ luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2006 thay thế cho Bộ luật Dân sự năm 1995
và Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989.
Nhóm văn bản quy phạm pháp luật quy định các nội dung về hợp đồng chuyên
ngành
Bên cạnh những quy định trong các văn bản pháp luật chung về hợp đồng thì trong
từng lĩnh vực kinh tế cụ thể, Nhà nước còn ban hành các quy định riêng về từng loại hợp
đồng. Đây là nhóm văn bản pháp luật chuyên ngành về hợp đồng. Ví dụ: Luật Điện lực, Luật
Thương mại, Luật Xây dựng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật Hàng hải Việt Nam, Luật
Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật Giao thông đường bộ, Luật Giao thông đường thủy
nội địa...
- Pháp luật về hợp đồng chuyên ngành
Trong từng lĩnh vực kinh tế có thể có những quy định riêng về từng loại hợp
đồng cụ thể. Ví dụ:
+ Luật Điện lực và các văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị định số
105/2005/NĐ-CP ngày 17/8/2005 Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Điện lực;
+ Luật Thương mại năm 2005.
+ Luật Đấu thầu (có hiệu lực từ 01/4/2006).
+ Luật Kinh doanh bảo hiểm (09/12/2000).
+ Luật Đất đai năm 2003.
Xét về cấu trúc nội dung thì pháp luật về hợp đồng điều chỉnh các vấn đề chủ yếu
sau:
-Các nguyên tắc điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ hợp đồng
-Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, các trường hợp đồng vô hiệu và xủ lý hậu
quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu
+ Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
+ Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
-Điều kiện để các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng
-Nội dung quyền và nghĩa vụ của các bên.
+ Thực hiện hợp đồng.
+ Sửa đổi, bổ sung, chuyển giao quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng, chấm dứt,
thanh lý hợp đồng.
-Thủ tục giao kết hợp đồng Pháp luật hợp đồng quy định về các vấn đề sau đây:
+ Bản chất của hợp đồng và các nguyên tắc giao kết hợp đồng.
+ Điều kiện và thủ tục giao kết hợp đồng.
+ Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và các trường hợp hợp đồng dân sự vô
hiệu.
+ Đại diện và ủy quyền ký kết hợp đồng.
Trong cấu trúc nội dung của mỗi hợp đồng thường là một tập hợp các điều khoản
được ấn định theo sự thỏa thuận của hai bên. Tùy theo mục đích, đối tượng và tính chất
của hợp đồng mà trong từng hợp đồng sẽ bao gồm nhiều hay ít các điều khoản. Pháp luật
hợp đồng điều chỉnh hợp đồng cụ thể cũng không đồng nhất với nhau. Nghĩa là, tùy từng
loại đối tượng của hợp đồng mà các quy định về hợp đồng của luật dân sự được áp dụng
hay các luật chuyên ngành được áp dụng.
1.2.4. Nguyên tắc áp dụng phối hợp quy định trong các văn bản pháp luật
- Trong quan hệ giữa luật chung và luật chuyên ngành
+ Nếu một vấn đề cùng được quy định cả trong luật chung và luật chuyên ngành
thì ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành.
+ Nếu có vấn đề luật chuyên ngành không quy định thì áp dụng quy định của luật
chung.
- Trong quan hệ giữa các văn bản của một nhóm luật chung và của một nhóm
luật chuyên ngành
Ưu tiên áp dụng các văn bản có giá trị pháp lý cao hơn. Theo Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật thì giá trị pháp lý của các văn bản pháp luật được xác định theo
thứ tự sau: Cao nhất là Hiến pháp tới Bộ luật tới Luật, Nghị quyết của Quốc hội, tới Pháp
lệnh, tới Nghị định, tới Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, tới Thông tư của liên ngành
và Thông tư của các Bộ...
Nếu các văn bản có cùng giá trị pháp lý thì ưu tiên áp dụng văn bản ra đời sau.
- Trong quan hệ giữa hợp đồng với pháp luật, thói quen trong hoạt động thương
mại và tập quán thương mại
+ Quan hệ giữa thoả thuận của các bên tham gia hợp đồng với pháp luật về hợp
đồng:
Nếu các bên thỏa thuận không trái pháp luật thì sẽ ưu tiên áp dụng theo sự thỏa
thuận của các bên.
Nếu các bên thỏa thuận trái pháp luật thì thỏa thuận đó không có giá trị và áp
dụng theo các quy định của pháp luật.
Nếu các bên không thỏa thuận cụ thể về một vấn đề nào đó thì áp dụng theo quy
định của pháp luật.
+ Quan hệ giữa thỏa thuận với thói quen trong hoạt động thương mại:
Luật Thương mại năm 2005 là văn bản pháp luật đầu tiên của Việt Nam đề cập
tới thói quen trong hoạt động thương mại và nguyên tắc áp dụng thói quen trong hoạt
động thương mại.
Trường hợp các bên ký kết hợp đồng không thỏa thuận cụ thể thì có thể áp dụng theo
thói quen trong hoạt động thương mại đã hình thành giữa các bên.
+ Quan hệ giữa pháp luật với tập quán thương mại:
Tập quán thương mại là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động
thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được
các bên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương
mại.
Trường hợp pháp luật không có quy định, các bên không có thỏa thuận và không
có thói quen đã được thiết lập giữa các bên thì áp dụng tập quán thương mại nhưng
không được trái với những nguyên tắc quy định trong Luật này và trong Bộ luật Dân sự.
- Vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế trong
việc ký kết và thực hiện hợp đồng tại Việt Nam
+ Các hợp đồng ký giữa các tổ chức, cá nhân mang quốc tịch Việt Nam với nhau
thì áp dụng theo pháp luật Việt Nam. Các bên không được thỏa thuận áp dụng pháp luật
nước ngoài.
+ Các bên trong hợp đồng có yếu tố nước ngoài được thỏa thuận áp dụng pháp
luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương
mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Hợp đồng
có yếu tố nước ngoài thường là những hợp đồng được ký giữa một bên Việt Nam với các cá
nhân, tổ chức nước ngoài.
1.3. Tiêu chí hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
Kể từ khi đổi mới, cải cách và mở cửa, đất nước ta đã đạt được những thành tựu
to lớn trên tất cả các mặt của đời sống chính trị, xã hội. sự phát triển của đất nước cũng
đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để một mặt có đầy đủ khung pháp lý để
điều chỉnh các hoạt động của đời sống xã hội, mặt khác, để phù hợp với luật pháp quốc tế
trong bối cảnh hội nhập.
Hợp đồng là một vấn đề khó khăn và phức tạp. hoàn thiện pháp luật hợp đồng
cũng có nghĩa là giúp các bên tham gia ký kết được yên tâm, khắc phục rủi ro quyền lợi
cho các. Yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật hợp đồng nói riêng
là một yêu cầu mang tính thường xuyên và liên tục của nhà nước nhằm đảm bảo quyền
lợi cho các cá nhân và các doanh nghiệp hay các tổ chức.
Có nhiều tiêu chuẩn để đánh giá mức độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật,
trong đó có bốn tiêu chuẩn cơ bản là: tính toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp và trình
độ kỹ thuật pháp lý của hệ thống pháp luật.
1.3.1. Tính toàn diện
Tính toàn diện của hệ thống pháp luật thể hiện ở hai cấp độ:
- ở cấp độ chung, đòi hỏi pháp luật phải có đủ các nghành luật theo cơ cấu nội
dung lôgíc và thể hiện thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tương ứng.
- ở cấp độ cụ thể, đồi hỏi mỗi ngành luật phải có đầy đủ các chế định pháp luật và
các quy phạm pháp luật.
Tham gia các hoạt động kinh tế nói chung và hợp đồng nói riêng là quyền, vừa là
nghĩa vụ của các cá nhân và các tổ chức. tính hoàn thiện của pháp luật hợp đồng phải bảo
đảm được yêu cầu: pháp luật về hợp đồng phải có đầy đủ các quy phạm pháp luật để điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong các vấn đề hợp đồng. đó là những quy định về
đối tượng áp dụng hợp đồng: điều kiện ký kết hợp đồng; tổ chức thực hiện và quản lý
giám sát của các bên về việc thực hiện hợp đồng.bên cạnh sự hoàn thiện pháp luật về hợp
đồng nói chung (Bộ luật Dân sự) cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật về
các hợp đồng chuyên ngành …có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tham
gia quan hệ hợp đồng.
1.3.2. Tính đồng bộ và thống nhất
Tính đồng bộ, thống nhất là yêu cầu khách quan, là tiêu chí đánh giá mức độ
hoàn thiện và chất lượng của hệ thống pháp luật. Điều này có nghĩa là, khi xem xét mức
độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật thì cần phải xem xét giữa các bộ phận, quy
phạm pháp luật của nó có trùng lặp, chồng chéo hay mâu thuẫn và xung đột với nhau
không. Tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật được thực hiện trên những điểm
sau:
Một là, tính đồng bộ thể hiện ở sự đồng bộ giữa hiến pháp với các đạo luật và
phải xây dựng được một hệ thống quy phạm pháp luật căn bản trong hiến pháp, hoàn
thiện hiến pháp nhằm tạo cơ sở củng cố tính thống nhất của toàn bộ hệ thống pháp luật.
Hai là, tính đồng bộ, thống nhất thể hiện sự thống nhất, không mâu thuẫn không
xung đột, không trùng lặp, chồng chéo trong mỗi nghành luật, mỗi chế định pháp luật và
giữa các quy phạm pháp luật trong cùng một nghành luật khác nhau.
Ba là, tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật thể hiện ở sự đồng bộ,
thống nhất giữa văn bản luật dưới các văn bản dưới luật.
Bốn là, trong điều kiện đảng cầm quyền, cần phải đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất
giữa các quy đinh của pháp luật với đường lối, chính sách của Đảng.
Tính đồng bộ, thống nhất là tiêu chí vô cùng quan trọng trong việc hoàn thiện
pháp luật hợp đồng. Pháp luật hợp đồng có được áp dụng hiệu quả trong thực tế hay
không hoàn toàn phụ thuộc vào việc có tuân thủ triệt để tính đồng bộ thống nhất hay
không. Thực tế ở nước ta, nhiều văn bản đã được ban hành nhưng rất khó đi vào cuộc
sống vì sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản đó.
1.3.3. Tính phù hợp
Tính phù hợp của pháp luật hợp đồng phải thể hiện mối quan hệ giữa những quy
phạm pháp luật quy định về hợp đồng với trình độ phát triển, hoàn cảnh thực tiễn của đất
nước. Pháp luật hợp đồng phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nếu trình độ phát triển kinh tế – xã hội cao, chủ thể ký kết hợp đồng sẽ rất đa dạng và nội
dung ký kết hợp đồng cũng sẽ rất phức tạp nhưng pháp luật hợp đồng lại không bắt kịp
thì sẽ dẫn đến tình trạng hổng, không có pháp luật điều chỉnh. Ngược lại khi điều kiện
kinh tế – xã hội chậm phát triển, nền kinh tế vận hành theo cơ chế hành chính bao cấp, thì
các nguyên tắc cơ bản của hợp đồng và yếu tố tự nguyện thoả thuận trong hợp đồng sẽ
không được thể hiện và những quy định đó mãi mãi chỉ là quy định mà sẽ không thực
hiện được trong thực tế. Trong điều kiện hiện nay của nước, các quy định của pháp luật
về hợp đồng đã được hoàn thiện ở mức độ đáng kể. Bộ luật Dân sự 2005 ra đời đã thống
nhất được các quan điểm và cách phân loại khác nhau về hợp đồng, xoá bỏ được việc
phân tách giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế nhưng vẫn bảo đảm được tính ưu
tiên của các hợp đồng thương mại, tạo ra được sự rành mạch giữa pháp luật về hợp đồng
nói chung và pháp luật về hợp đồng chuyên ngành. Trong điều kiện nước ta đã là thành
viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), việc hoàn thiện pháp luật về
hợp đồng nhằm phù hợp với các yêu cầu của các hoạt động kinh doanh quốc tế và các
hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là hết sức cần thiết cho các doanh nghiệp.
1.3.4. Tính minh bạch
Pháp luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong đời
sống xã hội. Đối với vấn đề hợp đồng cũng vậy, các quan hệ hợp đồng luôn luôn phát
triển theo sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội. Chính vì vậy, pháp luật về hợp đồng
do nhà nước ban hành nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như bảo đảm
các yêu cầu của nhà nước trong quan lý và định hướng sự phát triển của xã hội luôn luôn
phải phản ánh đúng sự phát triển của các quan hệ xã hội. Trên cơ sở nhà nước đã ban
hành pháp luật về hợp đồng phù hợp với các quan hệ hợp đồng đang tồn tại thì cần thiết
phải công bố, công khai nội dung của các văn bản pháp luật tới mọi chủ thể trong xã hội
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Để bảo đảm tính minh bạch, pháp luật về
hợp đồng phải có nội dung thật cụ thể, rõ ràng và tránh tình trạng đa nghĩa của từ ngữ.
Quan hệ hợp đồng rất phong phú và đa dạng, pháp luật về hợp đồng được chứa đựng
trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau (Bộ luật Dân sự, luật Thương mại,
luật bảo hiểm….) sẽ rất khó khăn cho việc tìm hiểu đầy đủ và toàn diện của các chủ thể
tham gia hợp đồng. Chính vì vậy, việc bảo đảm tính minh bạch của pháp luật về hợp
đồng là hét sức cần thiết và quan trọng cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng.
1.3.5. Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh phải được xây dựng ở trình độ lập
pháp cao
Kỹ thuật lập pháp là một vấn đề rông lớn, phức tạp, trong đó có ba điểm quan
trọng, cần thiết phải chú ý khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật là:
Kỹ thuật lập pháp thể hiện ở những nguyên tắc tối ưu được vạch ra để áp dụng
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
Trình độ kỹ thuật lập pháp thể hiện ở việc xác định các cơ cấu của pháp luật.
Các biểu đạt bằng ngôn ngữ trong pháp luật phải đảm bảo tính cô đọng, lôgíc,
chính xác và một nghĩa.
Hoàn thiện pháp luật hợp đồng ở nước ta là một tất yếu khách quan, xuất phát từ
yêu cầu kinh tế –xã hội của đất nước trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy
nhiên hoàn thiện pháp luật hợp đồng cần đáp ứng được mục đích là hỗ trợ, bảo đảm
quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia ký kết hợp đồng. Trên cơ sở những căn cứ
khoa học, quán triệt, tuân thủ những nguyên tắc của hợp đồng có thể xây dựng một mô
hình pháp luật hợp đồng phù hợp với điều kiện của đất nước ta hiện nay.
Những nguyên tắc cơ bản đó là: hợp đồng phải mang tính tự nguyện, bình đẳng
về quyền và nghĩa vụ của các bên, việc ký kết hợp đồng phải được dân chủ, công khai,
minh bạch.
Trong quá trình hoàn thiện pháp luật hợp đồng, ngoài việc phải tuân thủ triệt để
các nguyên tắc nêu trên thì ngôn ngữ trong các văn bản luật phải thật sự rõ ràng, chính
xác không đa nghĩa. Có như vậy thì người tham gia hợp đồng mới dễ hiểu, dễ thực hiện
vì chủ thể của hợp đồng rất đa dạng: có thể là người lao động phổ thông, trình độ còn hạn
chế, cũng có thể là các đơn vị kinh doanh, đơn vị hành chính sự nghiệp.
1.3.6. Tính tương thích với các văn bản pháp luật quốc tế và Việt Nam đã
tham gia ký kết và phê chuẩn
Trong thời gian dài, trình độ xây dựng pháp luật và chất lượng pháp luật của
chúng ta chưa theo kịp trình độ phát triển của đất nước và của thời đại. Điều này, một
mặt cho chúng ta chịu hậu quả cho chính sách bao vây và cấm vận, không có điều kiện
tiếp xúc với bên ngoài, hạn chế sự tiếp thu những tinh hoa và phát triển trong hệ thống
pháp luật quốc tế; mặt khác, về chủ quan, chúng ta cũng chưa quan tâm đúng mức đến
công tác lập pháp, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và chuyển hoá
pháp luật quốc tế vào nội dung pháp luật trong nước nói riêng.
Để hoàn thiện pháp luật hợp đồng thì chúng ta không thể không tham khảo quá
trình xây dựng và phát triển về hợp đồng của các nước có nền lập pháp phát triển, các
điều ước liên quan mà Việt Nam đã tham gia ký kết.
Ngày nay, các quan hệ hợp đồng có vai trò quan trọng cho không những các chủ
thể mà nó còn có vai trò quan trọng cho nhà nước vì nó gán liền với từng hoạt động của
các chủ thể trong phạm vi nội bộ đơn vị và trong phạm vi một đát nước, phạm vi quốc tế.
Chúng ta trong quá trình triền khai thực hiện pháp luật hợp đồng sẽ rất lợi nhuận vì
chúng ta đi sau nên sẽ tham khảo, học hỏi kinh nghiệm của tổ chức quốc tế, cũng như
những nước đã áp dụng pháp luật hợp đồng rất thành công. Việc tham khảo, và nếu trong
trường hợp áp dụng, không chỉ là sự kế thừa các thành tựu và tiến bộ của hệ thống pháp
lý văn minh nhân loại mà còn thực hiện sự giao hợp và tiếp cân co kế thừagiữa các quy
định pháp luật trong nước với pháp luật quốc tế. Như vậy, pháp luật của chúng ta sẽ hoàn
thiện hơn cả trong bối cảnh quốc gia và trong mối tương quan với pháp luật quốc tế về
hợp đồng.
Chương 2
Thực trạng pháp luật về hợp đồng
ở Việt Nam hiện nay
1. lịch sử phát triển của pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam
Trình bày tính lịch sử của một vấn đề là phải đề cập vấn đề đó trong một khoảng
thời gian dài, cụ thể là phải nhiều năm, nhiều thập kỷ, hay nhiều thế kỷ. Trong suốt chiều
dài lịch sử đó cần thiết phải nói rõ trình bày sự phát triển và nội dung cụ thể của từng thời
kỳ. Đối với lịch sử hình thành của chế định hợp đồng ở Việt Nam, tác giả trình bày ở
mức độ khái quát và phần chia thành một số giai đoạn nhất định. Cơ sở cho sự phân chia
thành các giai đoạn là đánh giá sự phát triển của các quan hệ hợp đồng và sự hoàn thiện
của pháp luật về hợp đồng được phân chia thành các giai đoạn như sau:
2.1.1 Giai đoạn trước năm 1995
Trong những năm đầu dành được chính quyền, pháp luật của Việt Nam dân chủ
cộng hoà còn sử dụng nhiều hình thức pháp luật cũ, do vậy pháp luật hợp đồng cũng tồn
tại trong nhiều văn bản pháp luật của giai đoạn Pháp thuộc để lại.
Ngày 10/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 90/SL cho phép tạm sử
dụng một số luật lệ hiện hành ở Bắc - Trung - Nam cho đến khi ban hành những bộ luật
duy nhất cho toàn quốc nếu "những luật lệ ấy không trái với nguyên tắc độc lập của nước
Việt Nam và chỉnh thể dân chủ cộng hòa". Đồng thời, các Bộ luật Dân sự Nam Kỳ giản
yếu 1883; Bộ dân luật Bắc Kỳ 1931 và Bộ dân luật Trung Kỳ (Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ
luật) 1936 được tiếp tục thi hành. Như vậy, tại ba miền Bắc - Trung - Nam tồn tại ba bộ
dân luật 1883, 1931, 1936.
Tiếp đó, ngày 22/5/1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 97/SL "Sửa đổi
một số quy lệ và chế định trong dân luật", việc này có ý nghĩa đặc biệt trong sự phát triển
của luật dân sự. Sắc lệnh này một mặt không hủy bỏ nhưng quy định của các bộ dân luật
cũ, mặt khác nó bổ sung, thay đổi làm cho các bộ luật của "đế quốc phong kiến" có nội
dung mới, đáp ứng yêu cầu hiện tại của các vấn đề luật dân sự và đặc biệt là các vấn đề
về hợp đồng, đem đến những biến đổi thực sự trong cách thức sinh hoạt và tư tưởng của
nhân dân Việt Nam; đặt cơ sở, những nguyên tắc cơ bản cho sự hình thành và phát triển
của luật dân sự - pháp luật dân sự của một nhà nước độc lập, có chủ quyền. "Khi lập ước
mà có sự tổn thiệt do sự bóc lột của một bên vì điều kiện kinh tế của hai bên chênh lệch
thì khế ước có thể bị coi là vô hiệu" (Điều 13)…
Đây cũng là giai đoạn các đơn vị kinh tế cơ quan, xí nghiệp nhà nước, kinh tế thị
trường tiến hành song song với hoạt động kinh tế tư nhân. Để thu hút mọi hoạt động kinh
tế và xây dựng quan hệ sản xuất mới – qun hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Thủ tướng đã
ban hành Nghị định 735/TTg ngày 10/4/1957, kèm theo nghị định là bản điều lệ tạm thời
về hợp đồng kinh doanh. Nội dung chính của bản điều lệ quy định tính chất các quan hệ
hợp đồng giữa các đơn vị kinh tế kinh doanh hợp tác xã, công ty hợp doanh, tư doanh
Việt Nam và ngoại kiều kinh doanh trên đất Việt Nam. Nội dung chính của điều lệ kèm
theo Nghị định 735/TTg đã đề cập tới hợp đồng kinh doanh, hợp đồng kinh doanh được
thiết lập trên phương thức hai hay nhiều đơn vị kinh doanh tự nguyện ký kết với nhau để
thực hiện các mục đích nhất định, nhằm phát triển kinh doanh công nghiệp và thương
nghiệp, góp phầm thực hiện những công việc của nhà nước giao cho. Hợp đồng kinh
doanh được xây dựng trên nguyên tắc các bên tự nguyện ký kết, cùng có lợi và đem lại
lợi ích cho nền kinh tế quốc dân. Nội dung của điều lệ còn quy định thêm một bên tham
gia ký kết hợp đồng kinh doanh là tư doanh, tuy nhiên các hợp đồng kinh doanh có tư
doanh tham gia phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (thông thường là
cơ quan công thương tỉnh hay ủy ban hành chính cấp huyện). Điều lệ tạm thời về hợp dòng
kinh doanh của Nghị định 735/TTg ngày 10/04/1975 đã đóng góp một phần nhất định
trong viẹc khai thác các thành phần kinh tế vào phát triển chung của nền kinh tế đất nước,
cải tạo quan hệ cũ và từng bước xây dựng quan hệ mới
Hiến pháp năm 1959 ra đời đánh dấu một giai đoạn phát triển của quá trình lập
pháp Việt Nam, Hiến pháp của Nhà nước dân chủ cộng hòa, Hiến pháp của thời kỳ xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Xây dựng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc, đã đặt ra yêu cầu "xoá bỏ lối quản lý hành chính cung cấp, thực
hiện phương pháp quản lý theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, … xây dựng
cách tổ chức quản lý của nền công nghiệp lớn nhằm thúc đẩy quá trình đưa nền kinh tế
quốc dân từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa". Ngày 10/3/1975 Chính
phủ đã ban hành bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh doanh (ban hành kèm theo Nghị
định 54/CP ngày 10/3/1975 của hội đồng chính phủ). Nội dung chính của Nghị định
54/CP chủ yếu gồm các vấn đề: Vai trò của hợp đồng kinh tế, nguyên tắc ký kết, và thực
hiện hợp đồng kinh tế, giải quyết tranh chấp và trách nhiệm do vi phạm chế độ hợp đồng
… Đặc điểm chính của hợp đồng theo Nghị định 54/CP là khi ký kết hợp đồng phải bảo
đảm hai yêu cầu: bảo đảm yếu tố trao đổi tài sản và bảo đảm tính kế hoạch của nhà nước.
Việc quy định hợp đồng phải bảo đảm yếu tố kế hoạch của nhà nước đã làm cho bản chất
của hợp đồng bị thay đổi và hợp đồng trở thành công cụ của nhà nước để can thiệp vào
các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, nội dung quy định Nghị định 54/CP về hợp đồng
cũng đã đáp ứng yêu cầu của công việc của công cuộc cải cách kinh tế, đưa quan hệ hợp
đồng trở thành nề nếp.
Từ đầu những năm 80, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để áp
dụng các quan hệ hợp đồng. Đặc trưng của các quy định pháp luật áp dụng các quan hệ
hợp đồng trong giai đoạn này là chịu ảnh hưởng sâu sắc của cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu, bao cấp cao độ, biện pháp hành chính được sử dụng phổ biến làm sai
lệch bản chất của các quan hệ hợp đồng với những đặc trưng của nó bình đẳng, tự định
đoạt giữa các chủ thể. Phương pháp áp dụng của luật hành chính đã phổ cập trong các
quan hệ dân sự.
Từ giữa những năm 80, khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp
luật nhằm thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới kinh tế - xã hội.
Nhìn chung, các văn bản này đã góp phần phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế,
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Bước đầu thể hiện được những nguyên
tắc cơ bản của pháp luật hợp đồng là tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn
nhau phù hợp với thông lệ quốc tế trong giao lưu dân sự.
Các văn bản ban hành trong giai đoạn này có tính hiệu lực tương đối cao thể hiện
dưới dạng Luật, Pháp lệnh và các Nghị định hướng dẫn thi hành, các Luật và Pháp lệnh
được Quốc hội và Hội đồng Nhà nước ban hành. Các văn bản pháp luật, Pháp lệnh
Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam (1988): nội dung chính của pháp lệnh
là quy định các điều kiện của các dây chuyền công nghệ khi chuyển vào Việt Nam, Pháp
lệnh Hợp đồng kinh tế (1989), Pháp lệnh Hợp đồng dân sự (1991). Đối với pháp lệnh hợp
đồng kinh tế ở Việt Nam, nó đã thể chế hoá được những quan điểm và tư tưởng về đổi
mới trong quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước, bảo đảm tính chất bình đẳng và tự
nguyện khi ký kết hợp đồng kinh tế, tách các quan hệ hợp đồng kinh tế thành một loại
hợp đồng độc lập và nhằm phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, (vì đây là giai
đoạn nhà nước ta đã thực hiện chủ chương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đặc biệt, đây là giai đoạn thực hiện chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài
và sự xuất hiện các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam). Việc ban hành
pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã đánh dấu sự ra đời của loại hợp đồng mới trong hệ thống
các loại hợp đồng đó là hợp đồng kinh tế " Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn
bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về viẹc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi
hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác
có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của bên đẻ thực
hiện kế hoạch của mình" (Điều 1 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 25/09/1989). Pháp lệnh hợp
đồng dân sự được ban hành đã cụ thể hoá các quan hệ hợp đồng dân sự và tách biệt nó
với các hợp đồng kinh tế.
2.1.2 Giai đoạn từ 1996 đến 2005
Nhà nước ta ban hành Hiến pháp 1992 - Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, hàng loạt
các văn bản pháp luật được ban hành, sửa đổi, áp dụng cho phù hợp với Hiến pháp.
Bộ luật Dân sự được ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/7/1996. Sự ra đời của Bộ
luật Dân sự năm 1996 là một bước phát triển rất tiến bộ của khoa học pháp lý nói chung và
các quan hệ hợp đồng dân sự nói riêng cũng được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật ở
cấp độ bộ luật, Trong Bộ luật dân sự có tới 204 điều quy định về hợp đồng bao gồm nhiều
nội dung như: giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, sửa đổi chấm dứt hợp đồng và quy
định nhiều loại hợp đồng thông dụng trong đời sống kinh tế. Bộ luật Dân sự năm 1996 đã
đóng góp quan trong trong các giao dịch dân sự nói chung và hợp đồng nói riêng, tách biệt
cụ thể gữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự. Luật Thương mại năm 1997, đã bổ sung
những thiếu sót và bất cập của pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 như: chủ thể tham gia
ký kết hợp đồng thương mại có thể là các cá nhân là thương nhân mà không cần thiết phải là
pháp nhân, mở rộng hơn phạm vi hình thức của hợp đồng như: hợp đồn có thể ký kết qua
fax, thư điện tử…. Như vậy, hệ thống pháp luật về hợp đồng trong giai đoạn này chủ yếu
được quy định trong Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, luật Thương mại. Do tính
đọc lập của Bộ luật Dân sự với Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Luật Thương mại, hợp đồng đã
hình thành hai nhóm hợp đồng lớn đó là nhóm các hợp đồng dân sự và nhóm các hợp đồng
kinh tế. Việc quy định các tiêu chí để quy định thế nào là hợp đồng kinh tế và thế nào là hợp
đồng dân sự đã hình thành tác động tới tư duy pháp lý là phải phân biệt rành mạch giữa hai
nhóm hợp đồng này trong các hoạt động tư pháp. Đây là một trong những điểm hạn chế và
gây ra nhiều khó khăn cho việc xét xử khi có vi pham hợp đồng của các bên.
2.1.3. Giai đoạn từ năm 2006 tới nay
Sự ra đời của Bộ luật Dân sự 2005 và có hiệu lực ngày 01/01/2006 đã chấm dứt
sự tồn tại của khái niệm hợp đồng kinh tế, bãi bỏ các tiêu chí để quy định thế nào là hợp
đồng kinh tế và thế nào là hợp đồng dân sự. Bộ luật Dân sự năm 2005 khắc phục được sự
chồng chéo của các quy định pháp luật áp dụng quan hệ hợp đồng, và trở thành luật
chung của pháp luật về hợp đồng. Các quy định pháp luật về hợp đồng được quy định
trong bộ luật Dân sự năm 2005 được áp dụng đối với các quan hệ hợp đồng dân sự và các
quan hệ hợp đồng trong kinh doanh. Cùng với sự ra đời của Bộ luật Dân sự 2005 là Luật
Thương mại 2005, đây là hai văn bản pháp luật có vị trí và vai trò quan trọng trong việc
áp dụng các quan hệ hợp đồng. Luật Thương mại điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong
kinh doanh nhưng đó thường là các quan hệ kinh doanh có tính thương mại chuyên biệt
hay các quan hệ thương mại có yếu tố nước ngoài. Sự tồn tại song song của Luật Thương
mại Việt Nam năm 2005 không mang ý nghĩa tách biệt hợp đồng dân sự với hợp đồng
trong kinh doanh mà sự tồn tại của nó vừa có tính lịch sử hệ thống pháp luật hợp đồng
việt Nam vừa bảo đảm quan điểm của Đảng là thúc đẩy nhanh sự phát triển các quan hệ
kinh tế nước ta. Với sự ra đời của Bộ luật Dân sự là một bước tiến quan trong và đóng
góp to lớn đối với các quan hệ dân sự, kinh tế đánh dấu một bước quan trọng trong quá
trình lập pháp của Nhà nước ta. Bộ luật có tầm quan trọng "sau Hiến pháp" áp dụng các
quan hệ hợp đồng rất đa dạng, phức tạp, làm nền tảng và định hướng cho việc phát triển
các quan hệ dân sự, kinh tế, hôn nhân gia đình, lao động.
Ngoài các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự, còn có nhiều văn bản
pháp luật khác nhau chứa đựng các quy phạm pháp luật liên quan đến hợp đồng như: Bộ
luật Hàng hải Việt Nam, Luật Thương mại, Luật xây dựng, Luật Kinh doanh bảo hiểm,
Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật Giao thông đường thủy nội địa...
2.2 Thực trạng pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam hiện nay
Pháp luật về hợp đồng bao gồm rất nhiều nội dung khác nhau, nhưng trong
khuôn khổ luận văn này tác giả chỉ phân tích, đánh giá các vấn đề liên quan đến: Giao kết
hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và xử lý hậu quả hợp đồng vô hiệu
cũng như trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng. Trong từng nội dung, luận văn cố
gắng chỉ ra các quy định mới của pháp luật về hợp đồng, đánh giá sự tác động của chúng
tới thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng. Từ đó chỉ ra các điểm bất hợp lý trong cơ chế
áp dụng pháp luật đối với hợp đồng trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
2.2.1. Giao kết hợp đồng
Giao kết hợp đồng là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo những nguyên tắc và
trình tự để qua đó xác lập với nhau các quyền, nghĩa vụ dân sự.
2.2.1.1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng
Theo quy định tại Điều 389 Bộ luật Dân sự khi giao kết hợp đồng các chủ thể
phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
- Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể thỏa mãn được các nhu cầu về đời sống vật
chất cũng như tinh thần Bộ luật Dân sự cho phép, mọi chủ thể được quyền "tự do giao kết
hợp đồng". Theo nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ tư cách chủ thể đều có
quyền tham gia giao kết bất kỳ một hợp đồng nào, nếu họ muốn, mà không ai có quyền
ngăn cản và mọi sự ngăn cản việc ký kết hợp đồng đều vô hiệu. Bằng ý chí tự do của
mình, các chủ thể có quyền giao kết những hợp đồng dân sự đã được pháp luật quy định
cụ thể cũng như những hợp đồng khác dù rằng pháp luật chưa quy định. Ngoài Bộ luật
Dân sự, điều bốn của pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Điều 11 Luật Thương mại cũng đã quy
định khá cụ thể vấn đề này. Cho dù Pháp lệnh hợp đồng kinh tế không còn hiệu lực, song
giá trị về quyền tự do giao kết hợp đồng vẫn còn nguyên vẹn. Tuy nhiên, sự tự do ý chí đó
phải nằm trong một khuôn khổ nhất định. Bên cạnh việc chú ý đến quyền lợi của mình, các
chủ thể phải hướng tới việc bảo đảm quyền lợi của những người khác cũng như lợi ích của
toàn xã hội. Vì vậy, tự do của mỗi chủ thể phải "không trái pháp luật, đạo đức xã hội". Nằm
trong mối liên hệ tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ, mỗi một chủ thể vừa có quyền "tự
do giao kết hợp đồng" vừa có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật và đạo đức xã hội. Lợi ích của
cộng đồng (được quy định bằng pháp luật) và đạo đức xã hội được coi là "sự giới hạn" ý
chí tự do của mỗi người chủ thể trong việc giao kết hợp đồng dân sự nói riêng, cũng như
đối với mọi hành vi nói chung của họ.
- Các bên tự nguyện và bình đẳng trong giao kết hợp đồng.
Khoản 2 của Điều 389 Bộ luật Dân sự quy định đối với các chủ thể khi giao kết
hợp đồng phải: "Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng".
Nguyên tắc này thể hiện bản chất của quan hệ dân sự, quy luật giá trị đòi hỏi các
bên khi thiết lập các quan hệ trao đổi phải bình đẳng với nhau. Không một ai được lấy lý
do khác biệt về thành phần xã hội, dân tộc, giới tính, tôn giáo v.v... để làm biến dạng các
quan hệ dân sự. Mặt khác, chỉ khi nào các bên bình đẳng với nhau về mọi phương diện
trong giao kết hợp đồng, thì ý chí tự nguyện của các bên mới thật sự được bảo đảm. Vì
vậy, theo nguyên tắc này, những hợp đồng được giao kết thiếu bình đẳng và không có sự
tự nguyện của các bên sẽ không được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, đánh giá một hợp
đồng có phải là ý chí tự nguyện của các bên hay không là một công việc tương đối phức
tạp và khó khăn trong thực tế.
Hợp đồng là sự thỏa thuận thống nhất ý chí của các chủ thể tham gia. Vì thế,
muốn xem xét các chủ thể có tự nguyện trong giao kết hợp đồng hay không, cần phải dựa
vào sự thống nhất biện chứng giữa hai phạm trù: ý chí và sự bày tỏ ý chí. Như chúng ta
đã biết, ý chí là mong muốn chủ quan bên trong của mỗi chủ thể, nó phải được bày tỏ ra
bên ngoài thông qua một hình thức nhất định. ý chí và sự bày tỏ ý chí là hai mặt của một
vấn đề, chúng luôn có quan hệ mật thiết, gắn bó khăng khít với nhau.
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường

Más contenido relacionado

La actualidad más candente

La actualidad más candente (20)

Báo cáo kiến tập tại Phòng Công chứng số 6 Thành phố Hồ Chí Minh
Báo cáo kiến tập tại Phòng Công chứng số 6 Thành phố Hồ Chí MinhBáo cáo kiến tập tại Phòng Công chứng số 6 Thành phố Hồ Chí Minh
Báo cáo kiến tập tại Phòng Công chứng số 6 Thành phố Hồ Chí Minh
 
Luận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Luận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao độngLuận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Luận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
 
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng -  vấn đề lý luận và thực tiễnLuận văn: Tự do giao kết hợp đồng -  vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại Công ...
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại Công ...Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại Công ...
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại Công ...
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đLuận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
 
Luận văn: Hợp đồng cung cấp dịch vụ phần mềm theo pháp luật
Luận văn: Hợp đồng cung cấp dịch vụ phần mềm theo pháp luậtLuận văn: Hợp đồng cung cấp dịch vụ phần mềm theo pháp luật
Luận văn: Hợp đồng cung cấp dịch vụ phần mềm theo pháp luật
 
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóaLuận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo luật
Luận văn: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo luậtLuận văn: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo luật
Luận văn: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo luật
 
Luận văn: Chế độ pháp lý về hợp đồng dịch vụ tại công ty Mộc Dũng
Luận văn: Chế độ pháp lý về hợp đồng dịch vụ tại công ty Mộc Dũng Luận văn: Chế độ pháp lý về hợp đồng dịch vụ tại công ty Mộc Dũng
Luận văn: Chế độ pháp lý về hợp đồng dịch vụ tại công ty Mộc Dũng
 
Luận văn: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) theo Luật Đầu tư
Luận văn: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) theo Luật Đầu tưLuận văn: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) theo Luật Đầu tư
Luận văn: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) theo Luật Đầu tư
 
Đề tài: Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư theo pháp luật, HOT
Đề tài: Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư theo pháp luật, HOTĐề tài: Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư theo pháp luật, HOT
Đề tài: Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mạiLuận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại
 
Luận văn: Trình tự thủ tục đấu thầu mua sắm hàng hóa theo luật
Luận văn: Trình tự thủ tục đấu thầu mua sắm hàng hóa theo luậtLuận văn: Trình tự thủ tục đấu thầu mua sắm hàng hóa theo luật
Luận văn: Trình tự thủ tục đấu thầu mua sắm hàng hóa theo luật
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAY
Luận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAYLuận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAY
Luận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAY
 
Luận văn: Hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật lao động, 9đ
Luận văn: Hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật lao động, 9đLuận văn: Hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật lao động, 9đ
Luận văn: Hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật lao động, 9đ
 
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt NamLuận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
 
Luận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAY
Luận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAYLuận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAY
Luận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, HOT
Luận văn: Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, HOTLuận văn: Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, HOT
Luận văn: Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, HOT
 
Luận văn: Công chứng, chứng thực các giao dịch về đất đai, HAY
Luận văn: Công chứng, chứng thực các giao dịch về đất đai, HAYLuận văn: Công chứng, chứng thực các giao dịch về đất đai, HAY
Luận văn: Công chứng, chứng thực các giao dịch về đất đai, HAY
 
Luận văn: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật, HOT
Luận văn: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật, HOTLuận văn: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật, HOT
Luận văn: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật, HOT
 

Similar a Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường

Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt namHiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
https://www.facebook.com/garmentspace
 
Tiểu Luận Phương Thức Thực Hiện Điều Ước Quốc Tế Trong Luật Quốc Tế.docx
Tiểu Luận Phương Thức Thực Hiện Điều Ước Quốc Tế Trong Luật Quốc Tế.docxTiểu Luận Phương Thức Thực Hiện Điều Ước Quốc Tế Trong Luật Quốc Tế.docx
Tiểu Luận Phương Thức Thực Hiện Điều Ước Quốc Tế Trong Luật Quốc Tế.docx
Nhận viết đề tài trọn gói Số điện thoại / zalo / tele: 0917.193.864
 

Similar a Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường (20)

Các Điều Kiện Có Hiệu Lực Của Hợp Đồng Dân Sự
Các Điều Kiện Có Hiệu Lực Của Hợp Đồng Dân SựCác Điều Kiện Có Hiệu Lực Của Hợp Đồng Dân Sự
Các Điều Kiện Có Hiệu Lực Của Hợp Đồng Dân Sự
 
Ve tai san tri tue tu do kinh doanh tu do hop dong va ... tckhpl so 2(69)-2012
Ve tai san tri tue   tu do kinh doanh tu do hop dong va ... tckhpl so 2(69)-2012Ve tai san tri tue   tu do kinh doanh tu do hop dong va ... tckhpl so 2(69)-2012
Ve tai san tri tue tu do kinh doanh tu do hop dong va ... tckhpl so 2(69)-2012
 
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAYLuận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
 
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt namHiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
 
Luan an hieu luc cua hop dong theo qui dinh cua phap luat viet nam
Luan an   hieu luc cua hop dong theo qui dinh cua phap luat viet namLuan an   hieu luc cua hop dong theo qui dinh cua phap luat viet nam
Luan an hieu luc cua hop dong theo qui dinh cua phap luat viet nam
 
Phap luat ve hop dong o viet nam
Phap luat ve hop dong o viet namPhap luat ve hop dong o viet nam
Phap luat ve hop dong o viet nam
 
BAI TAP CUOI KY MON - PHAP LUAT HOP DONG.docx
BAI TAP CUOI KY MON - PHAP LUAT HOP DONG.docxBAI TAP CUOI KY MON - PHAP LUAT HOP DONG.docx
BAI TAP CUOI KY MON - PHAP LUAT HOP DONG.docx
 
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận, 9 ĐIỂM
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận, 9 ĐIỂMLuận văn: Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận, 9 ĐIỂM
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật - Gửi miễn phí qu...
 
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
 
Luận văn: Sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại
Luận văn: Sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mạiLuận văn: Sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại
Luận văn: Sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại
 
2321nhana (2)
2321nhana (2)2321nhana (2)
2321nhana (2)
 
Luan van giai thich hop dong theo phap luat dan su viet nam, hot
Luan van giai thich hop dong theo phap luat dan su viet nam, hotLuan van giai thich hop dong theo phap luat dan su viet nam, hot
Luan van giai thich hop dong theo phap luat dan su viet nam, hot
 
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
 
Một số vấn đề pháp lý cơ bản của luật ký kết và gia nhập thực hiện điều ước q...
Một số vấn đề pháp lý cơ bản của luật ký kết và gia nhập thực hiện điều ước q...Một số vấn đề pháp lý cơ bản của luật ký kết và gia nhập thực hiện điều ước q...
Một số vấn đề pháp lý cơ bản của luật ký kết và gia nhập thực hiện điều ước q...
 
Báo Cáo Thực Tập Thực Tiễn Thực Hiện Các Quy Định Pháp Luật Về Hợp Đồng T...
Báo Cáo Thực Tập Thực Tiễn Thực Hiện Các Quy Định Pháp Luật Về Hợp Đồng T...Báo Cáo Thực Tập Thực Tiễn Thực Hiện Các Quy Định Pháp Luật Về Hợp Đồng T...
Báo Cáo Thực Tập Thực Tiễn Thực Hiện Các Quy Định Pháp Luật Về Hợp Đồng T...
 
Luận văn vi phạm hợp đồng, 9 ĐIỂM
Luận văn vi phạm hợp đồng, 9 ĐIỂMLuận văn vi phạm hợp đồng, 9 ĐIỂM
Luận văn vi phạm hợp đồng, 9 ĐIỂM
 
Tiểu Luận Phương Thức Thực Hiện Điều Ước Quốc Tế Trong Luật Quốc Tế.docx
Tiểu Luận Phương Thức Thực Hiện Điều Ước Quốc Tế Trong Luật Quốc Tế.docxTiểu Luận Phương Thức Thực Hiện Điều Ước Quốc Tế Trong Luật Quốc Tế.docx
Tiểu Luận Phương Thức Thực Hiện Điều Ước Quốc Tế Trong Luật Quốc Tế.docx
 
Pháp luật về hợp đồng kinh doanh Bất động sản ở việt nam.doc
Pháp luật về hợp đồng kinh doanh Bất động sản ở việt nam.docPháp luật về hợp đồng kinh doanh Bất động sản ở việt nam.doc
Pháp luật về hợp đồng kinh doanh Bất động sản ở việt nam.doc
 
Hợp Đồng Mua Bán Nhà Ở Theo Pháp Luật Việt Nam.doc
Hợp Đồng Mua Bán Nhà Ở Theo Pháp Luật Việt Nam.docHợp Đồng Mua Bán Nhà Ở Theo Pháp Luật Việt Nam.doc
Hợp Đồng Mua Bán Nhà Ở Theo Pháp Luật Việt Nam.doc
 

Más de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Más de Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Último

SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 

Último (20)

SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 

Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường

  • 1. LUẬN VĂN: Hoàn thiện pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
  • 2. mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ lâu, hợp đồng đã trở thành một công cụ pháp lý để xác lập quan hệ của các chủ thể phát sinh từ các giao lưu dân sự, kinh tế. Chúng ta đều biết rằng, nhu cầu của các tổ chức và cá nhân trong đời sống xã hội vô cùng đa dạng và phong phú. Để đáp ứng nhu cầu đó, con người phải quan hệ với nhau thông qua các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, vật phẩm. Công việc của các bên được thực hiện thông qua những cam kết đó là hợp đồng. Như vậy, hợp đồng thể hiện trong hầu hết các quan hệ mua bán của các bên trong nhiều lĩnh vực như dân sự, kinh tế, nghiên cứu khoa học... Chính vì vậy, việc áp dụng những giao dịch, cũng như các nhu cầu về vận dụng pháp luật của nhà nước để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng cũng như giải quyết những tranh chấp liên quan đến hợp đồng là hết sức cần thiết. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, khi mà các quan hệ dân sự kinh tế càng trở nên phức tạp và trong điều kiện nước ta đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì yêu cầu này càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Điều này đã được minh chứng trong chính các quy định của nhiều văn bản pháp luật, như Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, Bộ luật Hàng hải Việt Nam... Riêng Bộ luật Dân sự bao gồm 215 điều quy định về hợp đồng dân sự trên tổng số 777 điều luật, chúng ta có thể thấy được tính phức tạp, đa dạng cũng như mức độ quan trọng của quan hệ hợp đồng. Ngoài ra, Bộ luật Dân sự còn chứa đựng rất nhiều quy định có liên quan đến hợp đồng. Tuy hợp đồng là sự thỏa thuận tự nguyện của các bên nhưng để sự tự nguyện đó không không ảnh hưởng tới lợi ích của người khác và lợi ích của cộng đồng thì cần thiết có sự điều chỉnh của pháp luật. Trải qua các thời kỳ kinh tế - xã hội, pháp luật về hợp đồng của Việt Nam cũng có nhiều thay đổi. Trong thời kỳ kinh tế tập trung (trước năm 1986) vấn đề hợp đồng chủ yếu mang tính hành chính mà tập trung nhiều và biểu hiện rõ nét đó là các hợp đồng theo chỉ tiêu pháp lệnh mà không thể hiện đúng bản chất của hợp đồng. Sự ra đời của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, Pháp lệnh Hợp đồng dân sự, Bộ luật Dân sự năm 1995 và đặc biệt
  • 3. sự ra đời Bộ luật Dân sự năm 2005, chế định hợp đồng đã được hoàn thiện ở một mức độ cơ bản. Mặc dù Bộ luật Dân sự năm 2005 có nhiều quy định mới tiến bộ về hợp đồng nhưng việc áp dụng trong thực tế đang bộc lộ những điểm bất cập, những thiếu sót hạn chế. Thực tế đó đã đặt ra nhu cầu phải nghiên cứu làm rõ các quy định mới của Bộ luật dân sự 2005 liên quan đến hợp đồng; đánh giá sự tác động của chúng đến thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng, phát hiện những quy định bất hợp lý và từ đó đề xuất khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ hợp đồng, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường… Xuất phát từ lý do như vậy mà học viên đã chọn đề tài: "Hoàn thiện pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay" làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Khoa học pháp lý Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới các vấn đề khác nhau của hợp đồng như: đề tài luận án tiến sĩ "Chế độ hợp đồng trong nền kinh tế thị trường ở giai đoạn hiện nay" của tác giả Phạm Hữu Nghị, Hà Nội, 1996; Đề tài luận án tiến sĩ "Xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh ở nước ta" của tác giả Bùi Ngọc Cường, 2001; Đề tài luận văn thạc sĩ "Hợp đồng kinh doanh vô hiệu và hậu quả pháp lý của nó" của tác giả Lê Thị Bích Thọ, 2002; Công trình nghiên cứu khoa học "Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về giao dịch dân sự vô hiệu tại Tòa án nhân dân" của tác giả Nguyễn Văn Luật, 2003; "Hợp đồng kinh doanh vô hiệu: Lý luận và thực tiễn", Tài liệu Hội thảo về việc xử lý hợp đồng vô hiệu, Diễn đàn doanh nghiệp và Câu lạc bộ Luật gia Việt - Đức, Hà Nội... và nhiều công trình của nhiều tác giả khác. Các công trình nghiên cứu trước đây là nguồn tài liệu quan trọng, có giá trị tham khảo và cung cấp những luận cứ khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. Tuy nhiên, kể từ sau ngày Bộ luật Dân sự năm 2005 có hiệu lực, chưa có một công trình nào đề cập hệ thống và toàn diện về hợp đồng cũng như điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ hợp đồng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
  • 4. Luận văn đặt mục đích nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận về pháp luật đối với quan hệ hợp đồng, đánh giá thực trạng pháp luật về hợp đồng trong điều kiện thi hành Bộ luật Dân sự 2005, đồng thời chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong thực tế áp dụng pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật hợp đồng để nâng cao hiệu quả áp dụng của pháp luật về hợp đồng trong thực tiễn. Với mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Làm rõ vai trò của pháp luật trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng; - Xác định cấu trúc pháp luật về hợp đồng trong điều kiện thực hiện Bộ luật Dân sự 2005; - Đánh giá thực trạng pháp luật đối với quan hệ hợp đồng ở Việt Nam; - Đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật hợp đồng đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận chung về pháp luật đối với hợp đồng, các quy định pháp luật liên quan đến ký kết, thực hiện hợp đồng, vấn đề hợp đồng vô hiệu và trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu ở thực trạng của pháp luật đối với ký kết hợp đồng ở Việt Nam hiện nay, hiệu lực của hợp đồng, nghĩa vụ và tài sản của các bên trong hợp đồng nhằm bảo đảm hợp đồng là một công cụ hiệu quả trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của đôi bên, công cụ để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó, để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể, luận văn còn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tiễn. 6. Đóng góp mới của luận văn Luận văn có một số đóng góp mới về lý luận và thực tiễn như sau:
  • 5. Thứ nhất, luận văn đi sâu phân tích những quy định của pháp luật về hợp đồng để từ đó nêu lên được những thiếu sót và bất cập đối với pháp luật về hợp đồng trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ hai, luận văn đề xuất một số định hướng và giải pháp trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hợp đồng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu tổng hợp lý luận ở chương một, phân tích thực trạng ở chương hai và những giải pháp của chương ba của luận văn đã góp phần cung cấp những luận cứ khoa học để thấy rõ vai trò của hợp đồng cũng như pháp luật về hợp đồng trong đời sống giao lưu kinh tế và đặc biệt là các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
  • 6. Chương 1 Cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật về hợp đồng trong nền kinh tế việt nam hiện nay 1. khái niệm, đặc điểm, phân loại, vai trò của hợp đồng 1.1.1. Khái niệm và những đặc điểm của hợp đồng 1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng Cơ sở cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của hợp đồng đã hình thành và phát triển hàng nghìn năm nay. Nó tồn tại và phát triển trong xã hội phương Tây, xã hội phương Đông hay cả chính xã hội như Bắc Mỹ, châu úc. Như vậy, để tìm hiểu thể nào là hợp đồng, cơ sở cho sự hình thành hợp đồng cũng như sự ra đời của pháp luật về hợp đồng, trước hết ta khái quát tóm lược những quan điểm về hợp đồng của các nước cũng như các khu vực trên thế giới. Khởi nguồn từ triết lý pháp luật tự nhiên, dựa trên các giá trị pháp luật hợp đồng của La Mã và các học thuyết về quyền cá nhân, hợp đồng và pháp luật hợp đồng phương Tây đã có hơn hai nghìn năm để phát triển các học thuyết về tính bắt buộc thực hiện của hợp đồng, công bằng, thống nhất về ý chí và trách nhiệm đối với việc không tuân thủ nghĩa vụ và cam kết. Vì cá nhân là trung tâm của xã hội phương Tây nên sự bày tỏ ý chí cá nhân, các cam kết và hợp đồng trở thành công cụ chủ yếu để tổ chức các quan hệ xã hội. Điều đó cho thấy, trật tự xã hội từ nhỏ đến lớn đều dựa trên khế ước - "khế ước xã hội ", những người nghỉ hưu và chính sách an sinh là "khế ước giữa các thế hệ", còn trong hoạt động tổ chức sản xuất kinh doanh căn cứ theo "hợp đồng công ty". Ví dụ, người Anh quan niệm về hợp đồng như sau: Điểm cốt yếu của hợp đồng là sự gặp gỡ các ý chí của các bên trong việc thoả thuận cuối cùng và đầy đủ. Quan điểm của luật pháp Hoa Kỳ lại cho rằng: hợp đồng như một trong những phương pháp khác thủ đắc quyền sở hữu động sản và chỉ phân biệt nó với tặng cho (Commenarien on Laws of England). Tự do giao kết và tuân thủ nội dung của hợp đồng là một yếu tố hình thành nên trật tự xã hội phương Tây. Ngược lại, đối với phương Đông, nền tảng của xã hội không phải là chủ nghĩa cá nhân, mà là gia đình, là tính cộng đồng. Xã hội phương Đông tìm sự ổn định
  • 7. thông qua việc giữ gìn tôn ti trật tự, từ chuyện nhỏ trong gia đình, đến việc "trong họ, ngoài làng", cho tới "quốc gia đại sự" con người cần biết và tuân thủ bổn phận của mình theo "nhân, nghĩa, trí, lễ, tín". Hợp đồng khi được thu nạp vào các xã hội phương Đông truyền thống cần ghi nhận sự tin tưởng, quan hệ, thể hiện giữa các bên giao kết - một dấu hiệu của các ràng buộc mang tính xã hội. Nếu như hợp đồng và đền bù là hai lĩnh vực pháp luật trái vụ cổ điển của phương Tây, thì các quy định về khế ước cũng như hợp đồng trong hệ thống trong các bộ luật cổ Việt Nam, được thể hiện cụ thể nhất trong hệ thống pháp luật của nhà Lê về các nội dung: hiệu lực và sự vô hiệu của hợp đồng, hình thức hợp đồng; nghĩa vụ thực hiện hợp đồng; phạt hợp đồng và đền bù thiệt hại (theo cổ luật Việt Nam lược khảo) được thể hiện ẩn dưới các quy định hình luật. Pháp luật thời Lê đề cao sự tự nguyện giao kết và thực hiện khế ước, quy định thể thức giao kết bằng văn bản, cách lập văn bản và làm cứng các khế ước, cho đến việc định hình phạt và đền bù cho vi phạm khế ước. Từ những quan điểm về hợp đồng như đã nêu trên, ta thấy chủ thể của hợp đồng chính là những cá nhân hoặc các tổ chức. Để tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân cũng như mỗi tổ chức phải tham gia vào nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau. Trong các quan hệ đó, tồn tại mối quan hệ khi các bên thiết lập với nhau để chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng và kinh doanh đóng một vai trò quan trọng như là một tất yếu đối với mọi đời sống xã hội. Tuy nhiên, việc chuyển giao các lợi ích vật chất, tài sản đó không thể tự chúng tìm đến với nhau để thiết lập các quan hệ. Các quan hệ tài sản chỉ được hình thành từ những hành vi có ý chí của các chủ thể. Mác nói rằng: "Tự chúng, hàng hóa không thể đi đến thị trường và trao đổi với nhau được. Muốn cho những vật đó trao đổi với nhau, thì những người giữ chúng phải đối xử với nhau như những người mà ý chí nằm trong các vật đó". Mặt khác, nếu chỉ có một bên thể hiện ý chí của mình mà không được bên kia chấp nhận cũng không thể hình thành mối quan hệ để qua đó thực hiện việc chuyển giao tài sản hoặc làm một công việc đối với nhau được. Do đó, chỉ khi nào có sự thể hiện và thống nhất ý chí giữa các bên thì quan hệ trao đổi lợi ích vật chất mới được hình thành. Quan hệ đó được gọi là hợp đồng. Như vậy, cơ sở đầu tiên và quan trọng nhất để hình thành một hợp đồng là việc thỏa thuận bằng ý chí tự nguyện của các bên tham gia hợp
  • 8. đồng. Tuy nhiên, hợp đồng đó chỉ có hiệu lực pháp luật khi ý chí của các bên phù hợp quy định của pháp luật. Các bên được tự do thỏa thuận để thiết lập hợp đồng, nhưng sự "tự do" ấy phải được đặt trong giới hạn để không xâm hại đến lợi ích của người khác, lợi ích chung của xã hội và trật tự công cộng. Khi hợp đồng được giao kết hợp pháp thì hợp đồng có hiệu lực pháp luật đối với các bên giao kết. Nghĩa là, từ lúc đó, các bên đã tự nhận về mình những nghĩa vụ pháp lý nhất định. Sự "can thiệp" của Nhà nước không những là việc buộc các bên phải giao kết hợp đồng phù hợp với lợi ích chung và đạo đức xã hội mà còn buộc các bên phải thực hiện hợp đồng đúng với những cam kết mà họ đã thoả thuận. Theo nội dung đã cam kết, dưới sự hỗ trợ của pháp luật, các bên phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự đối với nhau. Về bản chất, hợp đồng là một giao dịch mà trong đó các bên thỏa thuận với nhau nhằm đi đến thống nhất để cùng nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ nhất định. Trên phương diện này, hợp đồng vừa được xem xét ở dạng cụ thể vừa được xem xét ở dạng khái quát. Qua các thời kỳ phát triển kinh tế-xã hội, pháp luật Việt Nam dưa ra những khái niệm khác nhau về hợp đồng. Theo Điều 1 Pháp lệnh hợp đồng dân sự 1991: Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay, mượn, tặng, cho tài sản làm một việc hoặc không làm một việc, dịch vụ hoặc các thỏa thuận khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng [73]. Bộ luật Dân sự 2005 đưa ra định nghĩa về hợp đồng khái quát hơn: "Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự" (Điều 388 Bộ luật Dân sự 2005). Như vậy, hợp đồng dân sự không chỉ là sự thỏa thuận để một bên chuyển tài sản, thực hiện một công việc cho bên kia mà có thể còn là sự thỏa thuận để thay đổi hay chấm dứt các nghĩa vụ đó. Đối với các hợp đồng được ký kết nhằm mục đích kinh doanh ngoài có những dấu hiệu chung của hợp đồng thì hợp đồng doanh có sự khác biệt thêm. Hợp đồng kinh doanh được hiểu là sự thỏa thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện công việc sản xuất,
  • 9. trao đổi hàng hóa, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thỏa thuận khác có mục đích tìm kiếm lợi nhuận với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Điều một Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 định nghĩa: Hợp đồng kinh tế là những hợp đồng được ký kết giữa các bên nhằm sản xuất, mua bán, lưu thông hàng hóa, trao đổi dịch vụ, nghiên cứu, liên doanh liên kết giữa các bên nhằm sản xuất, mua bán, lưu thông hàng hóa, trao đổi, dịch vụ, nghiên cứu, liên doanh, liên kết sản xuất nhằm bất kỳ một mục đích kinh doanh khác để thực hiện tốt kế hoạch của bản thân các bên ký kết và thu lợi nhuận. Hoạt động có thể bao gồm các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đó có thể là công ty nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp ký kết hợp đồng để phục vụ cho hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận. Các hoạt động kinh doanh hết sức đa dạng: đầu tư vốn, sản xuất, mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên thương trường. Hợp đồng được ký kết trong nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau như mua bán hàng hóa, vận chuyển, xây dựng, bảo hiểm, tín dụng, đại lý, ủy thác, liên kết kinh doanh… Hình thức của hợp đồng có thể bằng lời nói, văn bản hoặc bằng các hành vi cụ thể. Tóm lại, từ những nội dung cơ bản nhất của hợp đồng nói chung, hợp đồng dân sự, hợp đồng trong hoạt động kinh doanh và cả quan điểm nước ngoài cũng như quan điểm của các tổ chức thế giới cho thấy: Hợp đồng là thoả thuận của các bên nhằm thống nhất các quyền và nghĩa vụ pháp lý. 1.1.1.2. Những đặc điểm của hợp đồng Trên cơ sở bản chất và khái niệm về hợp đồng đã nêu, ta thấy hợp đồng có những đặc điểm pháp lý cơ bản sau: Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng Phạm vi chủ thể của hợp đồng rất rộng lớn. Tùy từng lĩnh vực và ngành nghề khác nhau mà pháp luật giới hạn phạm vi chủ thể cho phù hợp để nhằm bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng.
  • 10. Với các hợp đồng dân sự thông thường, chủ thể là các cá nhân, pháp nhân, hay các tổ chức khác. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chủ thể của hợp đồng kinh doanh được quy định rất cụ thể đó thường là thương nhân đáp ứng những điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật. Tựa chung lại, chủ thể của hợp đồng bao gồm cá nhân có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, các tổ chức, doanh nghiệp, và các pháp nhân khác… được pháp luật thừa nhận có tư cách pháp lý độc lập với nhau, hoàn toàn bình đẳng với nhau khi tham gia quan hệ hợp đồng. Tuỳ từng loại hợp đồng mà pháp luật có thể quy định những điều kiện ràng buộc cho các chủ thể hợp đồng phải dáp ứng, ví dụ: cá nhân phải đủ độ tuổi, doanh nghiệp phải có ngành nghề kinh doanh phù hợp. Thứ hai, sự tự nguyện khi thỏa thuận và ký kết hợp đồng Cơ sở hình thành hợp đồng là sự tự nguyện từ tự do ý chí của các bên. Các điều kiện của hợp đồng được giải thích trong các điều kiện tự do ý chí, xem xét về vấn đề tự do ý chí ta thấy: Một mặt, tự do ý chí được xuất phát từ nền tảng là tự do cá nhân, có nghĩa là không ai có thể bị ép buộc làm hay không làm một công việc gì đó ngoài ý muốn của họ, Mặt khác, tự do ý chí có nghĩa là không ai có thể bị ép buộc làm hay không làm một công việc mà xuất phát từ lợi ích của họ. Do vậy, hợp đồng được xem là sản phẩm của ý chí được hình thành từ lợi ích của các bên tham gia giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, trong điều kiện đa dạng và phức tạp của các mối quan hệ ngày nay khi mà con người sống trong sự phụ thuộc lẫn nhau, khi mà lợi ích kinh tế của mọi người là không bằng nhau thì chính ích lợi của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng vẫn bị giới hạn và bắt buộc những lợi ích đó phải phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Tính độc lập và sự phụ thuộc của hai nhóm lợi ích đó (lợi ích của các bên tham gia hợp đồng và lợi ích của xã hội) đã làm nảy sinh nghĩa vụ trong hợp đồng. Như vậy, tự do ý chí, tự do thoả thuận và tự do giao kết hợp đồng cũng bị giới hạn phần nào, sự giới hạn đó chính là sự can thiệp của pháp luật thông qua việc nhà nước ban hành những điều bắt buộc cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng (ví dụ: điều kiện chủ thể,…).
  • 11. Tóm lại, trên cơ sở tự do ý chí của các bên khi thỏa thuận và ký kết hợp đồng, sự can thiệp của pháp luật về vấn đề hợp đồng sẽ bảo đảm cho các quan hệ hợp đồng được phát triển ổn định và đúng định hướng đã dự định. Thứ ba, các bên bình đẳng về quyền và nghĩa vụ Cơ quan nhà nước đã được ấn định thì người cán bộ công chức phải có nghĩa vụ hoàn thành, việc hoàn thành nghĩa vụ đó như một yêu cầu bắt buộc. Trong một cơ quan, tổ chức, nhiệm vụ của cán bộ cấp trên giao cho cán bộ cấp dưới phải phục tùng chịu sự phân công và chỉ đạo của cán bộ cấp trên. Trong mối quan hệ này cơ sở hình thành quyền và nghĩa vụ bắt nguồn từ quyết định đơn phương của thủ trưởng cấp trên, của cơ quan nhà nước và nó mang tính mệnh lệnh hành chính. Khác với tính bất bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong các quan hệ trên, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng luôn ngang bằng và bình đẳng nhau. Trong hợp đồng, quyền lợi của bên này có nghĩa đó là nghĩa vụ của bên còn lại và ngược lại nghĩa vụ của bên này chính là quyền của bên còn lại. Quyền và nghĩa vụ của các bên hình thành từ sự tự nguyện thoả thuận của các bên, các bên tự mình đàm phán, trao đổi và ghi nhận quyền và nghĩa vụ đó. Thứ tư, về hình thức của hợp đồng Theo quy định của Bộ luật Dân sự thì hợp đồng được ký kết dưới nhiều hình thức khác nhau như: văn bản, lời nói hay các hành vi cụ thể; trong một số trường hợp khác pháp luật quy định hợp đồng phải ký dưới một hình thức nhất định (như hợp đồng phải ký bằng văn bản có công chứng, chứng thực hợp lệ) thì phải tuân thủ hình thức đó. Văn bản là hình thức có thể thể hiện một cách hữu hình nội dung của hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận với nhau. Đó có thể là bản hợp đồng với đầy đủ chữ ký của các bên hoặc công văn, tài liệu giao dịch chứa đựng những nội dung chủ yếu của hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận được với nhau. 1.1.2. Phân loại hợp đồng Tùy thuộc vào nội dung, tính chất hình thức của từng quan hệ hợp đồng, người ta phân biệt thành nhiều loại hợp đồng khác nhau: - Căn cứ vào nội dung và tính chất cụ thể của hợp đồng mà chia thành từng loại hợp đồng riêng như: Hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng xây dựng, vận chuyển, tín
  • 12. dụng, thuê tài sản, hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại, hợp đồng lao động, hợp đồng khoa học công nghệ - Căn cứ vào hình thức thể hiện, quan hệ hợp đồng chia thành: hợp đồng bằng văn bản, hợp đồng bằng lời nói, hợp đồng có chứng nhận, chứng thực... + Hợp đồng bằng văn bản Nhằm nâng cao độ xác thực về những nội dung đã cam kết, các bên có thể ghi nhận nội dung giao kết hợp đồng bằng một văn bản và cùng ký xác nhận. Khi có tranh chấp, hợp đồng được giao kết bằng hình thức văn bản tạo ra chứng cứ pháp lý chắc chắn hơn so với hình thức hợp đồng được giao kết bằng lời nói. Căn cứ vào văn bản của hợp đồng, các bên dễ dàng thực hiện quyền yêu cầu của mình đối với bên kia. Vì vậy, đối với những hợp đồng có giá trị lớn, tính chất phức tạp,các bên chưa thực sự tin tưởng nhau thì các bên thường chọn hình thức này. Thông thường, hợp đồng được lập thành nhiều bản và mỗi bên giữ một bản, coi như đã có trong tay một bằng chứng, chứng minh quyền dân sự của mình. Trong những hợp đồng bằng văn bản có thể chia thành hợp đồng ký bằng văn bản thông thường và hợp đồng ký bằng văn bản có công chứng, chứng thực hợp lệ. + Hợp đồng có chứng nhận, chứng thực Đối với những hợp đồng có tính chất phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp và đối tượng của nó là những tài sản mà Nhà nước cần quản lý, kiểm soát khi chúng được dịch chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác, thì các bên phải lập thành văn bản có công chứng, chứng thực. Hợp đồng được lập ra theo hình thức này có giá trị chứng cứ cao nhất. Vì vậy, đối với những hợp đồng mà pháp luật không yêu cầu phải lập theo hình thức này nhưng để quyền lợi của mình được đảm bảo, các bên vẫn có thể chọn hình thức này để giao kết hợp đồng. + Hợp đồng bằng lời nói Thông qua hình thức này, các bên giao kết hợp đồng chỉ cần thỏa thuận miệng với nhau về nội dung cơ bản của hợp đồng hoặc mặc nhiên thực hiện những hành vi nhất định đối với nhau. Hình thức này thường được áp dụng trong những trường hợp các bên thân
  • 13. quen hoặc đã có độ tin tưởng lẫn nhau hoặc đối với những hợp đồng mà ngay sau khi giao kết sẽ được thực hiện và chấm dứt. - Căn cứ vào sự tương xứng về quyền và nghĩa vụ các bên, có thể chia thành: Hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ. + Hợp đồng song vụ Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà các bên chủ thể đều có quyền và nghĩa vụ. Hay nói cách khác, mỗi một bên chủ thể của hợp đồng song vụ là người vừa có quyền lại vừa có nghĩa vụ dân sự. Trong nội dung của loại hợp đồng này, quyền dân sự của bên này đối lập tương ứng với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Vì thế, nếu hợp đồng song vụ được giao kết theo hình thức văn bản, thì phải lập thành nhiều văn bản để mỗi bên giữ một bản hợp đồng. Tại khoản 1 Điều 406 Bộ luật Dân sự 2005 đã định nghĩa: "Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau" [56]. + Hợp đồng đơn vụ Hợp đồng đơn vụ là những hợp đồng mà trong đó một bên chỉ có nghĩa vụ mà không có quyền gì đối với bên kia và bên kia là người có quyền nhưng không phải thực hiện một nghĩa vụ nào. Việc xác định quyền và nghĩa vụ dân sự đối với nhau giữa các chủ thể trong hợp đồng dân sự được bắt đầu từ thời điểm hợp đồng dân sự có hiệu lực. - Căn cứ theo sự phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực giữa các hợp đồng, có thể chia thành: + Hợp đồng chính Tại khoản 3 Điều 406 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: "Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng khác" Như vậy, các hợp đồng chính khi đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện mà pháp luật đã quy định thì đương nhiên phát sinh hiệu lực và có hiệu lực bắt buộc đối với các bên từ thời điểm giao kết. + Hợp đồng phụ "Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc và hợp đồng chính" (khoản 4 Điều 406 Bộ luật Dân sự 2005). Trước hết các hợp đồng phụ muốn có hiệu lực phải tuân
  • 14. thủ đầy đủ các điều kiện luật định về chủ thể, về nội dung, về hình thức v.v... Mặt khác, dù rằng đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện nói trên nhưng hợp đồng vẫn không có hiệu lực nếu hợp đồng chính (hợp đồng mà nó phụ thuộc) bị coi là không có hiệu lực. - Căn cứ theo tính chất có đi có lại về lợi ích của các chủ thể, có thể chia thành: + Hợp đồng có đền bù Là loại hợp đồng mà trong đó mỗi bên chủ thể khi đã thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận được từ bên kia một lợi ích tương ứng. Chúng ta biết rằng, đặc điểm cơ bản của quan hệ tài sản trong giao lưu dân sự là sự trao đổi có đền bù. Tuy nhiên, không nhất thiết cứ bên này hưởng lợi ích vật chất thì bên kia hưởng lợi ích vật chất mới được coi là "đền bù tương ứng". Do nhu cầu đa dạng, các bên có thể thỏa thuận để giao kết những hợp đồng mà trong đó một bên hưởng lợi ích vật chất nhưng bên kia lại hưởng một lợi ích thuộc về tinh thần. Cần xác định rằng các hợp đồng mang tính chất đền bù đa phần là hợp đồng song vụ cũng như đa phần các hợp đồng song vụ đều mang tính đền bù. Tuy nhiên, trong thực tế có rất nhiều hợp đồng dù mang tính chất đền bù nhưng lại là hợp đồng đơn vụ như hợp đồng cho vay có lãi mà hiệu lực của nó được xác định tại thời điểm bên vay đã nhận tiền. Mặt khác, có nhiều hợp đồng song vụ nhưng không mang tính chất đền bù như hợp đồng gửi giữ không có thù lao. + Hợp đồng không có đền bù Hợp đồng không đền bù là những hợp đồng mà trong đó một bên nhận được từ bên kia một lợi ích nhưng không phải giao lại một lợi ích nào. Bên cạnh việc sử dựng hợp đồng làm phương tiện trao đổi những lợi ích, các chủ thể còn dùng nó làm phương tiện để giúp đỡ nhau. Vì vậy, hợp đồng không có đền bù thường được giao kết trên cơ sở tình cảm và tinh thần tương thân, tương ái giữa các chủ thể. Có thể nói rằng, nếu tiền đề của hợp đồng có đền bù là những lợi ích (mà đa phần là lợi ích vật chất) thì tiền đề của hợp đồng không có đền bù là mối quan hệ tình cảm sẵn có giữa các chủ thể. Đây là một loại hợp đồng dân sự mà tính chất của nó đã vượt ra ngoài tính chất của quy luật giá trị bởi sự chi phối của yếu tố tình cảm. trên sơ sở tình cảm, các bên thiết lập các hợp đồng không có đền bù để giúp đỡ nhau. Do đó, trong quá trình giao kết loại hợp đồng này dù đã hứa hẹn (đã có sự thống nhất ý chí) nhưng việc chấp nhận đề nghị không mang tính
  • 15. chất ràng buộc đối với bên được đề nghị. Vì vậy, đối với hợp đồng tặng cho tài sản, pháp luật đã quy định có hiệu lực khi các bên đã thực tế trao cho nhau đối tượng tặng cho hoặc đã hoàn thành thủ tục chuyển quyền sở hữu. - Căn cứ vào thời điểm phát sinh hiệu lực, có thể chia thành: + Hợp đồng ưng thuận Hợp đồng ưng thuận là những hợp đồng mà theo quy định của pháp luật, quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh quay sau khi các bên đã thỏa thuận với nhau xong về nội dung chủ yếu của hợp đồng. Trong trường hợp này, dù rằng các bên chưa trực tiếp thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết nhưng đã phát sinh quyền yêu cầu của bên này đối với bên kia trong việc thực hiện hợp đồng. Hay nói cách khác, hợp đồng ưng thuận là những hợp đồng mà thời điểm có hiệu lực của nó được xác định tại thời điểm giao kết. + Hợp đồng thực tế Hợp đồng thực tế là những hợp đồng mà sau khi thỏa thuận, hiệu lực của nó chỉ phát sinh tại thời điểm khi các bên đã chuyển giao cho nhau đối tượng của hợp đồng. - Căn cứ vào tính chất của nội dung của hợp đồng, người ta có thể hợp đồng thành các loại hợp đồng như: hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại, hợp đồng trong hoạt động kinh doanh, hợp đồng lao động, hợp đồng khoa học công nghệ … - Ngoài các cách phân loại hợp đồng như trên, pháp luật của nhiều nước còn có nhiều cách phân loại hợp đồng khác Tóm lại, việc phân chia hợp đồng dân sự thành các loại nói trên vừa dựa vào sự quy định của pháp luật, vừa dựa trên phương diện lý luận, vừa dựa trên phương diện thực tiễn. Qua đó, nhằm xác định được những đặc điểm chung và riêng của từng nhóm hợp đồng, góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình điều chỉnh các quan hệ hợp đồng 1.1.3. Vai trò của hợp đồng Xuất phát từ bản chất của hợp đồng cũng như các hình thức khác nhau của hợp đồng đã được pháp luật ghi nhận và đã có ý nghĩa đối với đời sống xã hội. Ta thấy hợp đồng có một số vai trò nhất định như sau:
  • 16. - Hợp đồng là cơ sở quan trọng để xây dựng và thực hiện kế hoạch của các bên. Có thể khẳng định rằng trong tất cả mọi vấn đề nếu không xây dựng kế hoạch cụ thể và chi tiết thì mọi công việc tiến hành đều rơi vào tình trạng không có phương hướng và để bảo đảm việc xây dựng kế hoạch được bảo đảm thì một trong những cơ sở quan trọng bắt nguồn của vấn đề chính là hợp đồng. Hợp đồng là một phương tiện để kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của các bên ký kết. Trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên, cơ sở để cho sự phân minh cũng như khẳng định tính đúng sai không thể có nội dung nào khác quan trọng hơn đó chính là hợp đồng. Bên cạnh những nội dung chính của hợp đồng như: tên của hợp đồng, tên chủ thể, tên mặt hàng, phương thức thanh toán... nhưng trong đó có nhiều hợp đồng quy định rất cụ thể tiến độ thực hiện các nội dung được thoả thuận trong hợp đồng (ví dụ như các hợp đồng liên quan đến xây dựng công trình, các loại hợp đồng BOT, BT,…) và như vậy nội dung hợp đồng sẽ trở thành tiêu chí để kiểm tra việc thực hiện các thoả thuận của các bên. Hay nói cách khác, hợp đồng được xem như công cụ để các bên kiểm tra việc thực hiện kế hoạch. - Hợp đồng làm cho lợi ích của các bên ký kết phù hợp với lợi ích chung của nền kinh tế quốc dân. Cho dù nội dung của hợp đồng chủ yếu được các bên tự thoả thuận nhưng sự thoả thuận đó phải trong khuôn khổ pháp luật và việc các nhà xây dựng pháp luật trong quá trình soạn thảo để ban hành đã phải tính toán các lợi ích của nền kinh tế quốc dân. - Hợp đồng là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời của cơ chế quản lý mới. Một trong những nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự điều tíêt của nền kinh tế được đặt dưới điều tiết của nhà nước và sự tự điều tiết của các quy luật thị trường. Nhà nước chỉ tập trung quản lý ở tầm vĩ mô, còn quá trình tổ chức và quản lý sẽ thuộc về các doanh nghiệp. Đối với các giao lưu dân sự thông thường, Nhà nước luôn đề cao quyền tự do của cá nhân, chính vì vậy việc quản lý của nhà nước cũng như việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các bên chủ yếu được đánh giá qua sự thoả thuận của các bên. Nếu như trước đây, Nhà nước luôn là trung tâm quản lý trực tiếp đối với doanh nghiệp thì nay sự quản lý đó lại để cho các doanh nghiệp tự quản lý và nhà nước chỉ tập trung quản lý theo phương pháp mới như quản lý về thuế, quản lý tỷ giá hối đoái, quản lý về chính sách thương mại, và quản lý xã hội bằng pháp luật. Như
  • 17. vậy, một trong những nội dung quan trọng để nhà nước quản lý và bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các cá nhân và tổ chức đó là hợp đồng. Bên cạnh nhà nước sử dụng hợp đồng như một công cụ quản lý mới thì chính các tổ chức với tổ chức, tổ chức với cá nhân thành viên có liên quan, cá nhân với cá nhân, hợp đồng cũng là cơ sở tạo sự ràng buộc lẫn nhau và trở thành công cụ quản lý hiệu quả. 1.2. khái niệm, nguyêntắc, cấutrúc của phápluậtvề hợpđồng 1.2.1. Khái niệm pháp luật về hợp đồng Từ khái niệm về hợp đồng, các đặc điểm của hợp đồng cũng như vai trò của hợp đồng đã trình bày ở phần một của chương một cho ta thấy các quan hệ về hợp đồng tồn tại trong nhiều lĩnh vực khác nhau: từ lĩnh vực kinh doanh, linh vực dân sự, lao động, tín dụng và khoa học công nghệ. Điều này cho thấy quan hệ hợp đồng có phạm vi rất rộng. Quan hệ hợp đồng có thể chỉ là các quan hệ rất đơn giản như việc mua bán hàng hoá đơn gian của đời sống dân sự hàng ngày(trong những trường hợp này, các hợp đồng thường chỉ là hợp đồng bằng lời nói) tới các hợp đồng có nội dung rất phức tạp bao gồm nhiều chủ thể tham gia, nội dung lớn với nhiều bộ phận khác nhau đẻ thực hiện các nội dung công việc đã thoả thuận trong hợp đồng (trong trường hợp này, các hợp đồng thường là hợp đồng thương mại, hợp đồng xây dựng BTO, BOT, BT, hay các hợp đồng mua bán hàng hoá xuất nhập khẩu). Để bảo đảm các quan hệ hợp được phát triển đúng mục đích và yêu cầu của nhà nước cũng như quan hệ hợp đồng được ký kết và thực hiện trên nguyên tắc bình đẳng và tự nguyện của các bên, bảo đảm lợi ích cũng như nghĩa vụ cho các bên tham gia ký kết thì quan hệ hợp đồng cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật. Do tính chất đa dạng của hợp đồng là tồn tại trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội chính dẫn tới các quy định pháp luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng cũng tồn tại trong nhiều ngành luật khác nhau, trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Bộ luật Dân sự là văn bản pháp luật chứa dựng nhiều quy định nhất về hợp đồng, đây cũng là văn bản quy định luật chung về hợp đồng. Bên cạnh Bộ luật Dân sự, luật Thương mại, Luật Điện lực, Bộ luật Lao động…cũng quy định về vấn đề hợp đồng và chúng được áp dụng cho các hợp đồng chuyên ngành. Như vậy, đối với nhiều nhóm quan hệ có tính độc lập sẽ hình thành một ngành luật riêng: ví dụ, quan hệ lao động sẽ được điều chỉnh bởi Bộ luật Lao động, các quan hệ dân sự sẽ được điều
  • 18. chỉnh bởi Bộ luật Dân sự… Đối với các quan hệ hợp đồng xuất hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau và thể hiện ở nhiều dạng quan hệ khác nhau (quan hệ dân sự, quan hệ thương mại…) dẫn tới pháp luật về hợp đồng cũng rất đa dạng và tồn tại trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau(Bộ luật Dân sự, luật Thương mại, Luật bảo hiểm, luật Điện lực…). Từ những nội dung đã phân tích như trên, ta có bước đầu hình dung pháp luật về hợp đồng là hệ thống các quy định do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ về hợp đồng. ở Việt Nam, do tính chất riêng biệt của quan hệ hợp đồng tồn tại trong nhiều nhành nghề khác nhau, nhièu lĩnh vực khác nhau mà Quốc hội của nước Việt Nam sẽ không ban hành văn bản pháp luật quy định riêng biệt về hợp đồng. Các quy định pháp luật về hợp đồng của nước ta tồn tại trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Ngoài các quy định chung về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự có thể tìm thấynhững quy định về từng hợp đồng cụ thể trong các văn bản khác nhau như: Luật Thương mại, Luật Kinh doanh bảo hiểm... Các hợp đồng trong những lĩnh vực khác nhau sẽ do pháp luật chung về hợp đồng kết hợp với pháp luật chuyên ngành điều chỉnh. Chẳng hạn, hợp đồng thương mại sẽ do Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại điều chỉnh; hợp đồng lao động sẽ do Bộ luật Lao động điều chỉnh... Khi nói tới pháp luật về hợp đồng, nhiều người có quan điểm rằng phải tách riêng từng loại hợp đồng riêng biệt. Chẳng hạn, hợp đồng dân sự sẽ có những nội dung và đặc điểm khác với hợp đồng trong kinh doanh, hợp đồng thương mại khác với hợp đồng lao động… Tuy nhiên, để cho hợp đồng được ký kết giữa các chủ thể được thực hiện có hiệu quả và bảo đảm được sự quản lý của nhà nước thì nhà nước ban hành nhiều quy phạm pháp luật để áp dụng trong việc cụ thể hóa các vấn đề của hợp đồng. Như vậy, pháp luật về hợp đồng bao gồm một hệ thống các văn bản pháp luật khác nhau, trong mỗi văn bản pháp luật đó sẽ bao gồm nhiều điều luật quy định cụ thể hóa các nội dung của hợp đồng, định hình các quy tắc xử sự của các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Từ đó ta có thể kết luận pháp luật về hợp đồng như sau: Pháp luật về hợp đồng là một hệ thống các quy tắc xử sự, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện nhằm bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong hợp đồng. 1.2.2. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về hợp đồng 1.2.2.1. Tôn trọng quyền thỏa thuận tự nguyện của các bên
  • 19. Các bên tham gia quan hệ hợp đồng có quyền tự do cam kết, thỏa thuận phù hợp với pháp luật trong việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Mọi cam kết và thỏa thuận hợp pháp được pháp luật bảo hộ. Khi cam kết, thỏa thuận các bên hoàn toàn tự nguyện, không được ai dùng bất cứ thủ đoạn nào nhằm buộc một người cam kết, thỏa thuận trái với ý chí của người đó. Mọi cam kết, thỏa thuận không có sự tự nguyện của các bên có thể coi là vô hiệu. Khi tiến hành thỏa thuận các chủ thể đều bình đẳng, không được lấy bất cứ một lí do nào về sự khác biệt để đối xử không bình đẳng. Các chủ thể bình đẳng về năng lực pháp luật, bình đẳng giữa các hình thức sở hữu khi giao kết hợp đồng. Bình đẳng của các chủ thể được thể hiện ở các điểm sau: - Bình đẳng trong việc tham gia vào các quan hệ hợp đồng không phụ thuộc vào giới tính và các địa vị xã hội khác; - Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ khi chúng được xác lập. Các bên phải thực hiện nghĩa vụ đối với những người có quyền; - Bình đẳng về trách nhiệm dân sự nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ đều phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Trong quan hệ hợp đồng các bên phải hợp tác, giúp đỡ nhau để tạo lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận. Ngoài ra, đòi hỏi các bên phải tìm mọi biện pháp cần thiết để khắc phục và hạn chế thiệt hại. Tuy nhiên, trong quan hệ dân sự các bên được suy đoán là trung thực, thiện chí. Nếu một bên cho rằng bên kia không trung thực, thiện chí phải có chứng cứ. 1.2.2.2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hợp đồng Trách nhiệm trong hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lí nhưng trước tiên là trách nhiệm của người vi phạm đối với người bị vi phạm. Người có nghĩa vụ phải thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của họ nếu các quyền và nghĩa vụ đó phát sinh từ các căn cứ hợp pháp. Nếu không thực hiện phải tự chịu trách nhiệm và có thể bị cưỡng chế thi hành nghĩa vụ và phải bồi thường thiệt hại (nếu có). Mỗi chủ thể tham gia phải tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình (Điều 7 Bộ luật Dân sự).
  • 20. Quyền sở hữu và các quyền tài sản khác là những quyền quan trọng nhất của công dân cũng như tổ chức trong giao lưu dân sự, kinh tế; là cốt lõi trong các quyền dân sự của các chủ thể và chi phối các quyền năng khác. Mọi chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng quyền sở hữu, quyền tài sản của các chủ thể khác. Khi có hành vi xâm phạm đến tài sản của người khác, ngoài việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế (hình sự, hành chính…) cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp dân sự với mục đích khôi phục lại tình trạng tài sản của người bị xâm phạm, bảo đảm quyền sở hữu tài sản của các chủ thể được thực hiện bình đẳng (Điều 9 Bộ luật Dân sự). 1.2.2.3. Bảo vệ trật tự công và lợi ích của người thứ ba ngoài quan hệ hợp đồng "Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền lợi ích hợp pháp của người khác". Việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ hợp đồng nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của các bên tham gia vào quan hệ đó. Tuy nhiên, khi thực hiện các hành vi không được phép thực hiện tùy tiện mà phải thực hiện trong khuôn khổ, giới hạn của hợp đồng. Quyền của một chủ thể được giới hạn bởi quyền của các chủ thể khác, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, nhằm bảo đảm việc các chủ thể gây thiệt hại cho các chủ thể còn lại thì phải bồi thường các thiệt hại như đã thỏa thuận trong hợp đồng. 1.2.2.4. Tôn trọng và tuân thủ pháp luật, đạo đức và truyền thống tốt đẹp Quan hệ hợp đồng luôn luôn đề cao tính tự nguyện và sự tự do ý chí của các bên trong việc thoả thuận ký kết hợp đồng, Nội dung này của hợp đồng luôn được pháp luật ghi nhận và bảo đảm. Tuy nhiên, việc phát huy quyền tự do hợp đồng của các bên luôn phải được đặt trong mố quan hệ với lợi ích của người khác và những giá trị văn hoá truyền thống. Chính vì vậy, quyền tự do hợp đồng luôn phải được đặt trong khuôn khổ pháp luật của nhà nước, nghĩa là các bên được quyền phát huy tối đa quyền tự do hợp đồng nhưng việc phát huy đó phải đặt trong sự kiểm soát của pháp luật (trong khuôn khổ pháp luật). Bên cạnh việc tuân thu đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật các ben tham gia hợp đồng cần phải tôn trọng những giá trị đạo đức và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tình đoàn két tương thân tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì
  • 21. mỗi người và vì truyền thống tốt đẹp của các dân tộc anh em tren đất nước Việt Nam 1.2.3. Cấu trúc của pháp luật hợp đồng trong pháp luật Việt Nam hiện hành Xét về cấu trúc hình thức thì pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng rất đa dạng, tồn tại trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Ngoài những quy định trực tiếp về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự, còn có thể tìm thấy nhiều quy định có liên quan đến hợp đồng trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau thuộc các lĩnh vực kinh tế như: kinh doanh điện lực, thương mại, tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm, xây dựng, vận chuyển, đầu tư, chuyển giao công nghệ, đất đai... Để đơn giản trong việc xác định cấu trúc hình thức của pháp luật hợp đồng, có thể chia hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng thành hai nhóm: Nhóm văn bản quy phạm pháp luật quy định các vấn đề chung về hợp đồng Nhóm văn bản pháp luật này quy định những vấn đề chung, mang tính nguyên tắc về mọi loại hợp đồng, không phân biệt lĩnh vực phát sinh quan hệ hợp đồng. Các văn bản pháp luật chung về hợp đồng là Bộ luật Dân sự Pháp luật chung về hợp đồng của nước ta có nhiều thay đổi qua từng thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội: - Giai đoạn trước ngày 01/01/2006 (là ngày Bộ luật Dân sự năm 2005 có hiệu lực) Trong giai đoạn này thì pháp luật chung về hợp đồng chủ yếu được điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự năm 1995(áp dụng cho các hợp đồng dân sự) và Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 (áp dụng cho các hợp đồng được coi là hợp đồng kinh doanh). - Giai đoạn sau ngày 01/01/2006: Kể từ ngày 01/01/2006 thì luật chung về hợp đồng chỉ là Bộ luật Dân sự năm 2005. Bộ luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2006 thay thế cho Bộ luật Dân sự năm 1995 và Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989. Nhóm văn bản quy phạm pháp luật quy định các nội dung về hợp đồng chuyên ngành
  • 22. Bên cạnh những quy định trong các văn bản pháp luật chung về hợp đồng thì trong từng lĩnh vực kinh tế cụ thể, Nhà nước còn ban hành các quy định riêng về từng loại hợp đồng. Đây là nhóm văn bản pháp luật chuyên ngành về hợp đồng. Ví dụ: Luật Điện lực, Luật Thương mại, Luật Xây dựng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật Hàng hải Việt Nam, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật Giao thông đường bộ, Luật Giao thông đường thủy nội địa... - Pháp luật về hợp đồng chuyên ngành Trong từng lĩnh vực kinh tế có thể có những quy định riêng về từng loại hợp đồng cụ thể. Ví dụ: + Luật Điện lực và các văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị định số 105/2005/NĐ-CP ngày 17/8/2005 Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Điện lực; + Luật Thương mại năm 2005. + Luật Đấu thầu (có hiệu lực từ 01/4/2006). + Luật Kinh doanh bảo hiểm (09/12/2000). + Luật Đất đai năm 2003. Xét về cấu trúc nội dung thì pháp luật về hợp đồng điều chỉnh các vấn đề chủ yếu sau: -Các nguyên tắc điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ hợp đồng -Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, các trường hợp đồng vô hiệu và xủ lý hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu + Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. + Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. -Điều kiện để các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng -Nội dung quyền và nghĩa vụ của các bên. + Thực hiện hợp đồng.
  • 23. + Sửa đổi, bổ sung, chuyển giao quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng, chấm dứt, thanh lý hợp đồng. -Thủ tục giao kết hợp đồng Pháp luật hợp đồng quy định về các vấn đề sau đây: + Bản chất của hợp đồng và các nguyên tắc giao kết hợp đồng. + Điều kiện và thủ tục giao kết hợp đồng. + Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và các trường hợp hợp đồng dân sự vô hiệu. + Đại diện và ủy quyền ký kết hợp đồng. Trong cấu trúc nội dung của mỗi hợp đồng thường là một tập hợp các điều khoản được ấn định theo sự thỏa thuận của hai bên. Tùy theo mục đích, đối tượng và tính chất của hợp đồng mà trong từng hợp đồng sẽ bao gồm nhiều hay ít các điều khoản. Pháp luật hợp đồng điều chỉnh hợp đồng cụ thể cũng không đồng nhất với nhau. Nghĩa là, tùy từng loại đối tượng của hợp đồng mà các quy định về hợp đồng của luật dân sự được áp dụng hay các luật chuyên ngành được áp dụng. 1.2.4. Nguyên tắc áp dụng phối hợp quy định trong các văn bản pháp luật - Trong quan hệ giữa luật chung và luật chuyên ngành + Nếu một vấn đề cùng được quy định cả trong luật chung và luật chuyên ngành thì ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành. + Nếu có vấn đề luật chuyên ngành không quy định thì áp dụng quy định của luật chung. - Trong quan hệ giữa các văn bản của một nhóm luật chung và của một nhóm luật chuyên ngành Ưu tiên áp dụng các văn bản có giá trị pháp lý cao hơn. Theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì giá trị pháp lý của các văn bản pháp luật được xác định theo thứ tự sau: Cao nhất là Hiến pháp tới Bộ luật tới Luật, Nghị quyết của Quốc hội, tới Pháp lệnh, tới Nghị định, tới Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, tới Thông tư của liên ngành và Thông tư của các Bộ...
  • 24. Nếu các văn bản có cùng giá trị pháp lý thì ưu tiên áp dụng văn bản ra đời sau. - Trong quan hệ giữa hợp đồng với pháp luật, thói quen trong hoạt động thương mại và tập quán thương mại + Quan hệ giữa thoả thuận của các bên tham gia hợp đồng với pháp luật về hợp đồng: Nếu các bên thỏa thuận không trái pháp luật thì sẽ ưu tiên áp dụng theo sự thỏa thuận của các bên. Nếu các bên thỏa thuận trái pháp luật thì thỏa thuận đó không có giá trị và áp dụng theo các quy định của pháp luật. Nếu các bên không thỏa thuận cụ thể về một vấn đề nào đó thì áp dụng theo quy định của pháp luật. + Quan hệ giữa thỏa thuận với thói quen trong hoạt động thương mại: Luật Thương mại năm 2005 là văn bản pháp luật đầu tiên của Việt Nam đề cập tới thói quen trong hoạt động thương mại và nguyên tắc áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại. Trường hợp các bên ký kết hợp đồng không thỏa thuận cụ thể thì có thể áp dụng theo thói quen trong hoạt động thương mại đã hình thành giữa các bên. + Quan hệ giữa pháp luật với tập quán thương mại: Tập quán thương mại là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Trường hợp pháp luật không có quy định, các bên không có thỏa thuận và không có thói quen đã được thiết lập giữa các bên thì áp dụng tập quán thương mại nhưng không được trái với những nguyên tắc quy định trong Luật này và trong Bộ luật Dân sự. - Vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng tại Việt Nam
  • 25. + Các hợp đồng ký giữa các tổ chức, cá nhân mang quốc tịch Việt Nam với nhau thì áp dụng theo pháp luật Việt Nam. Các bên không được thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài. + Các bên trong hợp đồng có yếu tố nước ngoài được thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Hợp đồng có yếu tố nước ngoài thường là những hợp đồng được ký giữa một bên Việt Nam với các cá nhân, tổ chức nước ngoài. 1.3. Tiêu chí hoàn thiện pháp luật về hợp đồng Kể từ khi đổi mới, cải cách và mở cửa, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các mặt của đời sống chính trị, xã hội. sự phát triển của đất nước cũng đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để một mặt có đầy đủ khung pháp lý để điều chỉnh các hoạt động của đời sống xã hội, mặt khác, để phù hợp với luật pháp quốc tế trong bối cảnh hội nhập. Hợp đồng là một vấn đề khó khăn và phức tạp. hoàn thiện pháp luật hợp đồng cũng có nghĩa là giúp các bên tham gia ký kết được yên tâm, khắc phục rủi ro quyền lợi cho các. Yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật hợp đồng nói riêng là một yêu cầu mang tính thường xuyên và liên tục của nhà nước nhằm đảm bảo quyền lợi cho các cá nhân và các doanh nghiệp hay các tổ chức. Có nhiều tiêu chuẩn để đánh giá mức độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật, trong đó có bốn tiêu chuẩn cơ bản là: tính toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp và trình độ kỹ thuật pháp lý của hệ thống pháp luật. 1.3.1. Tính toàn diện Tính toàn diện của hệ thống pháp luật thể hiện ở hai cấp độ: - ở cấp độ chung, đòi hỏi pháp luật phải có đủ các nghành luật theo cơ cấu nội dung lôgíc và thể hiện thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tương ứng. - ở cấp độ cụ thể, đồi hỏi mỗi ngành luật phải có đầy đủ các chế định pháp luật và các quy phạm pháp luật.
  • 26. Tham gia các hoạt động kinh tế nói chung và hợp đồng nói riêng là quyền, vừa là nghĩa vụ của các cá nhân và các tổ chức. tính hoàn thiện của pháp luật hợp đồng phải bảo đảm được yêu cầu: pháp luật về hợp đồng phải có đầy đủ các quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong các vấn đề hợp đồng. đó là những quy định về đối tượng áp dụng hợp đồng: điều kiện ký kết hợp đồng; tổ chức thực hiện và quản lý giám sát của các bên về việc thực hiện hợp đồng.bên cạnh sự hoàn thiện pháp luật về hợp đồng nói chung (Bộ luật Dân sự) cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật về các hợp đồng chuyên ngành …có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng. 1.3.2. Tính đồng bộ và thống nhất Tính đồng bộ, thống nhất là yêu cầu khách quan, là tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện và chất lượng của hệ thống pháp luật. Điều này có nghĩa là, khi xem xét mức độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật thì cần phải xem xét giữa các bộ phận, quy phạm pháp luật của nó có trùng lặp, chồng chéo hay mâu thuẫn và xung đột với nhau không. Tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật được thực hiện trên những điểm sau: Một là, tính đồng bộ thể hiện ở sự đồng bộ giữa hiến pháp với các đạo luật và phải xây dựng được một hệ thống quy phạm pháp luật căn bản trong hiến pháp, hoàn thiện hiến pháp nhằm tạo cơ sở củng cố tính thống nhất của toàn bộ hệ thống pháp luật. Hai là, tính đồng bộ, thống nhất thể hiện sự thống nhất, không mâu thuẫn không xung đột, không trùng lặp, chồng chéo trong mỗi nghành luật, mỗi chế định pháp luật và giữa các quy phạm pháp luật trong cùng một nghành luật khác nhau. Ba là, tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật thể hiện ở sự đồng bộ, thống nhất giữa văn bản luật dưới các văn bản dưới luật. Bốn là, trong điều kiện đảng cầm quyền, cần phải đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất giữa các quy đinh của pháp luật với đường lối, chính sách của Đảng. Tính đồng bộ, thống nhất là tiêu chí vô cùng quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật hợp đồng. Pháp luật hợp đồng có được áp dụng hiệu quả trong thực tế hay không hoàn toàn phụ thuộc vào việc có tuân thủ triệt để tính đồng bộ thống nhất hay
  • 27. không. Thực tế ở nước ta, nhiều văn bản đã được ban hành nhưng rất khó đi vào cuộc sống vì sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản đó. 1.3.3. Tính phù hợp Tính phù hợp của pháp luật hợp đồng phải thể hiện mối quan hệ giữa những quy phạm pháp luật quy định về hợp đồng với trình độ phát triển, hoàn cảnh thực tiễn của đất nước. Pháp luật hợp đồng phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nếu trình độ phát triển kinh tế – xã hội cao, chủ thể ký kết hợp đồng sẽ rất đa dạng và nội dung ký kết hợp đồng cũng sẽ rất phức tạp nhưng pháp luật hợp đồng lại không bắt kịp thì sẽ dẫn đến tình trạng hổng, không có pháp luật điều chỉnh. Ngược lại khi điều kiện kinh tế – xã hội chậm phát triển, nền kinh tế vận hành theo cơ chế hành chính bao cấp, thì các nguyên tắc cơ bản của hợp đồng và yếu tố tự nguyện thoả thuận trong hợp đồng sẽ không được thể hiện và những quy định đó mãi mãi chỉ là quy định mà sẽ không thực hiện được trong thực tế. Trong điều kiện hiện nay của nước, các quy định của pháp luật về hợp đồng đã được hoàn thiện ở mức độ đáng kể. Bộ luật Dân sự 2005 ra đời đã thống nhất được các quan điểm và cách phân loại khác nhau về hợp đồng, xoá bỏ được việc phân tách giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế nhưng vẫn bảo đảm được tính ưu tiên của các hợp đồng thương mại, tạo ra được sự rành mạch giữa pháp luật về hợp đồng nói chung và pháp luật về hợp đồng chuyên ngành. Trong điều kiện nước ta đã là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng nhằm phù hợp với các yêu cầu của các hoạt động kinh doanh quốc tế và các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là hết sức cần thiết cho các doanh nghiệp. 1.3.4. Tính minh bạch Pháp luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong đời sống xã hội. Đối với vấn đề hợp đồng cũng vậy, các quan hệ hợp đồng luôn luôn phát triển theo sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội. Chính vì vậy, pháp luật về hợp đồng do nhà nước ban hành nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như bảo đảm các yêu cầu của nhà nước trong quan lý và định hướng sự phát triển của xã hội luôn luôn phải phản ánh đúng sự phát triển của các quan hệ xã hội. Trên cơ sở nhà nước đã ban hành pháp luật về hợp đồng phù hợp với các quan hệ hợp đồng đang tồn tại thì cần thiết
  • 28. phải công bố, công khai nội dung của các văn bản pháp luật tới mọi chủ thể trong xã hội thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Để bảo đảm tính minh bạch, pháp luật về hợp đồng phải có nội dung thật cụ thể, rõ ràng và tránh tình trạng đa nghĩa của từ ngữ. Quan hệ hợp đồng rất phong phú và đa dạng, pháp luật về hợp đồng được chứa đựng trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau (Bộ luật Dân sự, luật Thương mại, luật bảo hiểm….) sẽ rất khó khăn cho việc tìm hiểu đầy đủ và toàn diện của các chủ thể tham gia hợp đồng. Chính vì vậy, việc bảo đảm tính minh bạch của pháp luật về hợp đồng là hét sức cần thiết và quan trọng cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng. 1.3.5. Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh phải được xây dựng ở trình độ lập pháp cao Kỹ thuật lập pháp là một vấn đề rông lớn, phức tạp, trong đó có ba điểm quan trọng, cần thiết phải chú ý khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật là: Kỹ thuật lập pháp thể hiện ở những nguyên tắc tối ưu được vạch ra để áp dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Trình độ kỹ thuật lập pháp thể hiện ở việc xác định các cơ cấu của pháp luật. Các biểu đạt bằng ngôn ngữ trong pháp luật phải đảm bảo tính cô đọng, lôgíc, chính xác và một nghĩa. Hoàn thiện pháp luật hợp đồng ở nước ta là một tất yếu khách quan, xuất phát từ yêu cầu kinh tế –xã hội của đất nước trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên hoàn thiện pháp luật hợp đồng cần đáp ứng được mục đích là hỗ trợ, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia ký kết hợp đồng. Trên cơ sở những căn cứ khoa học, quán triệt, tuân thủ những nguyên tắc của hợp đồng có thể xây dựng một mô hình pháp luật hợp đồng phù hợp với điều kiện của đất nước ta hiện nay. Những nguyên tắc cơ bản đó là: hợp đồng phải mang tính tự nguyện, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các bên, việc ký kết hợp đồng phải được dân chủ, công khai, minh bạch. Trong quá trình hoàn thiện pháp luật hợp đồng, ngoài việc phải tuân thủ triệt để các nguyên tắc nêu trên thì ngôn ngữ trong các văn bản luật phải thật sự rõ ràng, chính
  • 29. xác không đa nghĩa. Có như vậy thì người tham gia hợp đồng mới dễ hiểu, dễ thực hiện vì chủ thể của hợp đồng rất đa dạng: có thể là người lao động phổ thông, trình độ còn hạn chế, cũng có thể là các đơn vị kinh doanh, đơn vị hành chính sự nghiệp. 1.3.6. Tính tương thích với các văn bản pháp luật quốc tế và Việt Nam đã tham gia ký kết và phê chuẩn Trong thời gian dài, trình độ xây dựng pháp luật và chất lượng pháp luật của chúng ta chưa theo kịp trình độ phát triển của đất nước và của thời đại. Điều này, một mặt cho chúng ta chịu hậu quả cho chính sách bao vây và cấm vận, không có điều kiện tiếp xúc với bên ngoài, hạn chế sự tiếp thu những tinh hoa và phát triển trong hệ thống pháp luật quốc tế; mặt khác, về chủ quan, chúng ta cũng chưa quan tâm đúng mức đến công tác lập pháp, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và chuyển hoá pháp luật quốc tế vào nội dung pháp luật trong nước nói riêng. Để hoàn thiện pháp luật hợp đồng thì chúng ta không thể không tham khảo quá trình xây dựng và phát triển về hợp đồng của các nước có nền lập pháp phát triển, các điều ước liên quan mà Việt Nam đã tham gia ký kết. Ngày nay, các quan hệ hợp đồng có vai trò quan trọng cho không những các chủ thể mà nó còn có vai trò quan trọng cho nhà nước vì nó gán liền với từng hoạt động của các chủ thể trong phạm vi nội bộ đơn vị và trong phạm vi một đát nước, phạm vi quốc tế. Chúng ta trong quá trình triền khai thực hiện pháp luật hợp đồng sẽ rất lợi nhuận vì chúng ta đi sau nên sẽ tham khảo, học hỏi kinh nghiệm của tổ chức quốc tế, cũng như những nước đã áp dụng pháp luật hợp đồng rất thành công. Việc tham khảo, và nếu trong trường hợp áp dụng, không chỉ là sự kế thừa các thành tựu và tiến bộ của hệ thống pháp lý văn minh nhân loại mà còn thực hiện sự giao hợp và tiếp cân co kế thừagiữa các quy định pháp luật trong nước với pháp luật quốc tế. Như vậy, pháp luật của chúng ta sẽ hoàn thiện hơn cả trong bối cảnh quốc gia và trong mối tương quan với pháp luật quốc tế về hợp đồng. Chương 2 Thực trạng pháp luật về hợp đồng
  • 30. ở Việt Nam hiện nay 1. lịch sử phát triển của pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam Trình bày tính lịch sử của một vấn đề là phải đề cập vấn đề đó trong một khoảng thời gian dài, cụ thể là phải nhiều năm, nhiều thập kỷ, hay nhiều thế kỷ. Trong suốt chiều dài lịch sử đó cần thiết phải nói rõ trình bày sự phát triển và nội dung cụ thể của từng thời kỳ. Đối với lịch sử hình thành của chế định hợp đồng ở Việt Nam, tác giả trình bày ở mức độ khái quát và phần chia thành một số giai đoạn nhất định. Cơ sở cho sự phân chia thành các giai đoạn là đánh giá sự phát triển của các quan hệ hợp đồng và sự hoàn thiện của pháp luật về hợp đồng được phân chia thành các giai đoạn như sau: 2.1.1 Giai đoạn trước năm 1995 Trong những năm đầu dành được chính quyền, pháp luật của Việt Nam dân chủ cộng hoà còn sử dụng nhiều hình thức pháp luật cũ, do vậy pháp luật hợp đồng cũng tồn tại trong nhiều văn bản pháp luật của giai đoạn Pháp thuộc để lại. Ngày 10/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 90/SL cho phép tạm sử dụng một số luật lệ hiện hành ở Bắc - Trung - Nam cho đến khi ban hành những bộ luật duy nhất cho toàn quốc nếu "những luật lệ ấy không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chỉnh thể dân chủ cộng hòa". Đồng thời, các Bộ luật Dân sự Nam Kỳ giản yếu 1883; Bộ dân luật Bắc Kỳ 1931 và Bộ dân luật Trung Kỳ (Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật) 1936 được tiếp tục thi hành. Như vậy, tại ba miền Bắc - Trung - Nam tồn tại ba bộ dân luật 1883, 1931, 1936. Tiếp đó, ngày 22/5/1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 97/SL "Sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật", việc này có ý nghĩa đặc biệt trong sự phát triển của luật dân sự. Sắc lệnh này một mặt không hủy bỏ nhưng quy định của các bộ dân luật cũ, mặt khác nó bổ sung, thay đổi làm cho các bộ luật của "đế quốc phong kiến" có nội dung mới, đáp ứng yêu cầu hiện tại của các vấn đề luật dân sự và đặc biệt là các vấn đề về hợp đồng, đem đến những biến đổi thực sự trong cách thức sinh hoạt và tư tưởng của nhân dân Việt Nam; đặt cơ sở, những nguyên tắc cơ bản cho sự hình thành và phát triển của luật dân sự - pháp luật dân sự của một nhà nước độc lập, có chủ quyền. "Khi lập ước
  • 31. mà có sự tổn thiệt do sự bóc lột của một bên vì điều kiện kinh tế của hai bên chênh lệch thì khế ước có thể bị coi là vô hiệu" (Điều 13)… Đây cũng là giai đoạn các đơn vị kinh tế cơ quan, xí nghiệp nhà nước, kinh tế thị trường tiến hành song song với hoạt động kinh tế tư nhân. Để thu hút mọi hoạt động kinh tế và xây dựng quan hệ sản xuất mới – qun hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Thủ tướng đã ban hành Nghị định 735/TTg ngày 10/4/1957, kèm theo nghị định là bản điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh. Nội dung chính của bản điều lệ quy định tính chất các quan hệ hợp đồng giữa các đơn vị kinh tế kinh doanh hợp tác xã, công ty hợp doanh, tư doanh Việt Nam và ngoại kiều kinh doanh trên đất Việt Nam. Nội dung chính của điều lệ kèm theo Nghị định 735/TTg đã đề cập tới hợp đồng kinh doanh, hợp đồng kinh doanh được thiết lập trên phương thức hai hay nhiều đơn vị kinh doanh tự nguyện ký kết với nhau để thực hiện các mục đích nhất định, nhằm phát triển kinh doanh công nghiệp và thương nghiệp, góp phầm thực hiện những công việc của nhà nước giao cho. Hợp đồng kinh doanh được xây dựng trên nguyên tắc các bên tự nguyện ký kết, cùng có lợi và đem lại lợi ích cho nền kinh tế quốc dân. Nội dung của điều lệ còn quy định thêm một bên tham gia ký kết hợp đồng kinh doanh là tư doanh, tuy nhiên các hợp đồng kinh doanh có tư doanh tham gia phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (thông thường là cơ quan công thương tỉnh hay ủy ban hành chính cấp huyện). Điều lệ tạm thời về hợp dòng kinh doanh của Nghị định 735/TTg ngày 10/04/1975 đã đóng góp một phần nhất định trong viẹc khai thác các thành phần kinh tế vào phát triển chung của nền kinh tế đất nước, cải tạo quan hệ cũ và từng bước xây dựng quan hệ mới Hiến pháp năm 1959 ra đời đánh dấu một giai đoạn phát triển của quá trình lập pháp Việt Nam, Hiến pháp của Nhà nước dân chủ cộng hòa, Hiến pháp của thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đã đặt ra yêu cầu "xoá bỏ lối quản lý hành chính cung cấp, thực hiện phương pháp quản lý theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, … xây dựng cách tổ chức quản lý của nền công nghiệp lớn nhằm thúc đẩy quá trình đưa nền kinh tế quốc dân từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa". Ngày 10/3/1975 Chính phủ đã ban hành bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh doanh (ban hành kèm theo Nghị định 54/CP ngày 10/3/1975 của hội đồng chính phủ). Nội dung chính của Nghị định
  • 32. 54/CP chủ yếu gồm các vấn đề: Vai trò của hợp đồng kinh tế, nguyên tắc ký kết, và thực hiện hợp đồng kinh tế, giải quyết tranh chấp và trách nhiệm do vi phạm chế độ hợp đồng … Đặc điểm chính của hợp đồng theo Nghị định 54/CP là khi ký kết hợp đồng phải bảo đảm hai yêu cầu: bảo đảm yếu tố trao đổi tài sản và bảo đảm tính kế hoạch của nhà nước. Việc quy định hợp đồng phải bảo đảm yếu tố kế hoạch của nhà nước đã làm cho bản chất của hợp đồng bị thay đổi và hợp đồng trở thành công cụ của nhà nước để can thiệp vào các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, nội dung quy định Nghị định 54/CP về hợp đồng cũng đã đáp ứng yêu cầu của công việc của công cuộc cải cách kinh tế, đưa quan hệ hợp đồng trở thành nề nếp. Từ đầu những năm 80, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để áp dụng các quan hệ hợp đồng. Đặc trưng của các quy định pháp luật áp dụng các quan hệ hợp đồng trong giai đoạn này là chịu ảnh hưởng sâu sắc của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp cao độ, biện pháp hành chính được sử dụng phổ biến làm sai lệch bản chất của các quan hệ hợp đồng với những đặc trưng của nó bình đẳng, tự định đoạt giữa các chủ thể. Phương pháp áp dụng của luật hành chính đã phổ cập trong các quan hệ dân sự. Từ giữa những năm 80, khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới kinh tế - xã hội. Nhìn chung, các văn bản này đã góp phần phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Bước đầu thể hiện được những nguyên tắc cơ bản của pháp luật hợp đồng là tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau phù hợp với thông lệ quốc tế trong giao lưu dân sự. Các văn bản ban hành trong giai đoạn này có tính hiệu lực tương đối cao thể hiện dưới dạng Luật, Pháp lệnh và các Nghị định hướng dẫn thi hành, các Luật và Pháp lệnh được Quốc hội và Hội đồng Nhà nước ban hành. Các văn bản pháp luật, Pháp lệnh Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam (1988): nội dung chính của pháp lệnh là quy định các điều kiện của các dây chuyền công nghệ khi chuyển vào Việt Nam, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (1989), Pháp lệnh Hợp đồng dân sự (1991). Đối với pháp lệnh hợp
  • 33. đồng kinh tế ở Việt Nam, nó đã thể chế hoá được những quan điểm và tư tưởng về đổi mới trong quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước, bảo đảm tính chất bình đẳng và tự nguyện khi ký kết hợp đồng kinh tế, tách các quan hệ hợp đồng kinh tế thành một loại hợp đồng độc lập và nhằm phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, (vì đây là giai đoạn nhà nước ta đã thực hiện chủ chương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, đây là giai đoạn thực hiện chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài và sự xuất hiện các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam). Việc ban hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã đánh dấu sự ra đời của loại hợp đồng mới trong hệ thống các loại hợp đồng đó là hợp đồng kinh tế " Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về viẹc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của bên đẻ thực hiện kế hoạch của mình" (Điều 1 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 25/09/1989). Pháp lệnh hợp đồng dân sự được ban hành đã cụ thể hoá các quan hệ hợp đồng dân sự và tách biệt nó với các hợp đồng kinh tế. 2.1.2 Giai đoạn từ 1996 đến 2005 Nhà nước ta ban hành Hiến pháp 1992 - Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, hàng loạt các văn bản pháp luật được ban hành, sửa đổi, áp dụng cho phù hợp với Hiến pháp. Bộ luật Dân sự được ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/7/1996. Sự ra đời của Bộ luật Dân sự năm 1996 là một bước phát triển rất tiến bộ của khoa học pháp lý nói chung và các quan hệ hợp đồng dân sự nói riêng cũng được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật ở cấp độ bộ luật, Trong Bộ luật dân sự có tới 204 điều quy định về hợp đồng bao gồm nhiều nội dung như: giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, sửa đổi chấm dứt hợp đồng và quy định nhiều loại hợp đồng thông dụng trong đời sống kinh tế. Bộ luật Dân sự năm 1996 đã đóng góp quan trong trong các giao dịch dân sự nói chung và hợp đồng nói riêng, tách biệt cụ thể gữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự. Luật Thương mại năm 1997, đã bổ sung những thiếu sót và bất cập của pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 như: chủ thể tham gia ký kết hợp đồng thương mại có thể là các cá nhân là thương nhân mà không cần thiết phải là
  • 34. pháp nhân, mở rộng hơn phạm vi hình thức của hợp đồng như: hợp đồn có thể ký kết qua fax, thư điện tử…. Như vậy, hệ thống pháp luật về hợp đồng trong giai đoạn này chủ yếu được quy định trong Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, luật Thương mại. Do tính đọc lập của Bộ luật Dân sự với Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Luật Thương mại, hợp đồng đã hình thành hai nhóm hợp đồng lớn đó là nhóm các hợp đồng dân sự và nhóm các hợp đồng kinh tế. Việc quy định các tiêu chí để quy định thế nào là hợp đồng kinh tế và thế nào là hợp đồng dân sự đã hình thành tác động tới tư duy pháp lý là phải phân biệt rành mạch giữa hai nhóm hợp đồng này trong các hoạt động tư pháp. Đây là một trong những điểm hạn chế và gây ra nhiều khó khăn cho việc xét xử khi có vi pham hợp đồng của các bên. 2.1.3. Giai đoạn từ năm 2006 tới nay Sự ra đời của Bộ luật Dân sự 2005 và có hiệu lực ngày 01/01/2006 đã chấm dứt sự tồn tại của khái niệm hợp đồng kinh tế, bãi bỏ các tiêu chí để quy định thế nào là hợp đồng kinh tế và thế nào là hợp đồng dân sự. Bộ luật Dân sự năm 2005 khắc phục được sự chồng chéo của các quy định pháp luật áp dụng quan hệ hợp đồng, và trở thành luật chung của pháp luật về hợp đồng. Các quy định pháp luật về hợp đồng được quy định trong bộ luật Dân sự năm 2005 được áp dụng đối với các quan hệ hợp đồng dân sự và các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh. Cùng với sự ra đời của Bộ luật Dân sự 2005 là Luật Thương mại 2005, đây là hai văn bản pháp luật có vị trí và vai trò quan trọng trong việc áp dụng các quan hệ hợp đồng. Luật Thương mại điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh nhưng đó thường là các quan hệ kinh doanh có tính thương mại chuyên biệt hay các quan hệ thương mại có yếu tố nước ngoài. Sự tồn tại song song của Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 không mang ý nghĩa tách biệt hợp đồng dân sự với hợp đồng trong kinh doanh mà sự tồn tại của nó vừa có tính lịch sử hệ thống pháp luật hợp đồng việt Nam vừa bảo đảm quan điểm của Đảng là thúc đẩy nhanh sự phát triển các quan hệ kinh tế nước ta. Với sự ra đời của Bộ luật Dân sự là một bước tiến quan trong và đóng góp to lớn đối với các quan hệ dân sự, kinh tế đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình lập pháp của Nhà nước ta. Bộ luật có tầm quan trọng "sau Hiến pháp" áp dụng các quan hệ hợp đồng rất đa dạng, phức tạp, làm nền tảng và định hướng cho việc phát triển các quan hệ dân sự, kinh tế, hôn nhân gia đình, lao động.
  • 35. Ngoài các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự, còn có nhiều văn bản pháp luật khác nhau chứa đựng các quy phạm pháp luật liên quan đến hợp đồng như: Bộ luật Hàng hải Việt Nam, Luật Thương mại, Luật xây dựng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật Giao thông đường thủy nội địa... 2.2 Thực trạng pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam hiện nay Pháp luật về hợp đồng bao gồm rất nhiều nội dung khác nhau, nhưng trong khuôn khổ luận văn này tác giả chỉ phân tích, đánh giá các vấn đề liên quan đến: Giao kết hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và xử lý hậu quả hợp đồng vô hiệu cũng như trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng. Trong từng nội dung, luận văn cố gắng chỉ ra các quy định mới của pháp luật về hợp đồng, đánh giá sự tác động của chúng tới thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng. Từ đó chỉ ra các điểm bất hợp lý trong cơ chế áp dụng pháp luật đối với hợp đồng trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 2.2.1. Giao kết hợp đồng Giao kết hợp đồng là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo những nguyên tắc và trình tự để qua đó xác lập với nhau các quyền, nghĩa vụ dân sự. 2.2.1.1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng Theo quy định tại Điều 389 Bộ luật Dân sự khi giao kết hợp đồng các chủ thể phải tuân theo các nguyên tắc sau đây: - Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội. Nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể thỏa mãn được các nhu cầu về đời sống vật chất cũng như tinh thần Bộ luật Dân sự cho phép, mọi chủ thể được quyền "tự do giao kết hợp đồng". Theo nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ tư cách chủ thể đều có quyền tham gia giao kết bất kỳ một hợp đồng nào, nếu họ muốn, mà không ai có quyền ngăn cản và mọi sự ngăn cản việc ký kết hợp đồng đều vô hiệu. Bằng ý chí tự do của mình, các chủ thể có quyền giao kết những hợp đồng dân sự đã được pháp luật quy định cụ thể cũng như những hợp đồng khác dù rằng pháp luật chưa quy định. Ngoài Bộ luật Dân sự, điều bốn của pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Điều 11 Luật Thương mại cũng đã quy
  • 36. định khá cụ thể vấn đề này. Cho dù Pháp lệnh hợp đồng kinh tế không còn hiệu lực, song giá trị về quyền tự do giao kết hợp đồng vẫn còn nguyên vẹn. Tuy nhiên, sự tự do ý chí đó phải nằm trong một khuôn khổ nhất định. Bên cạnh việc chú ý đến quyền lợi của mình, các chủ thể phải hướng tới việc bảo đảm quyền lợi của những người khác cũng như lợi ích của toàn xã hội. Vì vậy, tự do của mỗi chủ thể phải "không trái pháp luật, đạo đức xã hội". Nằm trong mối liên hệ tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ, mỗi một chủ thể vừa có quyền "tự do giao kết hợp đồng" vừa có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật và đạo đức xã hội. Lợi ích của cộng đồng (được quy định bằng pháp luật) và đạo đức xã hội được coi là "sự giới hạn" ý chí tự do của mỗi người chủ thể trong việc giao kết hợp đồng dân sự nói riêng, cũng như đối với mọi hành vi nói chung của họ. - Các bên tự nguyện và bình đẳng trong giao kết hợp đồng. Khoản 2 của Điều 389 Bộ luật Dân sự quy định đối với các chủ thể khi giao kết hợp đồng phải: "Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng". Nguyên tắc này thể hiện bản chất của quan hệ dân sự, quy luật giá trị đòi hỏi các bên khi thiết lập các quan hệ trao đổi phải bình đẳng với nhau. Không một ai được lấy lý do khác biệt về thành phần xã hội, dân tộc, giới tính, tôn giáo v.v... để làm biến dạng các quan hệ dân sự. Mặt khác, chỉ khi nào các bên bình đẳng với nhau về mọi phương diện trong giao kết hợp đồng, thì ý chí tự nguyện của các bên mới thật sự được bảo đảm. Vì vậy, theo nguyên tắc này, những hợp đồng được giao kết thiếu bình đẳng và không có sự tự nguyện của các bên sẽ không được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, đánh giá một hợp đồng có phải là ý chí tự nguyện của các bên hay không là một công việc tương đối phức tạp và khó khăn trong thực tế. Hợp đồng là sự thỏa thuận thống nhất ý chí của các chủ thể tham gia. Vì thế, muốn xem xét các chủ thể có tự nguyện trong giao kết hợp đồng hay không, cần phải dựa vào sự thống nhất biện chứng giữa hai phạm trù: ý chí và sự bày tỏ ý chí. Như chúng ta đã biết, ý chí là mong muốn chủ quan bên trong của mỗi chủ thể, nó phải được bày tỏ ra bên ngoài thông qua một hình thức nhất định. ý chí và sự bày tỏ ý chí là hai mặt của một vấn đề, chúng luôn có quan hệ mật thiết, gắn bó khăng khít với nhau.